Xem mẫu

  1. Nguyễn Hồng Quỳnh 1 Lời mở đầu Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển công nghiệp để đến năm 2020 trở thành một nước cơ bản là công nghiệp. Ngành thép là một ngành công nghiệp nặng then chốt trong nền kinh tế quốc dân, là đ ầu vào cho rất nhiều các ngành công nghiệp khác.Thép được đánh giá là v ật tư chiến lược không thể thiếu của nhiều ngành công nghiệp và xây dựng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH 1 đất nước. Ngành thép liên quan tới rất nhiều ngành kinh tế khác như khai khoáng (than, dầu, khí đốt, quặng sắt, ngành điện…). Ngành thép cũng liên quan đến các ngành sử dụng thép làm nguyên liệu, vật tư để phục vụ cho hoạt động phát triển sản xuất của mình như: xây dựng, đồ gia dụng, giao thông vận tải… Ngoài việc là vật liệu trực tiếp cho các ngành, thép còn có vai trò gián tiếp trong ngành phát triển nông nghiệp thông qua tác động vào ngành công nghiệp chế tạo máy móc thiết bị vật tư cho nông nghi ệp. Một vai trò quan trọng không thể không kể đến là thép phục vụ cho công nghiệp quốc phòng.Ngoài ra ngành thép góp phần giải quy ết vi ệc làm cho hàng chục vạn lao động. Như vậy, thép là nguồn vật liệu chính để sản xuất các t ư li ệu s ản xuất và tư liệu tiêu dùng. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong vi ệc phát triển các ngành có liên quan. Trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang trong công cuộc CNH-HĐH nhu cầu về xây dựng cơ s ở h ạ t ầng và tốc độ đô thị hóa gia tăng mạnh mẽ thì thép trở thành v ật li ệu ngày càng quan trọng và phổ biến. Ngành thép trong thời gian qua đã đạt được một số thành tich đáng kể. Nhưng bên cạnh đó còn nhiều hạn chế chưa được khắc phục. Do đó em chọn đề tài này để phân tích về thực trạng phát tri ển c ủa ngành thép từ đó phân tích một số giải pháp phát triển ngành thép tuy nhiên đ ề án vẫn còn nhiều thiếu sót. Và em xin chân thành cảm ơn th ầy giáo Tr ương Đức Lực đã giúp đỡ em tận tình để hoàn thiện đề án này. Em xin c ảm ơn! Đề án môn học chuyên ngành
  2. Nguyễn Hồng Quỳnh 2 I. Thực trạng ngành công nghiệp thép Việt Nam. 1. Lịch sử hình thành và phát triển. Ngành thép Việt Nam được xây dựng từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20. Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên (Trung Quốc giúp) cho ra lò mẻ gang đầu tiên vào năm 1963. Song do chiến tranh và khó khăn nhiều mặt, 15 năm sau, khu liên hợp gang thép Thái Nguyên mới có sản phẩm thép cán. Năm 1975, nhà máy luyện cán thép Gia Sàng do Đ ức giúp đã đi vào sản xuất. Công suất thiết kế của cả khu liên h ợp gang thép Thái Nguyên lên đến 10 vạn tấn/năm (T/n). Từ 1976-1989, ngành thép gặp nhiều khó khăn do kinh tế đất nước khủng hoảng và nguồn thép từ Liên Xô và các nước XHCN 2 vẫn còn dồi dào nên ngành thép không phát triển, chỉ duy trì mức sản lượng 40.000- 85.000 Tấn/năm. Năm 1989-1995, thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước, ngành thép bắt đầu có tăng trưởng, sản lượng thép trong nước đã vượt ngưỡng 100.000 T/n. Năm 1990, Tổng công ty thép Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nặng được thành lập, thống nhất quản lý ngành sản xuất thép trong cả nước. Đây là thời kỳ phát triển sôi động, nhiều dự án đầu tư chiều sâu và liên doanh với nước ngoài được thực hiện. Các ngành và các thành ph ần kinh tế khác đua nhau làm thép mini. Sản lượng thép cán năm 1995 đã tăng gấp 4 lần so với năm 1990, đạt 450.000 T/n và bằng mức Liên Xô cung cấp cho ta hàng năm trước 1990. Tháng 4/1995, Tổng công ty thép Việt Nam theo mô hình Tổng công ty 91 được thành lập trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty thép Vi ệt Nam thuộc Bộ Công nghiệp và Tổng công ty kim khí thuộc Bộ th ương mại. Thời kỳ 1996-2003 ngành thép vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá cao, tiếp tục được đầu tư mới và đầu tư chiều sâu, đã xây dựng và đưa vào hoạt động nhiều dự án liên doanh. Sản lượng thép cả nước trong năm 2002 đã đạt 2,38 triệu tấn. Đây là thời kỳ có tốc độ tăng sản lượng mạnh nhất. Đề án môn học chuyên ngành
  3. Nguyễn Hồng Quỳnh 3 Giai đoạn 2003-2005, nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được thành lập, ngành thép Việt Nam th ực s ự phát triển mạnh mẽ với tổng công suất lên tới trên 6 triệu T/n. 2. Cơ cấu ngành. Theo sản phẩm: Về cơ bản, sản phẩm thép gồm 2 loại là thép dài và thép dẹt. Hiện nay Việt Nam đang mất cân đối trong sản xuất 2 loại thép trên. Thép dài là các loại thép dùng trong ngành xây dựng nh ư thép thanh, thép cuộn. Hầu hết các nhà máy cán thép ở Vi ệt Nam ch ỉ s ản xu ất các loại thép dài, các sản phẩm thông thường như thép thanh tròn trơn, thép vằn D10-D41 ,thép cuộn f6-f10 và một số loại thép hình cỡ vừa và nhỏ phục vụ cho xây dựng và gia công. Các loại thép dài cỡ lớn (lớn hơn D41) phục vụ cho xây dựng các công trình lớn hiện vẫn ch ưa t ự sản xuất được mà phải nhập khẩu từ nước ngoài. Công suất cán thép dài của Việt Nam hiện nay lên trên 6 triệu tấn, nghĩa là gần gấp đôi nhu cầu. Thép dẹt sử dụng trong công nghiệp như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các loại máy móc thiết bị. Từ năm 2006 trở về trước nước ta không có doanh nghiệp nào sản xuất thép dẹt. Năm 2007 có 4 doanh nghiệp sản xuất thép tấm đi vào hoạt động là Nhà máy thép tấm Phú Mỹ (thép cán nguội) có công suất 0,25 triệu tấn, công ty Sunsco (thép cán nguội) với công suất 0,2 triệu tấn, công ty Tôn Hoa Sen công suất 0,18 triệu tấn và thép tấm cán nóng Cửu Long – Vinashin với công suất 0,5 triệu tấn (tuy nhiên theo thông tin từ phía công ty thì do mới đi vào ho ạt động và chưa có nhiều nguồn tiêu thụ nên hiện nay hoạt động sản xuất của công ty chưa liên tục). Như vậy công suất cán thép tấm của cả nước đến nay mới là 1,1 triệu tấn. Trong khi đó nhu cầu hiện nay khoảng 4-5 triệu tấn, nếu hoạt động hết công suất thì nước ta vẫn phải nh ập khẩu khoảng 80% thép dẹt. Ngành thép Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung sản xuất các sản phẩm thép dài do đầu tư vào sản phẩm này cần ít v ốn, th ời gian xây dựng nhà máy ngắn, hiệu quả tương đối cao. Đối với sản phẩm thép dẹt, để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu công suất nhà máy phải lớn, cần vốn đầu tư lớn, nhưng thời gian thu hồi vốn lâu, các doanh nghi ệp trong nước không đủ vốn đầu tư nên đến nay chưa phát triển. Tuy nhiên hiện có nhiều tập đoàn lớn đang đầu tư vào xây dựng các nhà máy thép quy Đề án môn học chuyên ngành
  4. Nguyễn Hồng Quỳnh 4 mô lớn hoặc khu liên hiệp và tập trung nhiều vào sản phẩm thép dẹt, nên trong tương lai cơ cấu sản xuất thép dài và thép dẹt t ại Vi ệt Nam s ẽ không mất cân đối như hiện nay. Hình 1: Công suất sản xuất thép dài và thép dẹt (đơn vị: tấn/năm) 6000 5000 4000 3000 Thép dài 2000 Thép dẹt 1000 0 2006 2007 2008 (Nguồn: Hiệp hội thép, Vinanet.com.vn, vnexpress.net, HBBS tổng hợp) Theo tiêu thụ: Tại các nước công nghiệp phát triển cơ cấu tiêu thụ là khoảng 55% là thép dẹt và 45% là thép dài. Tuy nhiên ở Vi ệt Nam do nhu cầu xây dựng cơ bản lớn nên tỷ lệ trên là khoảng 50% thép dẹt và 50% thép dài. Theo chiến lược quy hoạch ngành thép 2007- 2015 có định hướng tới 2025 thì năm 2025 cơ cấu tiêu thụ thép dài và thép d ẹt của Việt Nam sẽ tương tự như các nước phát triển hiện nay. Theo nhà cung cấp: Thị trường chia làm 3 nhóm nhà cung cấp sản phẩm thép trên thị trường bao gồm: Các thành viên của Tổng công ty thép (VNS); các doanh nghiệp liên doanh với VNS 3; và các doanh nghiệp ngoài VNS. Trong đó các doanh bên ngoài VNS có thị phần lớn nhất. Có nhiều doanh nghiệp ngoài VNS hoạt động rất tốt như Pomina, Hoà Phát, Việt Ý và Việt Úc. Theo số liệu tổng hợp tiêu thụ thép 8 tháng đ ầu năm, 4 doanh nghiệp này chiếm tới 33% thị phần tiêu thụ thép xây dựng cả nước, gần bằng thị phần của các thành viên trong tổng công ty thép (33,9%). Hình 2: Thị Phần tiêu thụ của các nhà cung cấp Đề án môn học chuyên ngành
  5. Nguyễn Hồng Quỳnh 5 LD vớ i VNS Khối VNS Ngoài VNS (Nguồn: Bản tin ngành thép tháng 8/2009) 3. Tình hình sản xuất của ngành thép. Ngành thép được đầu tư xây dựng cơ sở đầu tiên từ năm 1959. Nhưng do nhiều khó khăn nên gần đây mới được quan tâm đ ầu t ư. Th ời kỳ trước do cơ chế bao cấp và được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN, thép chỉ được sản xuất cầm chừng còn lại được nh ập khẩu với giá ưu đãi. Trong một thời gian dài hầu như không được đầu tư nâng cấp và đầu tư mới nên trình độ hết sức lạc hậu. Từ khi Liên Xô và các nước SEV4 tan rã khó khăn diễn ra trong cả nước trong đó có ngành thép. Phải đến những năm 90 sau khi có ch ủ trương đổi mới kinh tế đất nước ngành thép mới được quan tâm. Năm 1995, Tổng công ty thép được thành lập, mặc dù đã cố gắng đầu tư nhiều hạng mục công trình mới, nâng cấp nhiều thiết bị cũ song cho đ ến nay các nhà máy vẫn còn trong tình trạng lạc hậu nhỏ bé phân tán, mới được coi là đang trong giai đoạn đầu phát triển (trong khi các n ước trong khu vực đã phát triển nước ta khoảng 10 năm nhưng có công su ất lớn, và cơ cấu sản phẩm đầy đủ). 3.1 Trình độ công nghệ máy móc thiết bị. Nhìn chung công nghệ sản xuất toàn ngành thép vẫn dưới mức trung bình của các nước trên thế giới. Nếu phân loại theo trình độ thiết bị và công nghệ thì những năng lực sản xuất thép ch ủ yếu của Vi ệt Nam có thể được phân thành 4 nhóm như sau: Đề án môn học chuyên ngành
  6. Nguyễn Hồng Quỳnh 6 (1) Nhóm tương đối hiện đại với dây chuyền cán liên tục ở Vinakyoei, VPS và một số dây chuyền cán thép khác được xây dựng sau năm 2000. (2) Nhóm trung bình gồm các dây chuyền cán bán liên tục ở Vinausteel, Natsteelvina, Tây Đô, Nhà Bè, Biên Hoà, Thủ Đ ức (SSC), Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO), Vinatafong, Nam Đô, Công ty cổ ph ần thép Hải Phòng. (3) Nhóm lạc hậu gồm các dây chuyền cán thủ công mini ở Nhà máy thép Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Đà Nẵng, thép Miền Trung. (4) Nhóm rất lạc hậu gồm các dây chuyền cán mini có công suất nhỏ (nhỏ hơn 20 ngàn tấn/năm) ở các hộ gia đình và làng nghề. Kết quả điều tra của NEU-JICA5 cho thấy công nghệ lạc hậu chiếm đến 75% số trang thiết bị của ngành công nghiệp thép Việt Nam, tập trung ở các nhà máy đã tồn tại lâu năm cả ở miền Bắc và miền Nam. Theo đánh giá của một chuyên gia thuộc VSC 6 thì công nghệ lạc hậu chiếm khoảng 63% năng lực sản xuất thép ở Việt Nam. Công ngh ệ tiên tiến chỉ chiếm khoảng 15% năng lực sản xuất, công nghệ trung bình chiếm khoảng 10% năng lực sản xuất. Về nguồn gốc công nghệ, có h ơn 33% các cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ từ Trung Quốc và 20% có nguồn gốc từ Nga và các nước SNG 6 có mức độ lạc hậu khoảng 3 đến 4 thế hệ. Các công nghệ này chủ yếu được phân bố ở miền B ắc. Công nghệ và thiết bị của các nước thuộc E.U 7 được đưa vào các cơ sở sản xuất ở miền Nam trước năm 1975 cũng rất lạc hậu. Một số công nghệ và thiết bị tiên tiến và trung bình được đưa vào thông qua con đ ường liên doanh chủ yếu chỉ tập trung ở khâu hạ nguồn của ngành thép. Trong khi đó bức tranh ngành công nghiệp thép thế giới cho thấy công ngh ệ sản xuất thép là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngành thép. Lấy ví dụ trường hợp Nhật Bản là quốc gia tương đ ối khan hiếm tài nguyên nhưng lại có ngành thép phát triển với sức cạnh tranh cao. Ở công đoạn luyện thép, các cơ sở sản xuất thép ở Việt Nam có thời gian nấu cao gấp 3,6 lần; tiêu hao thép phế gấp 1,13 l ần; tiêu hao điện cao gấp hơn 2,5 lần; tiêu hao dầu gấp 2,6 lần; tiêu hao đi ện c ực Đề án môn học chuyên ngành
  7. Nguyễn Hồng Quỳnh 7 gấp 4 lần so mức phổ biến trên thế giới. Công đoạn cán thép tuy hiện đại hơn so với công đoạn luyện thép nhưng nhìn chung công ngh ệ cán thép ở Việt Nam cũng khá lạc hậu, các nhà máy cán thép nội địa có tốc độ cán chỉ bằng 12,73% tốc độ cán phổ biến trên thế giới, nhưng mức tiêu hao dầu FO, tiêu hao điện và tiêu hao phôi đều cao hơn so với m ức trung bình của thế giới. Năng suất lao động thấp một mặt phản ánh công nghệ lac hậu mặt khác thể hiện trình độ lao động của ngành thép còn h ạn ch ế, đ ặc biệt là đội ngũ lao động có khả năng làm chủ công nghệ. Xét về m ức độ lành nghề, lực lượng thợ lành nghề ở Việt Nam không lớn, hơn n ữa th ợ lành nghề khó có thể thực sự lành nghề với những công nghệ lạc hậu. Rất ít người trong số họ có điều kiện tiếp cận được với những công nghệ sản xuất thép tiên tiến. Theo đánh giá của các nhà quản lý ở các công ty thép thì nhân lực là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Yêu cầu của ngành thép hiện nay không chỉ đòi hỏi có kinh nghiệm mà còn phải có kiến thức. Xét về mặt kiến thức chuyên môn của lực lượng lao động trong ngành thép còn khá thấp. Đây là một trong những cản trở không nhỏ đối với quá trình đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tỷ trọng cán bộ chuyên môn có trình đ ộ cao còn khá khiêm tốn, ít có được những sáng kiến mang tính chất nh ảy v ọt mà chủ yếu mang tính chất tác nghiệp. Lực lượng nghiên cứu trong lĩnh vực thép còn mỏng. Qua cuộc tiếp xúc của một số cán bộ quản lý ngành thép cho thấy tư tưởng sản xuất nhỏ vẫn ph ổ biến trong cách th ức qu ản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh ở một số công ty. Các phương pháp quản lý chưa khuyến khích được sự nhiệt tình và sáng tạo c ủa nhân viên vào hoạt động chung của công ty, đặc biệt là ở một số công ty nhà nước. Do tình trạng công nghệ và thiết bị lạc hậu, năng suất lao đ ộng thấp nên ngành công nghiệp thép Việt Nam hiện nay chỉ sản xuất được các loại thép cacbon thông thường. Một số thép loại thép đặc biệt cũng đã được sản xuất nhưng chưa thể đánh giá đạt tiêu chuẩn ch ất lượng. Thép sản xuất trong nước hiện nay chủ yếu cung ứng cho nhu cầu sử dụng thép trong ngành xây dựng. Bên cạnh đó, công nghệ lạc h ậu còn Đề án môn học chuyên ngành
  8. Nguyễn Hồng Quỳnh 8 dẫn đến chi phí vật chất để cán một tấn thép (không kể phôi thép) ở các công ty Việt Nam cao hơn mức trung bình thế giới từ 4 đến 12 USD. Do trình độ công nghệ không cao nên chưa sản xuất được các s ản phẩm có chất lượng cao như thép dẹt và thép chất lượng cao. Ở n ước ta hiện nay hầu hết các nhà máy sản xuất thép chỉ th ực hiên công đo ạn cuối cùng là cán thép. Chỉ có một số ít các doanh nghiệp có lợi thế về địa lý như Thái Nguyên mới tự khai thác quặng và sản xuất thép theo công nghệ lò cao. Một số doanh nghiệp thành lập các năm gần đây như Hoà Phát, Pomina, Việt Ý… Nhập khẩu thép phế và sử dụng lò điện hồ quang để sản xuất phôi và thép. Còn lại hầu hết các các doanh nghiệp thép hiện nay ch ỉ đ ơn thuần là mua phôi về cán ra thép nên giá trị gia tăng không cao. Ch ất lưọng thép xây dựng của Việt Nam tương tự như các nước trong khu vực, nhưng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành không cao. Trong khi Trung Quốc đã cấm các nhà máy có lò cao dưới 1000 m 3 thì lò cao nhất ở Việt Nam mới chỉ 500 m 3 như thép Thái Nguyên. Mặc dù vậy, ở Việt Nam do trình độ kỹ thuật và nguồn vốn còn h ạn ch ế nên các lò có công suất nhỏ so với thế giới vẫn được sử dụng và các doanh nghiệp trong nước hiện nay đang ưa chuộng loại nhà máy có công suất nhỏ này. Tính toán đơn giản, công suất 6 triệu tấn với 60 nhà máy sản xuất thép, công suất trung bình của Việt Nam chỉ là 0,1 tri ệu t ấn/nhà máy. So với Trung Quốc có 264 nhà máy sản xuất thép, tổng công suất đạt 419 triệu tấn, như vậy bình quân một nhà máy có công suất 1,58 triệu tấn thì có thể thấy các nhà máy thép của nước ta có quy mô quá nhỏ. Quy mô nhà máy nhỏ sẽ gây khó khăn cho doanh nghi ệp trong vi ệc giảm giá thành nhờ quy mô. 3.2 Quy mô sản xuất. Trước năm 1990, Nhà nước độc quyền sản xuất và buôn bán thép, trong bối cảnh đó ngành thép phát triển rất chậm. Sau 1990, với chính sách đổi mới ở Việt Nam, ngành thép đã có nhiều điều kiện thuận l ợi hơn để phát triển. Đặc biệt từ sau năm 1995, ngành thép với nòng c ốt là Tổng công ty thép Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, thành phần và chất lượng. Nhiều cơ sở sản xuất thép đã được cải tạo lại hoặc Đề án môn học chuyên ngành
  9. Nguyễn Hồng Quỳnh 9 xây dựng mới dưới hình thức sở hữu khác nhau. Cả nước có hơn 280 công ty, nhà máy, các cơ sở sản xuất thủ công tham gia sản xu ất thép (chủ yếu là cán thép). Tổng công suất thiết kế của tất cả các c ơ sở này ước tính khoảng 4000 ngàn tấn thép cán/năm. Như vậy bình quân công suất thiết kế của một cơ sở sản xuất thép chỉ khoảng 15 ngàn tấn/năm. Nếu tính riêng cho 43 cơ sở lớn nhất hiện nay với tổng công suất 3666 ngàn tấn/năm thì bình quân công suất của một cơ sở sản xuất là 85 ngàn tấn/năm. Hầu hết các cơ sở sản xuất thuộc VSC đều được phat triển dựa trên cơ sở sản xuất đã có từ trước phân bổ từ Bắc đến Nam mà không dựa trên quy hoạch tổng thể theo yêu cầu của công nghệ sản xuất thép. Hệ thống sản xuất của VSC bao gồm những năng lực sản xuất cụ th ể như sau: - 3 lò cao nhỏ 100 m3/lò (đã thanh lý 1 lò, phá dỡ 1 lò để cải tạo, đang vận hành 1 lò). - 12 lò điện hồ quang AC cỡ nhỏ từ 1,5 tấn/mẻ đến 30 tấn/m ẻ, do Việt Nam tự chế tạo và nhập khẩu từ Trung Quốc. - 4 máy đúc liên tục phôi vuông, tổng cộng 10 dòng đúc, công su ất 330.000 tấn/năm. - 5 máy cán bán liên tục sản xuất thép tròn và hình nh ỏ, thi ết b ị của Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Italia, tổng công suất khoảng 260.000 tấn/năm; ngoài ra còn 5 máy cán mini tự trang bị, tổng công suất kho ảng 250.000 tấn/năm. VSC hiện nay đang có 5 liên doanh cán thép xây dựng, trong đó có 2 máy cán liên tục và 3 máy cán bán liên tục. Tổng công su ất cán thép của 5 liên doanh là 901.000 tấn/năm. Phần lớn các liên doanh cán thép được xây dựng ở các khu vực giao thông thuận lợi cho việc nhập khẩu nguyên liệu hoặc gần nguồn khí đốt và thị trường tiêu th ụ. Tuy nhiên nếu xét về lâu dài, khi có các nguyên liệu trong nước được khai thác thì những nhà máy này sẽ gặp những bất lợi nhất định về địa điểm. Hầu hết các cơ sở cán thép trong hệ thống các công ty TNHH 9, công ty cổ phần và công ty 100% vốn nước ngoài được đầu tư xây d ựng Đề án môn học chuyên ngành
  10. Nguyễn Hồng Quỳnh 10 sau năm 2000. Hiện tại hệ thống này có 7 cơ s ở s ản xu ất cán thép, t ổng công suất ước khoảng 1680 ngàn tấn/năm. Trừ nhà máy cán thép Sông Đà có công suất 250.000 tấn/năm, các cơ sở sản xuất thép còn lại của hệ thống các cơ sở sản xuất thép quốc doanh khác và quốc phòng đều có quy mô nhỏ. Công suất c ủa các c ơ s ở sản xuất trong hệ thống này biến động trong khoảng từ 10 ngàn đến 30 ngàn tấn/năm. Tổng công suất của hệ thống này ước tính khoảng 350 ngàn tấn thép cán/năm, song sản lượng sản xuất không ổn định, phụ thuộc vào sự biến động của thị trường. Có khoảng 250 cơ sở sản xuất nhỏ tư nhân đang sử dụng các lò luyện thép và cán thép rất nhỏ, kiểu mini, thủ công, có công su ất bình quân trên dưới 1 ngàn tấn/năm/1 cơ sở. Các cơ sở này nằm rải rác ở nhiều tỉnh và thành phố từ Bắc đến Nam. Tổng năng lực sản xuất của khu vực này ước tính khoảng 250 đến 300 ngàn tấn/năm. Những số liệu được trình bày ở trên cho thấy, sản xuất phân tán, thiếu quy hoạch với quy mô nhỏ là đặc điểm đáng chú ý của ngành sản xuất thép ở Việt Nam. Nhiều chuyên gia về thép trong nước và quốc tế cho rằng, những đặc điểm này đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu qu ả s ản xuất thép ở Việt Nam trong thời gian qua. 3.3 Phân bố và tổ chức sản xuất. Sản xuất bởi 3 khối doanh nghiệp: Các doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc VSC, các liên doanh với nước ngoài của VSC hoặc doanh nghiệp thành viên, các doanh nghiệp trong nước không nằm trong VSC. Sự phát triển của ngành đang bị coi là ngược quy luật, công nghiệp cán có trước công nghiệp luyện.Các doanh nghiệp chủ yếu mới chỉ sản xuất thép xây dựng, năng lực sản xuất phôi còn y ếu, bỏ trống một khoảng lớn các sản phẩm “đặc chủng” khác. Do mất cân đối trong cơ cấu, nên ngành thép gặp nhiều khó khăn trong điều tiết thị trường. Việc phân bố và tổ chức sản xuất ở trong tình trạng manh mún, rời rạc. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều dựa trên cơ sở v ốn có t ừ tr ước mà không được nghiên cứu quy hoạch tổng thể theo yêu cầu của công nghệ ngành thép đó là các khâu phải được nối kết liên tục và thuận lợi về giao thông vận tải. Các cơ sở sản xuất của Tổng công ty thép Việt Đề án môn học chuyên ngành
  11. Nguyễn Hồng Quỳnh 11 Nam trải dài từ Bắc vào Nam trên cơ sở của các cơ sở cũ. Các nhà máy cán thép liên doanh thì được phân bổ hợp lý trên cơ sở nguồn nguyên liệu và yếu tố đầu vào cho khâu cán và tiêu thụ thành phẩm. Chẳng hạn ba liên doanh cán thép lớn nhất của Việt Nam đều đặt địa điểm s ản xu ất tại Bà Rịa – Vũng Tàu và Hải Phòng đều gần nguồn nguyên li ệu nh ập khẩu và gần nguồn khí đốt nhưng nếu xét về lâu dài khi có ngu ồn nguyên liệu trong nước thì địa điểm này bộc lộ hạn ch ế. Đối với khu vực công nghiệp thép địa phương và ngoài quốc doanh thì phân bổ hết sức tuỳ tiện. Việc phân bổ hết sức tuỳ tiện các cơ s ở sản xu ất ngành thép đã vi phạm nguyên tắc kỹ thuật tổng th ể của sản xu ất thép. Đ ể nâng cao hiệu quả của ngành sản xuất thép, các cơ sở sản xuất thuộc các khâu khác nhau cần bố trí trên cùng một địa điểm, các khâu s ản xu ất phải kế tục liên tiếp để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Sẽ là không hi ệu quả và thiếu tính cạnh tranh nếu sản xuất thép t ấm ở các c ơ s ở phía Bắc, làm nguội cà cứng lại, vận chuyển hàng nghìn km tới các c ơ sở cán nóng ở phía Nam. Sau cuộc rà soát quy hoạch ngành thép, mới đây B ộ Công Th ương đã xác định 32 dự án nằm ngoài quy hoạch và kiến nghị Chính phủ tạm dừng cấp giấy phép. Như vậy, từ năm 2007 đến nay, số lượng dự án ngoài danh mục quy hoạch lớn hơn cả số lượng dự án trong quy hoạch. Từ năm 2005 trở lại đây, giá thép trong nước và quốc tế ngày càng tăng làm cho các dự án sản xuất thép thỏi trở nên h ấp dẫn h ơn, nên các doanh nghiệp bắt đầu đầu tư rất nhiều, kể cả trong nước và nước ngoài… Đó là những lý do khiến chiến lược quy hoạch ngành thép bị vỡ. 3.4 Đầu tư sản xuất phôi và cán thép. Cơ cấu sản xuất mất cân đối giữa các công đoạn thượng nguồn và hạ nguồn. Quá trình sản xuất thép trải qua sáu công đoạn cơ bản từ thượng nguồn đến hạ nguồn là: thiêu kết, luyện cốc, luyện gang, luy ện thép và cán thép. Nếu xét cơ cấu năng lực sản xuất thép thep các công đoạn này thì hoạt động sản xuất thép ở Việt Nam có thiên h ướng tập trung nhiều hơn cho các công đoạn hạ nguồn. Năng lực cán thép đạt mức khoảng 4000 ngàn tấn/năm. Năng lực luyện thép chỉ khoảng 600 tấn phôi/năm. Phôi thép được sản xuất chủ yếu bằng nguồn s ắt thép ph ế Đề án môn học chuyên ngành
  12. Nguyễn Hồng Quỳnh 12 liệu nhập khẩu và phế liệu thu mua trong nước. Trong đó thép ph ế liệu thu mua trong nước chiếm tỷ trọng khoảng một nửa khối lượng s ắt thép phế liệu được sử dụng. Một phần nhỏ phôi được sản xuất từ công đoạn luyện gang ở nhà máy gang thép Thái Nguyên. Tổng năng lực luy ện gang và thiêu kết ở Việt Nam hiện nay chỉ đạt ở mức khoảng 40 ngàn tấn/năm, một con số rất nhỏ so với nhu cầu gang cần thi ết đ ể luy ện thép. Do năng lực sản xuất mất cân đối giữa các công đoạn sản xu ất, nên khả năng đáp ứng nhu cầu đầu vào của các công đoạn thượng nguồn và công đoạn hạ nguồn trực tiếp là rất thấp. Công đoạn luyện thép ch ỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu phôi vuông cỡ nhỏ cho công đoạn cán thép. Trong khi đó, nhu cầu phôi thép của các cơ sở cán thép ở t ất c ả các khu vực đều tăng trong những năm gần đây đã dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các công đoạn của qua trình sản xuất thép. Nguyên nhân chủ yếu của sự mất cân đối này là (1) Đầu tư vào khâu sản xuất phôi đòi hỏi vốn lớn (2) Thời gian đi vào sản xuất và thu h ồi v ốn chậm (3) Giá trị gia tăng và lợi nhuận của khâu sản xuất phôi th ấp nên cácdoanh nghiệp sản xuất trong nước không đủ khả năng đầu tư còn các doanh nghiệp nước ngoài không muốn đầu tư. Hơn nữa sản xuất phôi thép không được nhà nước bảo hộ mạnh mẽ như cán thép vì vậy không hấp dẫn các nhà đầu tư, kể cả đầu tư trong nước. Mặt khác, đ ầu tư vào khâu cán thép không cần vốn lớn nên không chỉ các doanh nghiệp quốc doanh mà cả công ty tư nhân đều có thể đầu tư. Ở Việt Nam phần lớn sử dụng thép phế để sản xuất phôi và hoàn toàn là phôi vuông để làm thép xây dựng. Phôi vuông sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu cán thép, 50% còn l ại là t ừ nguồn nhập khẩu. Mặc dù tự sản xuất khoảng 20% thép dẹt, nhưng chưa có doanh nghiệp nào ở Việt Nam sản xuất được phôi dẹt mà phải nhập khẩu từ bên ngoài. Nguồn nhập khẩu thép phôi thép các lo ại và thép phế của Việt Nam hiện giờ là từ Trung Quốc (là chủ yếu) và một số nước khác trên thế giới như Mỹ, Nhật, Nga… Như vậy có thể thấy ngành thép Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ biến động về phôi và thép trên thế giới. Giá thép trong nước có xu hướng biến động cùng chiều với giá phôi trên thế giới. Đề án môn học chuyên ngành
  13. Nguyễn Hồng Quỳnh 13 Phôi thép là bộ phận chủ yếu trên thị trường nguyên li ệu thépVi ệt Nam, các sản phẩm của các công đoạn trước như gang và quặng thiêu kết chiếm tỷ trọng không đáng kể do ngành sản xuất thép Vi ệt Nam ch ủ yếu tập trung ở công đoạn cán thép. Trong khi đó do nhu cầu sử d ụng thép ở Việt Nam trong những năm qua chỉ ở mức độ thấp, nên khối lượng thép phế thải có thể thu mua trong nước cũng tương đối khan hiếm. Giá thành phôi thép sản xuất trong nước cao và ưu th ế vượt trội về mặt tỷ trọng của nguồn phôi nhập khẩu trong việc đáp ứng nhu cầu sản xuất thép đã làm cho giá phôi thép ở thị trường trong nước phụ thuộc rất lớn vào sự biến động giá phôi thép trên thị trường thế giới. Tốc độ điều chỉnh giá phôi thép trên thị trường nội địa thường chậm h ơn so với những biến động của giá phôi trên thị trường thế giới và khác nhau trong hai trường hợp. Tốc độ điều chỉnh giá phôi thép ở th ị trường trong nước là khá nhanh khi giá phôi trên thị trường thế giới có xu hướng tăng, nhưng tốc độ điều chỉnh giá phôi trên thị trường nội địa lại diễn ra khá chậm khi giá phôi thép trên thị trường thế giới có xu hướng giảm do th ời gian đặt hàng thường kéo dài nhiều tháng. Kết quả là khi giá phôi thép trên thị trường thế giới trải qua những thời kỳ đột biến thì chi phí sản xuất thép ở Việt Nam cao hơn nhiều so với giá thép nhập kh ẩu. Đây là điểm bất lợi lớn của hoạt động cán thép Việt Nam do s ự ph ụ thu ộc vào nguồn phôi thép nhập khẩu. 4.Cơ cấu cung cầu. Cung cầu về thép dài tương đối cân bằng nhưng lại mất cân b ằng trầm trọng ở thép dẹt. Trước 2006 nước ta phải nhập khẩu 100% thép dẹt, từ năm 2006 một số nhà sản xuất thép tấm đi vào hoạt động ph ần nào đáp ứng được nhu cầu thép dẹt trong nước. Tuy nhiên với tổng công suất khoảng 1,1 triệu tấn/năm như hiện nay, khả năng đáp ứng tối đa mới chỉ được 20% nhu cầu, 80% còn lại là nhập khẩu. Tình trạng nhập khẩu còn tiếp diễn từ nay đến năm 2012 – 2013, khi một số dự án liên doanh với nước ngoài đi vào hoạt động, tăng công suất cho s ản ph ẩm thép dẹt lên mới đáp ứng được nhu cầu trong nước. Công suất 6 tri ệu tấn/năm nên nguồn cung thép dài trên thị trường đáp ứng tương đối tốt nhu cầu tiêu dùng thực tế, các năm gần đây lượng thép dài nh ập kh ẩu t ừ Đề án môn học chuyên ngành
  14. Nguyễn Hồng Quỳnh 14 nước ngoài không nhiều, chủ yếu là các loại thép xây dựng cỡ lớn mà Việt Nam hiện chưa sản xuất được. Hình 3: Cơ cấu sản xuất và tiêu thụ thép của các thành viên trong Hiệp hội thép giai đoạn 2004 – 2007 (Đơn vị:nghìn tấn) 3500 3000 2500 2000 Sản xuất 1500 Tiêu thụ 1000 500 0 2004 2005 2006 2007 (Nguồn: Hiệp hội thép) Mục tiêu phát triển tổng thể của ngành thép Việt Nam là đáp ứng tối đa nhu cầu về các sản phẩm thép của nền kinh tế, tăng cường xuất khẩu. Bảng 1: Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong giai đoạn từ 2001 đến 2020 Tăng Tăng Tăng Tiêu thụ trưởng Tăng trưỏng trưởng thép đầu Thời kỳ công trưởng SX GDP tiêu thụ người nghiệp thép (%) (%) thép(%) (kg/người) (%) 2001-2005 7,5 14,08 14 10 - 11 78 Đề án môn học chuyên ngành
  15. Nguyễn Hồng Quỳnh 15 2006-2010 7,5 10,38 10 10,6 123 2011-2015 7 8-9 9 – 9,5 9 – 9,5 170 2016-2020 6,5 7-8 8,5 - 9 8 – 8,9 240 Bảng 2: Dự báo nhu cầu thép của Việt Nam đến năm 2025 Đơn vị: nghìn tấn Tổng nhu cầu Thép dài Thép dẹt Năm thép Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) (1.000 tấn) 2005 6.480 3.564 55 2.916 45 2010 10.000 5.000 50 5.000 50 2015 15.000 6.250 45 8.750 55 2020 20.000 8.000 40 12.000 60 Bảng 3: Mục tiêu sản lượng của ngành thép giai đoạn 20010 – 2025 Đơn vị: nghìn tấn 2010 2015 2020 2025 Gang 1.500 – 1.900 5.000 – 5.800 8.000 – 9.000 10.000 – 12.000 Thép thô 3.500 – 4.500 6.000 – 8.000 9.000 – 11.000 12.000 – 15.000 Thép cán 6.300 – 6.500 11.000 – 12.000 15.000 – 18.000 19.000 – 22.000 (Thép dẹt) 1.800 – 2.000 6.500 – 7.000 8.000 – 10.000 11.000 – 13.000 Xuất khẩu 500 - 700 700 - 800 900 – 1.000 1.200 – 1.500 5. Lưu thông phân phối thép. Thành phần tư nhân trong hoạt động phân phối thép có ưu th ế vượt trội. Sản phẩm thép trên thị trường Việt Nam được phân phối thông qua 3 hệ thống phân phối chủ yếu, gồm: (1) Hệ thống phân phối thép được nhập khẩu và phân phối bởi các công ty thương mại nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam. Hệ thống này chủ yếu thực hiện chức năng nhập khẩu và bán sản phẩm thép cho các khách hàng cuối cùng thông qua các công ty bán buôn của Việt Nam, hoặc có thể bán hàng trực tiếp cho các khách hàng cuối có kh ối l ượng mua lớn. Đề án môn học chuyên ngành
  16. Nguyễn Hồng Quỳnh 16 (2) Hệ thống phân phối được thực hiện bởi các công ty th ương mại thuộc VSC. Hệ thống này chủ yếu thực hiên chức năng phân ph ối các sản phẩm thép nhập khẩu để bán lại cho các nhà phân ph ối tư nhân hoặc nhập khẩu phôi thép để bán cho các nhà sản xuất thép hoặc th ực hiện việc bán lẻ các sản phẩm đến những khách hàng cuối cùng thông qua các cửa hàng bán lẻ trực thuộc. (3) Hệ thống phân phối thép tư nhân và các doanh nghiệp khác không trực thuộc Tổng công ty thép Việt Nam. Hệ thống này ho ạt động với tư cách là những trung gian giữa các nhà sản xuất trong nước hoặc các nhà cung cấp nước ngoài và các nhà bán lẻ hoặc khách hàng cu ối cùng trên thị trường. Các hệ thống này có ưu nhược điểm khác nhau xuất phát từ thực lực và những điều kiện gắn liền với hoạt động kinh doanh của họ. Đề án môn học chuyên ngành
  17. Nguyễn Hồng Quỳnh 17 Bảng 4: So sánh cạnh tranh các hệ thống phân phối thép Hệ thống phân phối Ưu điểm Nhược điểm Tư nhân Động lực làm việc tốt Chi phí vốn cao Năng suất lao động Mặt bằng kho bãi hạn cao chế Tần suất quay vòng Khả năng huy động nhanh vốn hạn chế Quản lý nợ hiệu quả Dịch vụ khách hàng tốt Khống chế toàn bộ hoạt động bán lẻ VSC Hệ thống phân phốiNhân viên thiếu động rộng lực làm việc Quy mô lớn Năng suất lao động Khả năng tài chínhthấp mạnh Tốc độ quay vòng vốn chậm Quản lý nợ thiếu hiệu quả Công ty nước ngoài Chủ động về nguồn Chính sách phân phối hàng không linh hoạt Trên thị trường Việt Nam có khoảng 20 nhà phân phối tư nhân l ớn hoạt động với tư cách là phân phối cấp 1 cho các nhà sản xu ất. Quy mô vốn của các công ty này thường giao động từ 10 đến 15 t ỷ đ ồng. Các công ty này kinh doanh thép từ 2 nguồn, nguồn nội địa và ngu ồn nh ập khẩu. Sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là các loại thép mà trong nước chưa sản xuất được như thép lá, thép tấm. Nguồn nhập khẩu ch ủ yếu t ừ Nga, Hàn Quốc… Khi thị trường nội địa có nhu cầu, họ tiến hành u ỷ thác cho các công ty khác nhập khẩu sản phẩm thép từ các nhà cung c ấp n ước ngoài mà họ lựa chọn rồi phân phối lại trên thị trường nội địa. Theo đánh giá của những người quản lý của một số nhà phân ph ối t ư nhân thì hi ệu quả kinh doanh của hệ thống phân phối tư nhân nói chung là cao h ơn các doanh nghiệp nhà nước. Lý do cơ bản là hoạt động kinh doanh của các Đề án môn học chuyên ngành
  18. Nguyễn Hồng Quỳnh 18 công ty tư nhân gắn chặt với lợi ích của người quản lý h ơn so với trường hợp doanh nghiệp nhà nước, nhân việc làm việc ở các công ty t ư nhân thường tích cực hơn nhân viên làm việc trong công ty nhà n ước, các quyết định kinh doanh ở các công ty tư nhân cũng được đưa ra và triển khai nhanh hơn. Những ưu thế này giúp các công ty tư nhân nâng cao được chất lượng dịch vụ, thu hút được nhiều khách hàng và hiệu quả kinh doanh cao hơn. Chủ các doanh nghiệp phân phối tư nhân còn cho rằng, các doanh nghiệp tư nhân đang là những người kiểm soát th ị trường, khả năng kiểm soát thị trường thép của họ xuất phát từ việc họ đã thiết lập được một hệ thống bán lẻ rộng khắp và họ có thể kiểm soát được hệ thống này với mức độ rủi ro khá thấp. Tỷ trọng vốn bị ứ đọng trong khâu lưu thông lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh. Các nhà s ản xu ất đ ầu tư vốn khá lớn vào khâu lưu thông hàng hoá dẫn đến tình tr ạng khó khăn tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh. Quy mô của các nhà sản xuất là khá lớn so với các nhà phân phối. Doanh số bình quân của các nhà sản xuất là 893 tỷ đông/năm. Mức vốn bình quân c ủa các nhà sản xuất là 360 tỷ đồng. Số lượng vốn các nhà sản xu ất đ ầu t ư vào khâu lưu thông là khá lớn so với mức vốn tự có, mà b ộ ph ận đáng k ể nhất là các khoản phải thu của khách hàng. Số bình quân các kho ản ph ải thu từ khách hàng của các nhà sản xuất là 411 t ỷ đồng, doanh nghi ệp có số dư các khoản phải thu cao nhất lên tới 1200 tỷ đồng. Bình quân t ỷ l ệ các khoản phải thu so với vốn lên tới 37%, mức cao nh ất là 82% và m ức thấp nhất là 9%. Mức tồn kho thực tế của nhà sản xuất cũng khá lớn, phản ánh hoạt động bán hàng của các nhà phân phối ch ưa đ ược t ổ ch ức hiệu quả. Tỷ lệ lãi gộp bình quân dừng ở mức 2,25%. Chính sách phân phối còn bất cập, quan hệ giữa sản xuất và phân phối chưa vững chắc. Phần lớn các nhà sản xuất đều th ực hiện chính sách bao phủ thị trường trong phạm vi cả nước. Chính vì vậy, mặc dù tại khu vực miền Bắc mức cung về cán thép khá lớn, nhu cầu thép cán nhỏ hơn so với khu vực miền Nam, nhưng các nhà sản xu ất thép cán miền Nam vẫn cung ứng sản phẩm ra khu vực phía Bắc. Rõ ràng, một chính sách bao phủ thị trường như vậy là không hợp lý khi sản phẩm của Đề án môn học chuyên ngành
  19. Nguyễn Hồng Quỳnh 19 các nhà máy thép ở Việt Nam tương đối đồng nhất, chi phí vận chuy ển thép là khá cao so với giá trị của nó. Vì vậy, chính sách này đã làm cho tổng giá thành thép bị nâng lên, lợi nhuận của các nhà sản xuất bị th ấp đi và các nhà sản xuất nội địa sẽ đánh mất lợi thế gần thị trường c ủa mình so với đối thủ nước ngoài. Tất cả các nhà sản xuất đều th ực hi ện chính sách phân phối mạnh hoặc chọn lọc. Hơn một nửa các nhà sản xuất sử dụng chính sách phân phối mạnh. Việc các nhà sản xuất không l ựa ch ọn chính sách phân phối độc quyền là do áp lực của các nhà phân phối. Theo các nhà phân phối thì việc lựa chọn kinh doanh một nhãn hiệu là không hiệu quả, do (1) chưa có một thương hiệu thép nào thực s ự có ch ỗ đứng trên thị trường, hơn nữa (2) giá cả của các nhà sản xuất thường không đồng đều và có nhiều biến động, nếu kinh doanh nhiều loại sản phẩm thép thì có nhiều cơ hội bán sản phẩm hơn. V ới chính sách phân ph ối này, các nhà sản xuất khó có thể tạo ra được sự ổn định về mặt thị trường. Quan hệ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối còn thiếu sự bền vững. Điều này thể hiện rất rõ ràng ở chỗ các nhà phân ph ối bán thép của rất nhiều công ty khác nhau, họ bán sản phẩm của nhà sản xuất nào tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, nhưng việc khách hàng lựa chọn loại sản phẩm nào lại tuỳ thuộc vào giá cả. Vì vậy, quan h ệ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối bán buôn phụ thuộc vào sự biến động của giá cả. Các nhà sản xuất ch ưa th ực sự hi ểu các nhà phân ph ối cần gì ở họ, và ngược lại các nhà phân phối cũng chưa tạo ra được các kênh phân phối hàng hoá ổn định cho các nhà sản xuất. Quan h ệ gi ữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối chủ yếu tồn tại dưới hình thức phân phối chon lọc. Quan hệ giữa họ ít có sự hợp tác chặt chẽ và bền vững mà chủ yếu dựa trên các điều khoản mua bán thông th ường, nh ư quy định khối lượng bán, kiểm soát tiến độ thanh toán, phân tích s ố li ệu, b ảo lãnh thanh toán, phân vùng thị trường, kiểm soát nguồn cung cấp, định giá đầu vào. 6. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thép Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thép Việt Nam rất yếu.Khoáng sản cho phát triển ngành thép nước ta có trữ lượng thấp so Đề án môn học chuyên ngành
  20. Nguyễn Hồng Quỳnh 20 với một số nước ASEAN. Lao động của ngành thép đông về lượng và kém về chất. Đội ngũ chuyên gia lành nghề và công nhân có tay nghề cao ít. Đây là tình trạng chung của lao động Việt Nam. L ợi th ế v ề giá lao động rẻ chỉ là lợi thế về chi phí sản xuất. Điều này ch ỉ có đ ược đối v ới các sản phẩm có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao. Các ngành khoa học kỹ thuật và yêu cầu công nghệ tiên tiến thì không cần lợi thế này. Điều kiện sản xuất vốn có về công nghệ của các nước ASEAN cao hơn Việt Nam, do đó khả năng cạnh tranh sẽ vượt Việt Nam. Hơn nữa các nước ASEAN và các nước Nam Á khac chiến lược h ướng về xuất khẩu sớm hơn Việt Nam và họ đã đạt tới một cơ cấu xuất kh ẩu hợp lý theo hướng xuất tinh, xuất hàng chế biến sâu. Việt Nam xu ất khẩu chủ yếu dưới dạng thô từ tài nguyên đến nông sản. Các ngành sử dụng sản phẩm của ngành thép của các nước ASEAN như Thái Lan, Singapo, Indonesia, Philipin… đã phát triển ở trình độ cao, có sản ph ẩm xuất khẩu vào nhiều nước phát triển. Ở Việt Nam các ngành cơ khí ch ế tạo cho ngành thép phát triển rất chậm và y ếu kém. Nh ững ngành c ơ khí phát triển như công nghiệp ô tô, xe máy, cơ khí chính xác, đóng tàu… chủ yếu là liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, thực ch ất là c ủa n ước ngoài. Sẽ còn rất lâu Việt Nam mới được chuyển giao công ngh ệ hoàn chỉnh của các ngành cơ khí mạnh từ phía nước ngoài. Do đó khả năng th ị trường nội địa cho công nghiệp thep (với các sản ph ẩm thép ch ất l ượng cao và đặc biệt) là khó khăn cho ngành thép. Nguy cơ rõ ràng là ngành thép Việt Nam có thể mất thị trường ngay ở đất nước mình. Về chi phí sản xuất và giá thành thép Việt Nam đều cao hơn các nước khác. Chi phí sản xuất cao làm giảm vị thế ngành thép ngay ở thị trường nội địa. Ngoài ra, phôi thép là nguyên liệu chính và chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành có giá cả không cao hơn giá nhập khẩu của một số doanh nghiệp sản xuất thép ở các nước trong khu vực nên giá thành cao chỉ là do hệ số tiêu hao nguyên liệu của các nhà máy sản xuất Việt Nam cao và năng suất cán thép quá thấp so với trình độ c ủa các nhà máy sản xuất trong khu vực. 7. Vấn đề đặt ra đối với ngành thép trong quá trình hội nhập Đề án môn học chuyên ngành
nguon tai.lieu . vn