Xem mẫu
- Tiểu luận lịch sử Đảng
Đề bài:
Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và CNXH trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Bài làm:
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam.
Đó là bài học được Đại hội lần thứ IV của Đảng rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng nước ta,
được các Đại hội lần thứ V, VI của Đảng tiếp tục khẳng định và đặc biệt được Đại hội lần thứ VII của
Đảng phát triển với nội dung mới qua tổng kết kinh nghiệm 15 nǎm tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên phạm vi cả nước.
Bài học trên là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của thời đại cũng như của nước ta, không những
chỉ ra nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây, mà còn chỉ ra những yếu tố bảo đảm tính
đúng đắn của đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
NĂM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ CẢ
NƯỚC TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN (1930 - 1954)
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều có quan điểm riêng về vấn đề dân tộc.
Vào những thế kỷ XVI, XVII, XVIII, dân tộc gắn với giai cấp tư sản. Lúc đó, giai cấp tư sản giương cao
ngọn cờ dân tộc chống chế độ phong kiến lỗi thời. Thắng lợi của phong trào dân tộc lúc đó là thắng lợi
của chủ nghĩa dân tộc tư sản, thắng lợi của chủ nghĩa tư bản.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản chẳng những là kẻ bóc lột
nhân dân trong nước, mà còn là kẻ thống trị, áp bức, bóc lột lớn nhất đối với nhiều dân tộc trên thế giới.
Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười, giai cấp công nhân, đại biểu cho phương thức sản xuất
mới, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, là giai cấp duy nhất có khả nǎng giải quyết vấn đề dân
tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích chân chính của dân tộc. Ngày nay, dân tộc gắn liền với
giai cấp công nhân, với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nước ta cũng chịu sự tác động của xu thế chung đó.
Xác định đúng địa vị lịch sử của giai cấp công nhân là điều kiện cốt yếu để kết hợp yếu tố dân tộc với
yếu tố giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sớm điều đó. Trong bài báo Cuộc kháng Pháp, Người viết: Chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới".
Vào những nǎm 20 của thế kỷ này, ở Việt Nam đã có cuộc đấu tranh giữa tổ chức tiền thân của Đảng
với phong trào yêu nước mang tư tưởng quốc gia về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
Nhận rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu
và các lãnh tụ nông dân, biết những hạn chế của những cuộc cách mạng dân chủ tư sản, hơn nữa với sức
mạnh thuyết phục của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cách mạng kiểu mới, qua cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia, phần lớn hội viên, đảng viên của Tâm Tâm Xã, Tân Việt
đã hǎng hái tiếp thu tư tưởng cứu nước của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Vì vậy, phong trào công nhân
nhanh chóng trở thành phong trào chính trị độc lập và phong trào yêu nước với nội dung mới đã phát triển
mạnh mẽ vào nǎm 1929 dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 nǎm 1930.
Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời là biểu hiện đầy đủ về sự thống nhất giữa xu hướng phát
triển chung của thời đại và của riêng nước ta; đáp ứng đúng đòi hỏi của tư tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội gắn liền với nhau, đồng thời là lực lượng duy nhất có khả nǎng lãnh đạo thực hiện thắng
lợi tư tưởng đó.
- Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương chính trị ,
Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: trước hết là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản
chủ nghĩa, mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã giành
được những thắng lợi vĩ đại.
Với đường lối chiến lược đó, Đảng đã nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tính liên tục và tính
giai đoạn của cách mạng, khéo giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng.
Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, trong khi tập trung sức người, sức của để hoàn thành nhiệm vụ
chống đế quốc, chống phong kiến, Đảng vẫn không quên tuyên truyền phương hướng tiến lên chủ nghĩa
xã hội và khi có điều kiện (lúc có vùng giải phóng ổn định), Đảng bắt tay ngay xây dựng một số cơ sở
kinh tế, vừa phục vụ giai đoạn trước, vừa gây mầm mống thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa thuộc giai
đoạn cách mạng sau. Phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội tuy là việc làm trong tương lai, nhưng
tuyên truyền và quán triệt tư tưởng đó lại có tác dụng làm tǎng thêm sức mạnh cho hiện tại vì nó đáp ứng
từng bước yêu cầu của quần chúng đông đảo là kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, mà
trước hết là công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Sức mạnh của cách mạng dân tộc dân chủ bắt nguồn từ những nhân tố đó và chính những nhân tố đó giữ
vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng.
Đường lối nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng đã khắc phục những hạn
chế của nhiều nhà yêu nước trước đây là chưa thấy rõ con đường tiến lên của dân tộc. Chính hạn chế đó
là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào giải phóng dân tộc kiểu cũ ở nước ta.
Nhiệm vụ dân tộc dân chủ được giải quyết càng triệt để thì những điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội
càng được tạo ra đầy đủ. Bởi vì, như Lênin nói, "không thể có một chủ nghĩa xã hội thắng lợi mà lại
không thực hiện dân chủ hoàn toàn, giai cấp vô sản cũng không thể nào chuẩn bị để chiến thắng giai cấp
tư sản được nếu nó không tiến hành một cuộc đấu tranh toàn diện, triệt để và cách mạng để giành dân
chủ".
Giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng là một vấn đề quan trọng nhưng chưa phải là vấn
đề khó nhất. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến
để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc mới là vấn đề phức tạp. Đảng phải mất một thời gian tương
đối dài mới đạt được sự nhất trí cao.
Về mặt chiến lược, nhiều vǎn kiện của Đảng viết: Dưới thời Pháp thuộc, xã hội Việt Nam có hai mâu
thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu
là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 90% số dân, chủ nghĩa
đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân dân, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng tha
thiết và trực tiếp của nông dân là dân tộc độc lập, người cày có ruộng.
Từ sự phân tích trên, Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: đánh đuổi bọn đế
quốc xâm lược và thống trị, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông
dân. Hai nhiệm vụ đó phải được tiến hành khǎng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tư tưởng
đúng đắn.
Về chỉ đạo chiến lược, Đảng phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ
quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ.
Trong các vǎn kiện có tính chất cương lĩnh, chỉ có Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Chủ tịch
- Hồ Chí Minh soạn thảo là đáp ứng được điều đó. Trong khi không xa rời mục tiêu chiến lược, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương tập trung lực lượng toàn dân chống đế quốc và đại địa chủ, còn đối với "trung
tiểu địa chủ... thì phải lợi dụng, chí ít làm cho họ trung lập". Về sau, Đảng còn thu hẹp hơn diện đấu
tranh để thực hiện sách lược thêm bạn, bớt thù.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phản ánh đúng mâu thuẫn chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam là
mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và tay sai.
Tư tưởng đó đã đáp ứng yêu cầu nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng đánh mạnh vào âm
mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc, sử dụng chủ nghĩa quốc gia chia rẽ dân tộc, chống lại đường lối
đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đúng đắn và sáng tạo nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu
tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội. Sự ra đời một tư duy mới thường gặp trắc trở.
Trong mấy nǎm đầu của lịch sử Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không được nhiều đồng chí
ở trong cũng như ở ngoài nước chấp nhận và bị thay thế bằng một đường lối "cứng rắn" dựa trên cơ sở
đơn thuần vận dụng hay quá nhấn mạnh lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Thực tiễn ngày càng chỉ rõ quan điểm "cứng rắn" đó không phù hợp với lý luận và thực tiễn của cách
mạng nước ta. Vừa mới ra đời, Đảng đã có thành tích lớn là phát động được cao trào cách mạng của công
- nông trong cả nước kéo dài hơn một nǎm, nhưng cao trào đó cũng bộc lộ tính hẹp hòi, "tả" khuynh trong
công tác vận động cách mạng.
Từ nǎm 1939 trở đi, tư tưởng chiến lược cách mạng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh được toàn Đảng
chấp nhận và phát triển thêm.
Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đưa ra một luận điểm
mới: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại được".
Từ đây, Mặt trận Việt Minh được thành lập, Mặt trận có lực lượng lớn và ảnh hưởng mạnh, đã góp
phần quan trọng vào việc phát động cuộc Tổng khởi nghĩa mang tính toàn dân dẫn đến thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám, tiếp đến Mặt trận Liên Việt, một trong những lực lượng bảo vệ thắng lợi chính
quyền non trẻ và là cơ sở của cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn chống thực dân Pháp xâm lược.
Để phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những yêu cầu dân
chủ đối với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng
dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay khái niệm "cách mạng tư sản dân quyền" bằng
khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân".
Nhận thức của Đảng đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện, Đảng đã phạm sai lầm hữu
khuynh, có lúc quá chú trọng tranh thủ tầng lớp trên, coi nhẹ phát triển lực lượng công nhân, và sai lầm tả
khuynh trong cải cách ruộng đất.
Từ những thành công cũng như sai lầm nghiêm trọng dù là tạm thời, Đảng đã rút ra bài học quan trọng về
mối quan hệ giữa chiến lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: "nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc
và dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và "người cày có ruộng", Đảng ta đã lôi cuốn
được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên được các tầng lớp nhân dân khác cùng với
công, nông bước lên trận tuyến cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Trong quá trình cách mạng,
những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa
trên sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và
phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng lúc một. Song, dù ở
bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm
cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
- kiến".
Như vậy về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn, diễn đạt rõ
ràng hơn, có tính lý luận sâu sắc và bảo đảm cho Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh
đạo hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ CẢ
NƯỚC TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG (1954-1975)
Từ nǎm 1954, hoà bình được lập lại, đặc điểm lớn nhất của nước ta là tạm thời bị chia cắt làm hai miền,
với hai chế độ chính trị đối lập.
Đảng ta nhận định rằng nếu trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, việc kết hợp đúng đắn
nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến có tác dụng góp phần quyết định thắng lợi, thì
trong thời kỳ mới, việc kết hợp đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước cũng có tác dụng quyết định đến thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Đảng ta phải giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách mạng ở hai miền trong lúc trên thế giới
chưa có tiền lệ giải quyết thành công vấn đề này. Đó cũng là vấn đề quan hệ giữa hoà bình và cách mạng
nổi lên thành vấn đề lý luận và thực tiễn nóng hổi, trong lúc chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc đang
làm cho tình hình thêm phức tạp.
Bên cạnh những khó khǎn, cách mạng Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi cơ bản: cách mạng nước ta
đang ở thế thắng, phong trào giải phóng dân tộc đã đánh đổ từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc; lúc đó hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang là lực lượng hùng mạnh.
Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, với lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc
tế, Đảng ta đã từng bước giải quyết mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã quyết định đường lối cách mạng chung của
cả nước:
- "Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất
nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định miền Bắc xã hội chủ nghĩa giữ vai trò
quyết định nhất của sự nghiệp cách mạng cả nước và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, còn
cách mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua thực
hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả nước là hoàn
thành độc lập, thống nhất đất nước.
Bởi vậy, Đảng ta coi quan điểm chờ miền Nam hoàn toàn giải phóng, rồi cả nước cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội là không đúng.
Đường lối trên biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Lý luận cũng như thực tiễn
chứng minh đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là đúng đắn.
Hai chiến lược đó chẳng những không mâu thuẫn mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Quá trình chỉ đạo cách mạng ở hai miền cũng là quá trình Đảng ta cụ thể hoá thêm tư tưởng chiến lược
của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III.
Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng không chỉ cǎn cứ vào
- tình hình miền Bắc, mà còn cǎn cứ cả vào tình hình miền Nam. Đảng đề ra những chủ trương chẳng
những đáp ứng nguyện vọng của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam, mà còn tranh thủ được sự
đồng tình ủng hộ của tầng lớp trên ở miền Nam có tinh thần dân tộc, mở rộng mặt trận dân tộc giải
phóng. Bằng công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội ở miền Bắc, vừa bảo đảm đời sống cho nhân dân miền
Bắc, vừa tǎng cường lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện cho cách mạng miền Nam.
Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam đấu tranh chống những thủ đoạn
xâm lược, chiến tranh chống phá của đế quốc Mỹ ở miền Nam và cả ở miền Bắc.
Đảng giáo dục nhân dân miền Nam nhận rõ vị trí quan trọng của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam
là: trực tiếp làm thất bại mọi chính sách xâm lược và nô dịch của đế quốc Mỹ và góp phần tích cực bảo
vệ miền Bắc, bảo vệ cǎn cứ địa cách mạng của cả nước, tạo điều kiện cho miền Bắc giữ được hoà
bình để tiến hành thắng lợi sự nghiệp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong khi đề ra nhiệm vụ, phương pháp cách mạng ở miền Nam cũng như khi quyết định mở những trận
quyết chiến chiến lược, Đảng phải cǎn cứ vào tình hình miền Nam và cả tình hình miền Bắc, xem xét tác
động của những thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với miền Nam và cả đối với miền Bắc.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng mọi mặt của miền Bắc sẽ được tǎng cường nhanh chóng. Đảng có
thể lãnh đạo nền kinh tế theo hướng giải quyết khéo mâu thuẫn giữa sức người, sức của có hạn với yêu
cầu ngày càng lớn của sự nghiệp cách mạng của hai miền.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa có lực lượng vững mạnh mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ cǎn cứ địa của cả
nước, đủ sức tự bảo vệ, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, có đủ
điều kiện chi viện cho cách mạng miền Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước Lào
và Campuchia anh em.
Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở
miền Nam làm cho thế và lực của cách mạng cả nước cũng như của miền Nam không ngừng tǎng lên.
Nhờ vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến công địch,
đánh bại mọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai.
Kẻ địch cũng thấy được mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Chúng đánh phá miền Bắc, đặc biệt là
đánh vào các đường giao thông, các cơ sở kinh tế; xuyên tạc và lu loa rằng miền Bắc "xâm lược miền
Nam", v.v. chính là vì chúng nhận rõ vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chúng phải đối phó trong
thế thua ở miền Nam.
Đảng nhận định rằng, âm mưu và hành động phá hoại miền Bắc của địch chỉ có thể chấm dứt chừng nào
miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Nhờ nhận định đúng đắn đó, Đảng ta luôn luôn sáng suốt, chủ
động trong mọi tình huống.
Trong quá trình chỉ đạo cách mạng, Đảng đưa ra nhiều nhận định, trong đó có hai nhận định thể hiện sâu
sắc nhất việc Đảng nắm vững mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.
Một là, tháng 3-1964, trong Hội nghị chính trị đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi: "Mỗi người làm
việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt".
Hai là, cuối nǎm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam, Nghị quyết lần thứ 12 của Trung
ương Đảng nêu cao quyết tâm giữ vững chiến lược tiến công, giữ thế chủ động trên chiến trường và
nhất là kiềm chế và thắng địch ở miền Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho phép Đảng ta rút ra những kết luận quan
trọng:
- "Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng
được tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau".
- - Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đảng khẳng định: "Không thể
nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, suốt mười sáu nǎm qua, luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược". Dù có những
sai lầm, khuyết điểm trong quá trình chỉ đạo thực hiện do hạn chế lịch sử, chúng ta vẫn thấy kết luận
trên của Đảng là thoả đáng.
Đảng cũng kết luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp
đối với việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai.
Đi đôi với việc coi trọng củng cố và bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc, nhân tố thường xuyên quyết
định thắng lợi của chiến tranh, Đảng hết sức coi trọng việc xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ở
miền Nam.
Nhờ đường lối cứu nước đúng đắn, tinh thần hy sinh anh dũng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân
dân, Đảng ta đã phát huy cao độ nghị lực chiến đấu phi thường và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta,
khai thác những tinh hoa trong truyền thống bốn nghìn nǎm của dân tộc.
Từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng, Đảng ta đã giải quyết sáng
tạo một loạt vấn đề lớn như đẩy mạnh cách mạng và bảo vệ hoà bình thế giới, ở khu vực và hoà bình
tương đối ở ngay miền Bắc; giữa tiến công và bảo vệ...; bác bỏ những quan điểm hữu khuynh và phiêu
lưu.
Đảng ta có khả nǎng và có điều kiện giải quyết vấn đề trên do đã từng hoạt động trong những hoàn cảnh
đặc biệt. "Một Đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời bị chia cắt làm đôi, tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược khác nhau, đó là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta
từ tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975".
Cách mạng Việt Nam đã chứng minh một tư tưởng lớn của thời đại ngày nay là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội gắn liền với nhau và bằng kinh nghiệm của mình, cách mạng nước ta đã góp phần làm giàu
thêm nội dung kết luận trên.
Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bài học quan trọng của Đảng. Đảng tiếp tục
quán triệt bài học đó trong giai đoạn lịch sử mới.
NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ CẢ
NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng đã xác định cả nước chuyển sang giai đoạn
mới.
Việc chuyển giai đoạn cách mạng có tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng việc làm đó không đơn giản. Mỗi
nước có cách giải quyết riêng, không có một khuôn mẫu định trước. Tất cả tuỳ thuộc vào tương quan lực
lượng giữa cách mạng và các thế lực cản trở.
Lênin nói: Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ chiếu đúng theo lực lượng của chúng
ta, theo lực lượng của giai cấp vô sản giác ngộ và có tổ chức mà tiến ngay lên con đường cách mạng xã
hội chủ nghĩa". Người lại nói: Chúng ta chỉ có thể nói và chỉ nói một điểm là: chúng ta sẽ dốc toàn lực
lượng ra giúp đỡ nông dân thực hiện cách mạng dân chủ để cho chúng ta, chính đảng của giai cấp vô sản
chúng ta ngày càng được dễ dàng hơn trong việc chuyển hết sức nhanh sang một nhiệm vụ mới và cao
hơn là: cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin, dựa vào thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng nhận định: "Trong
thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai
cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng
- là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội,
sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản ".
Tất nhiên, việc chuyển cách mạng sang giai đoạn mới và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn
không đồng nghĩa với nhau.
Những nǎm gần đây, tình hình quốc tế chuyển biến rất phức tạp. Trước sau như một, Đảng ta và nhân
dân ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi
mới.
Đại hội lần thứ VII của Đảng nêu quyết tâm: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Bởi vì: "Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc".
Để thực hiện quyết tâm đó, việc làm đầu tiên của Đảng là đánh giá một cách khách quan những thuận lợi
và khó khǎn của tình hình đất nước và tình hình thế giới. Đảng phải mất một thời gian mới đi đến những
nhận định tương đối đầy đủ.
Sức mạnh của thời đại trong giai đoạn hiện nay là sức mạnh của quy luật tiến hoá lịch sử; là cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại; là xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới; là các lực lượng
đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, v.v.. Loài người cuối cùng nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, dù lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co.
Sức mạnh của dân tộc là: chính quyền thuộc về nhân dân; nước nhà đi vào giai đoạn hoà bình xây dựng;
dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn,
cần cù lao động và sáng tạo; chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất ban đầu; tài nguyên thiên
nhiên nước ta tương đối phong phú, đa dạng; nước ta ở vào khu vực phát triển kinh tế nǎng động, lại
nằm trên các tuyến giao thông quốc tế quan trọng.
Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định mục tiêu và giải pháp chiến lược, những điều kiện tiên quyết
để biến tiềm nǎng thành hiện thực, trong đó có nhiều điểm đổi mới phải quán triệt.
Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng.
Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng
cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chính quyền và các thành quả cách
mạng.
Xây dựng một nền vǎn hoá mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung
nhân đạo, dân chủ, tiến bộ.
Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, kết hợp
tốt giữa các lợi ích: cá nhân, tập thể và xã hội.
Hình thành một cộng đồng xã hội Việt Nam, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ,
quyền lợi chính đáng.
Không ngừng củng cố, tǎng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế.
- Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực hiện chính sách đối ngoại nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết nhiều vấn đề khác có lợi ích toàn cầu.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện quan trọng nhất của việc kết hợp, nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Những tư tưởng chiến lược nói trên của Đảng là đúng đắn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
cụ thể hoá và hoàn chỉnh những tư tưởng đó nhằm khai thác đầy đủ nhất sức mạnh của độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Đường lối kết hợp giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một bài học lớn của Đảng
ta. Với đường lối đó, Đảng ta góp phần bảo vệ tính trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc sôvanh. Nhờ lực lượng hùng hậu do đường lối này đưa lại, quân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được thắng lợi trọn vẹn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Ngày nay, tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung mới, Đảng sẽ
tiếp tục tạo ra lực lượng lớn mạnh bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn cách
mạng hiện nay là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
nguon tai.lieu . vn