- Trang Chủ
- Triết học
- ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC - CHƯƠNG II KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG Phần A
Xem mẫu
- ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC
CHƯƠNG TRÌNH CAO HỌC
CHƯƠNG II
KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG
Phần A
NGƯỜI BIÊN SOẠN
PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG
TS. LÊ HỮU ÁI
- NỘI DUNG CHƯƠNG II
A. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
B. TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ, TRUNG ĐẠI
C. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM
- A. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ , TRUNG ĐẠI
A.
I. Điều kiện ra đời, phát triển và những nét
I.
đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
1) Điều kiện ra đời
1)
- Điều kiện tự nhiên
Đi
Ấn Độ là một lục địa lớn ở Nam Á, có
những yếu tố địa lý trái ngược nhau: vừa
có núi cao, vừa có sông lớn; vừa có đồng
bằng phi nhiêu, vừa có sa mạc; vừa có
tuyết giá, vừa có nắng cháy nóng bức.
- - Điều kiện kinh tế, xã hội
+ Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp có sự phát triển mạnh. Nhiều
thành phố trở thành trung tâm thương nghiệp
quan trọng.
+ Sự phân biệt, cảnh áp bức đẳng cấp và
tôn giáo rất khắc nghiệt.
Bốn đẳng cấp chính:
- Brahmin, tức đẳng cấp giáo sĩ đạo Balamôn
- Kshatriya, đẳng cấp những người cai trị, chiến binh
- Vaishya, đẳng cấp điền chủ, thương nhân
- Shudra,, đẳng cấp những người lao động
Ngoài ra, còn có Chandala hay Pariah, là đẳng cấp những người cùng đinh,
đứng ngoài lề xã hội, không được coi là con người.
- - Về văn hóa: Người Ấn Độ có tư duy trừu
tượng cao.
Chữ viết xuất hiện rất sớm: tiếng Phạn
(Sanskrit), tiếng Pali. Hình thức sử thi và ca dao
xuất hiện sớm (Kinh Vêđa và hai thiên anh hùng
ca).
Người Ấn Độ cổ đại đã phát hiện ra chữ số
thập phân, cách tính số pi, mối quan hệ giữa các
cạnh tam giác vuông, biết làm lịch, giải thích các
hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, tìm ra nhiều
cây thuốc và viết sách về y học.
Nghệ thuật kiến trúc xây dựng chùa chiền độc
đáo, tinh tế.
- 2) Đặc điểm của triết học Ấn Độ
- Tập trung lý giải về cái khổ của cuộc đời
con người và con đường giải thoát.
- Khuynh hướng hướng nội: đi tìm nguồn
gốc của mọi đau khổ từ cái tâm, từ ham
muốn dục vọng, và con đường giải thoát
cũng từ cái tâm.
- Chịu ảnh hướng tôn giáo rất nặng, nên
tuyệt đối hóa đời sống tâm linh và không
tránh khỏi rơi vào ảo tưởng ở sự giải thoát.
- II) Quá trình hình thành và phát
triển của triết học Ấn Độ cổ, trung
đại
1) Các thời kỳ lịch sử của triết học
Ấn Độ
- Thời kỳ Vêđa (thế kỷ XV-VII TCN
- Thời kỳ Balamôn-Phật giáo (thế kỷ VI
TCN - VI SCN)
- Thời kỳ Hồi giáo xâm nhập (từ thế kỷ VII
SCN)
- 2) Tư tưởng triết học trong Vêđa
Vêđa (trong tiếng Phạn có nghĩa là tri
thức) là tập hợp những sáng tác dân gian
(ca dao, thơ phú, quan điểm, tập tục, lễ
nghi, thần chú, phù phép, cầu khấn ...)
lúc đầu truyền miệng về sau được ghi
lại bằng tiếng Phạn.
Vêđa gồm 4 tập chính:
- - Rig-Veda (1300-1000TCN) gồm 1028 khúc
hát nhằm ca tụng cầu nguyện công đức thần
thánh
- Sama-Veda, 1549 bài ca chầu khi hành lễ.
- Yajur-Veda, nghi thức cầu khấn, tế lễ dùng
cho các lễ sư.
- Atharva-Veda (900 TCN), 731 bài văn vần,
là những lời khấn bái có tính chất thần chú,
ma thuật, phù phép.
- Trong các bộ kinh Vêđa chủ yếu là tư
tưởng thần thoại.
Trong thế giới có 3 lực lượng: thần thánh
ngự trị thượng giới, con người ở trần gian.
quỷ ác ở hạ giới
Lúc đầu là tư tưởng đa thần. Về sau, mặc
dù vẫn còn nhiều thần, nhưng người theo
Đạo Balamôn chủ yếu thờ 3 vị thần chính:
+ Thần Brahma (sáng thế),
+ Thần Shiva (hủy diệt và sinh sản)
+ Thần Vishnu (duy trì sự tồn tại)
- Từ thế kỷ IV TCN trở đi, các kinh Vêđa được ghi lại
bằng tiếng Phạn (Sanskrit) có thêm các phần bình luận,
khái quát và phát triển các tư tưởng triết học và được in
thành nhiều bộ sách khác nhau:
- Samhita: gồm 4 kinh Vêđa căn bản
- Brahmana và Aryanika: đi sâu giải thích các nghi thức
tôn giáo phức tạp trong các kinh Vêđa.
- Upanishad (khoảng 600 TCN) được biên soạn vào
cuối thời kỳ Veđa cho nên nó còn có tên là Vedanta, nghĩa
là sự kết thúc của Veđa (sự hoàn chỉnh, hoàn thiện của tư
tưởng Veđa). Upanishad là bộ sách gồm nhiều quyển
trong đó tập trung lý giải các vấn đề triết học trong các
kinh Vêđa: như vấn đề nguồn gốc của vũ trụ và con
người, nguyên nhân đau khổ và con đường giải thoát.
- Đó là những tư tưởng:
- Brahman (linh hồn vũ trụ tối cao) là thực tại
duy nhất, tồn tại vĩnh viễn bất diệt, từ đó sinh ra
tất cả và tất cả cuối cùng sẽ trở về với Brahman.
- Atman (linh hồn cá thể) là một bộ phận của
linh hồn vũ trụ, cũng bất tử và vĩnh cửu như
Brahman.
Sau khi chết, linh hồn tách khỏi cơ thể và đầu
thai sang một cơ thể khác.
Con người chịu hậu quả hành vi của mình goi là
nghiệp (karma).
Do ham muốn dục vọng và hành động của con
người nhằm thỏa mãn chúng đã gây ra hậu quả
- Do vậy linh hồn cứ bị giam hãm vào hết
thể xác này đến thể xác khác trong vòng luân
hồi bất tận (samsara =bánh xe quay tròn).
Để giải thoát cho linh hồn khỏi sự giam
hãm, chi phối bởi nhục dục, bởi thế giới hiện
tượng, con người phải dốc lòng tu luyện, từ
bỏ ham muốn dục vọng, nhận thức được bản
chất của thế giới và của chính mình.
Mục đích cao nhất là sự siêu thoát và sự hòa
nhập của linh hồn cá thể với linh hồn vũ trụ
tối cao, đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng.
- 3) Các trường phái triết học Ấn Độ
trong thời kỳ cổ đại
♦ 6 hệ thống triết học chính thống: Samkhia,
Mimansa, Nyaya, Veisesika,Yoga, Vedanta
♦ 3 hệ thống không chính thống: (bị coi là tà
giáo vì không thừa nhận Brahman, atman và
uy quyền của Kinh Vêđa): Lokayata, Đạo
Jaina, Phật giáo
- - Yoga là trường phái triết học tôn giáo
chủ trương tu luyện bằng phương pháp
luyện tập cơ thể, dùng ý chí để điều chỉnh,
kiềm chế những nhu cầu nhục dục với mục
đích đạt đến sự siêu thoát (sự giải thoát linh
hồn khỏi sự ràng buộc của cơ thể).
Luyện Yoga cần phải kiên trì, lâu dài, phải
thực hiện khổ hạnh, như nhịn ăn.
Phương pháp Yoga được vận dụng trong
nhiều trường phái tôn giáo khác ở Ấn Độ cổ
đại.
- - Vedanta ra đời trên cơ sở kinh Upanishad, là
trường phái triết học chính thống của đạo
Balamôn.
Cũng giống như Mimansa, Vedanta có mục đích
cơ bản là giải thích Vêđa, nhưng tập trung giải
thích và chứng minh sự tồn tại của Brahman.
Brahman là thực tại duy nhất, tồn tại vĩnh cửu,
còn thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh do sự “vô
minh” của con người sinh ra.
Linh hồn cá thể (Atman) chỉ là hiện thân của
Brahman, bị giam hãm trong thể xác của con
người. Để giải thoát cho linh hồn, con người cần
phải dốc lòng tu luyện, từ bỏ những ham muốn
- - Lokayata (Còn gọi là Carvaka hay Charvaka) là
trường phái triết học duy vật, vô thần triệt để. Các tác
phẩm của trường phái này đã thất lạc, chỉ còn lại những
đoạn ngắn. Lokayata không thừa nhận Brahman, atman.
Thế giới do những yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió
tạo nên. Theo Lokayata , “Không có thiên đường, không có
sự giải thoát, không có linh hồn ở thế giới khác; không có
nghiệp báo”. Cơ thể do 4 yếu tố vật chất: đất, nước, lửa,
giáo tạo nên; ý thức là thuộc tính của cơ thể, giống như
gây say là đặc tính của rượu, do đó khi cơ thể chết đi thì ý
thức cũng không còn.
Lokayata chế giễu sự giải thoát, phê phán tu luyên khổ
hạnh, chủ trương để cho mọi người sống vui vẻ và
hưởng thụ tất cả những lạc thú của cuộc đời. Lokayata
cũng lên án chế độ đẳng cấp, đòi tự do tư tưởng và bình
- - Jaina là một trường phái triết học tôn giáo có
khuynh hướng vô thần, cho rằng trong thế giới có hai
thực thể vật chất và linh hồn độc lập với nhau và không
do ai sáng tạo ra. Bất cứ vật thể nào cũng có linh hồn.
Linh hồn là vô số và toàn năng, nhưng bị hạn chế bởi
thể xác. Để cho linh hồn được giải thoát khỏi những
ham muốn nhục dục của cơ thể thì con người phải tu
luyện, không sát sinh, sống khổ hạnh, tuân theo các
nguyên tắc, giáo luật của Đạo Jaina (5 lời nguyền
chính): không dùng bạo lực, không nói dối, giữ tiết dục
(không quan hệ tính dục), không trộm cắp, không sở
hữu của cải.
Về sau, Đạo Jaina phân hóa thành hai tông phái: một
tông phái chủ trương không bận quần áo và một tông
phái chủ trương bận quần áo trắng. Đạo Jaina hiện nay
- PHẬT GIÁO:
Phật giáo ra đời vào khoảng cuối thế kỷ VI
TCN, trong làn sóng đấu tranh chống lại Đạo
Balamôn, phản đối cảnh phân biệt đẳng cấp, đòi
bình đẳng xã hội.
Người sáng lập là Siddharta (Tất đạt đa, 563-
483TCN), được người đời tôn là Sakyamuni
(Thích ca muni).
Năm 29 tuổi, ông xuất gia đi tìm con đường giải
thoát. Sau khi tu luyện giác ngộ (năm 35 tuổi), ông
lấy hiệu là Buddha (Phật).
nguon tai.lieu . vn