Xem mẫu
- DẠY HỢP TÁC - MỘT MÔ HÌNH MỚI CHO THỰC TẬP SƯ PHẠM
NGUYỄN PHƯỚC CÁT TƯỜNG, ĐINH THỊ HỒNG VÂN
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Thực tập sư phạm là hoạt động quyết định đến chất lượng của giáo
viên tương lai. Tuy nhiên, tại các cơ sở giáo dục, mô hình thực tập sư phạm
hầu như không có gì thay đổi trong nhiều thập niên qua. Nghiên cứu này
nhằm giới thiệu mô hình dạy hợp tác (co-teaching model) - một mô hình
thực tập sư phạm mới đang được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Mô hình này có thể đem lại những chuyển biến tích cực cho hoạt động thực
tập sư phạm ở các cơ sở giáo dục.
Từ khóa: thực tập sư phạm, mô hình thực tập sư phạm, dạy hợp tác
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể nói, thực tập sư phạm (TTSP) là nội dung quan trọng, quyết định chất
lượng giảng dạy của giáo viên tương lai tại các cơ sở giáo dục. TTSP không chỉ là rèn
luyện một số kĩ năng dạy bài học, kĩ năng tổ chức một số hoạt động giáo dục mà quan
trọng hơn đó là phương thức đào tạo trong hoạt động hành nghề ở môi trường phổ thông
(Nguyễn Thị Ban, 2010). Việc xây dựng được một mô hình thực tập sư phạm nhằm xóa
bỏ sự tách rời lý thuyết với thực hành, giữa kiến thức với thao tác nghề nghiệp nhằm
hình thành và phát triển kĩ năng trên nền kiến thức lí thuyết và đào tạo lí thuyết nghề
nghiệp bằng tổ chức sinh viên sư phạm thao tác trực tiếp đến đối tượng giáo dục trong
chính bối cảnh sư phạm nhà trường phổ thông luôn là một thách thức lớn đối với
chương trình đào tạo giáo viên ở trên thế giới cũng như Việt Nam. Yếu tố nội dung,
cách thức tổ chức TTSP và người hướng dẫn TTSP quyết định thành - bại TTSP
(Nguyễn Thị Ban, 2010).
Tuy nhiên, theo Guyton và McIntyre (1990), hoạt động trụ cột này của chương
trình đào tạo giáo viên hầu như không thay đổi gì nhiều trong hơn 100 năm qua kể từ
thập niên 1920. Cho đến nay, mô hình thực tập truyền thống điển hình vẫn là: các giáo
sinh trải qua một hai tuần đầu dự giờ, ngồi im lặng bên dưới quan sát giáo viên hướng
dẫn, làm quen với lớp, rồi dần dần đảm nhiệm vai trò giảng dạy và sau đó chịu hoàn
toàn trách nhiệm đứng lớp. Giáo viên hướng dẫn chỉ sửa giúp giáo án, rồi dự giờ để
nhận xét góp ý cho sinh viên rút kinh nghiệm cho những lần dạy sau. Và như thế, khi
đứng lớp, chịu trách nhiệm tổ chức tất cả mọi hoạt động dạy - học như một giáo viên
thực thụ, giáo sinh hầu như không nhận được sự hỗ trợ trực tiếp nào trong quá trình này
(Bacharach, Heck và Dank, 2004).
Hiện nay, có hàng loạt nghiên cứu thực chứng cho thấy việc dạy “đơn độc” khi
kinh nghiệm tổ chức dạy học của giáo sinh còn non nớt như vậy không những ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo giáo viên tương lai mà còn ảnh hưởng đến chất lượng học
tập của các em học sinh phổ thông trong suốt thời gian thực tập của giáo sinh
(Bacharach, Heck và Dahlberg, 2013). Một báo cáo chính yếu của Hội Đồng Quốc Gia
về Công nhận Đào tạo Giáo viên (National Council for Accreditation of Teacher
513
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
Education - NCATE) Hoa Kỳ (2010) cho thấy rằng mô hình truyền thống này có “nhiều
bất cập và hoàn toàn không hỗ trợ đầy đủ cho giáo sinh”. Mặc dù kinh nghiệm thực tập
sư phạm là thành tố đóng vai trò quan trọng nhất trong chương trình đào tạo thì NCATE
cho rằng đây là lại chính là thành tố mang tính bộc phát và không tuân theo một thể
thức nào cả (NCATE, 2010).
Ở Việt Nam, trong nhiều thập niên qua, các nghiên cứu cũng đều chỉ ra những bất
cập của mô hình thực tập sư phạm dưới nhiều khía cạnh từ “bố trí kế hoạch đào tạo
chương trình thực tập sư phạm chưa phù hợp; giáo sinh khó vận dụng phương pháp
mới trong thời gian thực tập do giữa kiến thức hàn lâm được học trong trường đại học
và thực tế phổ thông có khoảng cách”... cho đến “sự phối hợp giữa trường đại học và
trường phổ thông còn thiếu chặt chẽ, ngoài đợt thực tập hầu như không có liên lạc giữa
các khoa và giáo viên phổ thông, nên không có điều kiện thường xuyên cập nhật kiến
thức của người giáo viên phổ thông để việc thực tập được phối hợp nhịp nhàng; mục
tiêu thực tập sư phạm cũng chưa thật rõ ràng” (Võ Văn Chương, 2008). Tuy nhiên, có
lẽ các nhà nghiên cứu ít khi tập trung vào chính những bất cập từ bản chất của mô hình
thực tập truyền thống là: giáo sinh phải đứng lớp một mình trong 6 - 8 tiết dạy thực tập,
chịu áp lực dự giờ của giáo viên hướng dẫn, thậm chí một số giáo viên hướng dẫn còn
không dự giờ, để sinh viên “tự học nghề” một mình (Bacharach, Heck và Dahlberg,
2013). Theo đó, chúng ta chỉ tập trung cải tạo những bất cập trong chính mô hình truyền
thống này mà hiếm khi đề xuất ứng dụng một mô hình mới khác.
Hiện nay, trên thế giới, việc thay thế mô hình thực tập truyền thống bằng mô hình
dạy hợp tác (co-teaching) trong chương trình thực tập sư phạm đã trở nên rất phổ biến
(Hartigan, 2014). Khá nhiều nghiên cứu tác động (như của Bacharach, Heck và
Dahlberg, 2008, Bacharach, Heck và Dahlberg, 2007; Heck, Bacharach, Dahlberg,
Ofstedal, Mann và Wellik, 2007; Heck, Bacharach, Ofstedal, Mann, Wellik và
Dahlberg, 2006; Perl, Maughmer và McQueen, 1999) đã chứng tỏ rằng so với mô hình
truyền thống, mô hình dạy hợp tác đặc biệt đem lại sự tiến bộ rõ rệt về năng lực sư
phạm của sinh viên cũng như sự tiến bộ về thành tích học tập cho học sinh phổ thông -
một mô hình được nhóm tác giả Tschida, Smith và Fogarty (2015) gọi là mô hình đôi
bên cùng có lợi (a win - win model).
Ở Việt Nam, có lẽ mô hình này vẫn còn khá mới mẻ. Trong làn sóng mạnh mẽ
của sự vận dụng các mô hình mới và hiện đại trong đào tạo giáo viên hiện nay, việc tiếp
cận các mô hình đào tạo giáo viên nói chung và mô hình thực tập sư phạm nói riêng là
điều hết sức cần thiết và cần được khuyến khích. Trên bình diện như vậy, nghiên cứu
này hướng đến làm rõ một số khía cạnh quan trọng liên quan đến mô hình dạy học hợp
tác: khái niệm về dạy hợp tác, các hình thức trong dạy hợp tác, lợi ích và những thách
thức của việc ứng dụng mô hình dạy hợp tác trong thực tập sư phạm.
2. MÔ HÌNH DẠY HỢP TÁC (CO- TEACHING MODEL)
2.1. Thế nào là dạy hợp tác (co-teaching)?
Khái niệm “dạy hợp tác” (co- teaching) vốn ban đầu xuất phát trong môi trường
giáo dục hòa nhập, để chỉ đến một phương pháp kết hợp được sử dụng thường xuyên
514
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
giữa giáo viên bình thường (normal teacher) và giáo viên giáo dục chuyên biệt (special
education teacher) trong việc hỗ trợ và giáo dục trẻ khuyết tật. Theo đó, dạy hợp tác
được định nghĩa là một hình thức cung cấp dịch vụ cho người học trong đó tận dụng hai
hoặc nhiều chuyên gia, một giáo viên bình thường, một giáo viên giáo dục chuyên biệt
hướng dẫn một nhóm học sinh (bao gồm cả học sinh khuyết tật và những học sinh có
nhu cầu đặc biệt) trong môi trường học tập hòa nhập và theo những phương cách để đáp
ứng nhu cầu học tập của học sinh một cách linh động, chỉnh chu và kỹ càng (Cook và
Friend, 1995; Friend, 2007; Scruggs, Mastropieri và McDuffie, 2007). Các giáo viên
cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc thiết lập chương trình, soạn giáo án, giảng bài, lên
lớp, quản lý lớp học và đánh giá thường xuyên và định kỳ học sinh (Gately và Gately,
2001; Kloo và Zigmond, 2008).
Gần đây, thuật ngữ này được xuất hiện một cách phổ biến hơn trong giáo dục phổ
thông và cả trong các chương trình thực tập dành cho giáo sinh (Tschida, Smith và
Fogarty, 2015). Dù mỗi tác giả có một quan điểm riêng về mô hình này, nhưng tựu
trung lại, nhìn chung, dạy hợp tác được hiểu một cách phổ biến là “hai hoặc nhiều giáo
viên đồng thời cùng làm việc với một nhóm học sinh/sinh viên, chia sẻ việc lên kế hoạch
dạy học (soạn giáo án), tổ chức hoạt động dạy - học, giảng bài, đánh giá việc học của
học sinh và tổ chức không gian vật lý” (Bacharach, Heck và Dahlberg, 2013, tr. 4). Như
vậy, trong bối cảnh thực tập, nhóm giáo viên này sẽ bao gồm ít nhất một giáo viên
hướng dẫn và một giáo sinh thực tập (Bacharach, Heck và Dahlberg, 2013) sẽ cùng làm
việc với nhau ngày từ bắt đầu chương trình thực tập. Giáo viên hướng dẫn (được gọi là
giáo viên hợp tác - cooperating teachers) và giáo sinh (teacher candidate) cùng tham
gia tất cả các khía cạnh của việc tổ chức dạy học và lên lớp (xem Hình 1). Trước tiên,
giáo viên hướng dẫn sẽ xác định cụ thể và rõ ràng các nội dung dạy học cũng như cho
giáo sinh làm quen với học sinh, các hoạt động học tập và giáo dục trong lớp học. Sau
một thời gian ổn định và làm quen với môi trường giáo dục, giáo viên hướng dẫn và
giáo sinh sẽ liên tục luân phiên giữa việc hỗ trợ và chủ trì việc lên kế hoạch dạy học,
lên lớp và đánh giá.
Hình 1. Mô hình thực tập truyền thống và mô hình thực tập theo phương thức dạy hợp tác
Ghi chú: Phỏng theo Model of Co-Teaching. Từ Tschida, Smith và Fogarty (2015. It Just
Works Better: Introducing the 2:1 Model of Co-Teaching. Rural Educator, 36(2), 11-26.
515
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
2.2. Các hình thức dạy hợp tác trong chương trình thực tập
Cook và Friend (1995) đã đề xuất 6 kiểu dạy hợp tác: (1) một người dạy, một
người quan sát; (2) một người dạy, một người hỗ trợ; (3) dạy ở các góc học tập (station
teaching); (4) dạy song song; (5) dạy thay thế và (6) dạy nhóm. Sáu kiểu dạy hợp tác
này trong chương trình thực tập được mô tả cụ thể ở bảng sau:
Bảng 1. Các kiểu dạy học hợp tác
TT Kiểu dạy hợp tác Mô tả
Hai giáo viên cùng thống nhất với nhau xem những thông tin
quan sát cụ thể nào cần phải thu thập trong suốt giờ giảng và
thống nhất công cụ để thu thập dữ liệu. Một giáo viên sẽ lên
lớp cho toàn bộ nhóm học sinh, giáo viên còn lại quan sát và
thu thập các dữ liệu liên quan đến hoạt động học tập, hành
vi, tương tác xã hội trong lớp học. Sau đó, cả hai giáo viên
cùng nhau phân tích các dữ liệu thu được.
Giáo viên hướng dẫn Giáo sinh thực tập
- Chỉ đạo việc hợp tác soạn Quan sát hoạt động cụ thể
giáo án và đảm nhiệm quá của học sinh và giáo viên
trình giảng bài, tổ chức hoạt hướng dẫn:
động lên lớp. - Tập trung vào một học sinh,
một nhóm học sinh hoặc toàn
bộ học sinh trong quá trình
Một giáo viên dạy, học tập, cách tương tác, phản
giáo viên kia quan sát hồi của học sinh với các
1
(One teach, one chiến lược dạy học của giáo
obverve, viên, hành vi của các em...
- Tập trung vào hành vi của
giáo viên trong việc quản lý
lớp học, bố trí thời gian cho
từng nội dung bài học, ứng
xử với hành vi của học sinh,
tổ chức và sử dụng các kỹ
thuật dạy học...
- Báo cáo dữ liệu thu được và
cùng phân tích dữ liệu với
giáo viên hướng dẫn.
Sau một thời gian, giáo sinh sẽ đảm nhận toàn bộ việc lên lớp
và giáo viên hướng dẫn sẽ đóng vai trò người quan sát và thu
thập dữ liệu để giúp giáo sinh rút kinh nghiệm và điều chỉnh
hoạt động dạy học một cách hiệu quả hơn.
Một giáo viên đảm nhiệm toàn bộ việc giảng bài và tổ chức
Một giáo viên dạy,
2 hoạt động dạy học trong suốt tiết học, giáo viên kia bao quát
giáo viên kia hỗ trợ
toàn bộ lớp học và hỗ trợ cho những học sinh cần giúp đỡ.
516
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
(One teach, one assist Giáo viên hướng dẫn Giáo sinh thực tập
- Chủ trì việc hợp tác soạn
giáo án và đảm nhiệm quá - Đóng vai trò trợ giảng, làm
trình giảng bài, tổ chức hoạt việc trực tiếp với một nhóm
động lên lớp. hoặc một số học sinh khi các
- Chỉ rõ công việc của giáo em cần giúp đỡ.
sinh trong giờ học.
Sau một thời gian, giáo sinh lại đảm nhiệm toàn bộ quá trình
lên lớp, giáo viên hướng dẫn lại đóng vai trò trợ giảng.
Hai giáo viên cùng dạy một nội dung nhưng họ chia lớp học
ra làm hai nhóm và cùng dạy đồng thời.
Giáo viên hướng dẫn Giáo sinh thực tập
- Chủ trì việc hợp tác soạn
giáo án.
Dạy song song - Dạy đúng nội dung bài học
3 -Xác định bài học và giảng
đó cho một nửa lớp còn lại.
(Paralell teaching) bài, lên lớp cho một nửa
lớp học.
Sau một thời gian, giáo sinh xác định bài học, chỉ đạo việc
hợp tác soạn giáo án. Cả giáo viên hướng dẫn và giáo sinh
cùng dạy một nội dung bài học đó cho hai nhóm học sinh
riêng biệt trong cùng một thời điểm.
Giáo viên phân chia nội dung và học sinh. Mỗi giáo viên lần
lượt dạy các nội dung đã được phân công cho nhóm này rồi
tiếp tục cho nhóm kia. Và nếu có thể nên có một trạm (góc)
học tập để người học làm việc độc lập.
Giáo viên hướng dẫn Giáo sinh thực tập
- Chủ trì việc hợp tác soạn
Dạy theo nhóm giáo án.
4 - Dạy cho học sinh một số
(Station teaching) - Xác định nội dung dạy cho
nội dung đã được phân công
từng giáo sinh.
tại một số góc học tập.
- Dạy một số nội dung tại
một số góc học tập.
Sau một thời gian, giáo sinh chủ trì việc hợp tác soạn giáo án,
xác định nội dung trọng tâm và phân công nội dung cho từng
thành viên.
Giáo viên phân chia học sinh thành các nhóm. Một giáo viên
đảm trách mỗi nhóm dạy cùng một nội dung nhưng sử dụng
phương pháp, kỹ thuật và chiến lược dạy học khác nhau.
Dạy thay thế Giáo viên hướng dẫn Giáo sinh thực tập
5
(Alternative teaching) - Chủ trì việc hợp tác soạn - Dạy một nhóm học sinh với
giáo án. một kiểu chiến lược dạy
- Phân học sinh vào từng học khác với giáo viên
nhóm theo thế mạnh và nhu hướng dẫn.
517
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
cầu của các em và xác định
các chiến lược dạy học phù
hợp với từng nhóm.
- Dạy một nhóm học sinh với
một kiểu chiến lược dạy học.
Sau một thời gian, giáo sinh sẽ chủ trì việc hợp tác soạn giáo
án, chủ động phân chia học sinh thành các nhóm tương ứng
với các chiến lược dạy học phù hợp với các em.
Cả hai giáo viên cùng nhau dạy cùng một bài học. Một người
có thể làm mẫu, người kia nói. Một người có thể minh họa,
người kia giải thích. Giáo viên có thể đóng vai hoặc có thể
họ lần lượt giảng từng nội dung của bài học.
Giáo viên hướng dẫn Giáo sinh thực tập
- Chủ trì việc hợp tác soạn
Dạy nhóm (team
6 giáo án. - Giảng một phần nội dung
teaching)
- Giảng một phần nội dung của bài học, tổ chức một số
của bài học, tổ chức một số hoạt động học tập như đã
hoạt động học tập như đã phân công.
phân công.
Sau một thời gian, giáo sinh sẽ đảm nhiệm chỉ đạo việc hợp
tác soạn giáo án.
Ghi chú: Phỏng theo Co-Teaching Approaches. Từ Bacharach, N., Heck, T.W. &
Dahlberg, K. (2010). Researching the use of co-teaching in the student teaching experience. In
Colette Murphy & Kathryn Scantlebury (Eds). Moving Forward and Broadening Perspectives:
Coteaching in International contexts. New York: Springer Publishing.
Hình 2. Các hình thức dạy hợp tác
518
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
Ghi chú: Phỏng theo Co-Teaching Approaches. From M. Friend & W. D. Bursuck
(2009). Including Students With Special Needs: A Practical Guide for Classroom Teachers (5th
ed., p. 92). Columbus, OH: Merrill
2.3. Lợi ích và thách thức khi ứng dụng mô hình dạy hợp tác trong thực tập
sư phạm
Heck, Bacharach và Dahlberg (2008) đã chỉ ra một số đặc trưng khác biệt của mô
hình hợp tác trong thực tập so với mô hình thực tập truyền thống. Trong đó, nhóm tác
giả này đặc biệt nhấn mạnh đến các khía cạnh sau:
Mức độ tham gia của các thành viên: Ở mô hình thực tập truyền thống, giáo viên
hướng dẫn chỉ chủ yếu sửa giáo án, dự giờ và góp ý, giáo sinh thực tập đảm nhiệm toàn
bộ quá trình tổ chức dạy học, từ lên kế hoạch dạy học cho đến tổ chức các hoạt động lên
lớp. Với mô hình dạy hợp tác, cả giáo viên hướng dẫn và giáo sinh đều tích cực tham
gia vào các khâu của quá trình lên lớp.
Sự chuẩn bị: Ở mô hình thực tập truyền thống, thông thường không có một
chương trình tập huấn chính thức nào cho giáo viên hướng dẫn và giáo sinh thực tập.
Riêng với mô hình dạy hợp tác thì cả giáo viên hướng dẫn và giáo sinh thực tập đều
phải tham gia các đợt tập huấn về dạy tích hợp để được trang bị kỹ lưỡng và đầy đủ các
kỹ năng và chiến lược thực hiện mô hình này.
Lên kế hoạch: Ở mô hình thực tập truyền thống, giáo sinh sẽ soạn giáo án độc lập
và trình cho giáo viên hướng dẫn sửa chửa trước tiết dạy. Ở mô hình dạy hợp tác, cả hai
cùng làm việc để soạn giáo án, tận dụng được thế mạnh riêng của mỗi người về tri thức,
phương pháp, chiến lược dạy học để làm phong phú thêm cho các hoạt động của giờ
học, giúp học sinh tiếp thu bài một cách sinh động và hiệu quả nhất.
Làm mẫu, kèm cặp và hướng dẫn: Ở mô hình truyền thống, giáo sinh thực tập
được yêu cầu thực hiện đầy đủ các kỹ năng từ soạn giáo án, lên lớp, quản lý lớp học...
Họ phải có tất cả các khả năng để đảm nhiệm việc dạy học sau một vài tuần dự giờ giáo
viên hướng dẫn. Trong khi đó, với mô hình dạy hợp tác, giáo sinh sẽ có thời gian để rèn
luyện tất cả các kỹ năng này với sự hỗ trợ và chỉ dẫn của giáo viên hướng dẫn qua từng
tiết dạy hợp tác và làm việc cùng nhau.
Với những đặc trưng này, việc thực hiện mô hình thực tập hợp tác này cho thấy
giáo sinh dần dần có những tiến bộ đáng kể về năng lực dạy học và giáo dục trong quá
trình thực tập và tự tin hơn hẳn về năng lực sư phạm của chính mình (Bacharach, Heck
và Dahlberg, 2008; Bacharach, Heck và Dahlberg, 2007; Heck, Bacharach, Dahlberg,
Ofstedal, Mann và Wellik, 2007; Heck, Bacharach, Ofstedal, Mann, Wellik và
Dahlberg, 2006; Perl, Maughmer và McQueen, 1999). Murphy và Beggs (2006) và
Murphy Beggs, Carlisle và Greenwood (2004) cũng phát hiện rằng các nghiên cứu ở
nhiều quốc gia trên thế giới về việc sử dụng mô hình hợp tác này trong chương trình
thực tập cho thấy kết quả học tập của các giáo sinh cũng tăng lên, đồng thời thái độ của
họ đối với môn học mà họ giảng dạy cũng cải thiện rất nhiều, động cơ nghề nghiệp của
trở nên mạnh mẽ và tích cực hơn. Việc sử dụng mô hình này cũng ảnh hưởng tích cực
519
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
đến thành tích học tập của học sinh cũng như nâng cao kiến thức và kỹ năng chuyên
môn cho chính các giáo viên hướng dẫn (Bacharach, Heck và Dahlberg, 2010).
Với nhiều lợi ích như vậy, mô hình này đang được ứng dụng rộng rãi trong các
chương trình thực tập ở nhiều nước trên thế giới. Dù vậy, việc thực hiện hiệu quả mô
hình thực sự đòi hỏi rất nhiều nỗ lực từ phía giáo viên hướng dẫn, giáo sinh và các nhà
quản lý giáo dục trong nhà trường. Có khá nhiều thách thức mà các thành phần giáo dục
tham gia vào mô hình thực tập này cần phải vượt qua (Bacharach, Heck và Dahlberg,
2010). Vấn đề đầu tiên mà họ phải đối mặt là cần nhiều sự chuẩn bị và lên kế hoạch cho
giờ học tiếp theo và giáo viên có rất ít thời gian để làm việc cùng với giáo sinh
(Mastropieri, Scruggs, Graetz, Norland, Gardizi và Mcduffie, 2005). Việc phải thu xếp
thời gian thích hợp ở trường cũng như sau giờ học để hợp tác với giáo sinh chuẩn bị cho
giờ học tiếp theo khiến giáo viên không có thời gian để nghỉ ngơi và cảm thấy căng
thẳng, mệt mỏi (Magiera và Zigmond, 2005; Murawski và Dieker, 2004). Nhiều giáo
viên nhận thấy thay vì đơn giản chỉ cần chuẩn bị giáo án theo cách của họ bấy lâu nay,
họ phải mất nhiều thời gian hơn để phối hợp và hòa hợp chiến lược dạy học của họ với
các giáo sinh còn non nớt về kinh nghiệm. Chưa kể, sự kết hợp giữa hai phong cách dạy
học khác nhau cũng là một thách thức khác. Việc kết hợp hai người dạy có phong cách
gần giống nhau giảng dạy dường như dễ đem lại hiệu quả cho mô hình này (Magiera, &
Zigmond, 2005).
Chưa kể đến việc cùng đứng lớp với một giáo sinh chưa có nhiều kinh nghiệm
khiến nhiều giáo viên hướng dẫn cảm thấy không thoải mái và hài lòng. Đặc biệt là khi
nhiều giáo sinh bỏ lỡ hoặc không nắm bắt được những “thời khắc vàng” để giúp học
sinh nâng cao kiến thức, khắc sâu kiến thức... (Perl, Maughmer và Mc.Queen, 1999).
Quan trọng hơn, một số giáo sinh không thể nào chuyển tải một cách hoàn chỉnh nội
dung trọng tâm mà giáo viên hướng dẫn mong muốn.
Một vấn đề nữa có thể là thách thức của mô hình này là sự không nhất quán trong
kỷ luật lớp học. Hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” là điều hoàn toàn có thể
xảy ra. Nhiều giáo viên thà dạy một mình còn hơn là phải ứng phó với việc không thống
nhất về kỷ luật giữa hai giáo viên. Học sinh có thể lợi dụng điều này để gây sự mâu
thuẫn giữa giáo viên (Perl, Maughmer và Mc.Queen, 1999). Rõ ràng rằng dạy hợp tác
trong thực tập không hề dễ dàng. Nhiều giáo viên không cảm thấy thoải mái khi phải
giải quyết các vấn đề xung đột giữa họ và giáo sinh. Dạy hợp tác không dành cho các
giáo viên thích khống chế lớp học, không linh hoạt và luôn tin rằng có duy nhất một lối
dạy đúng đắn. Giáo viên và giáo sinh phải đi đến sự nhất trí và đồng thuận về kỷ luật, tổ
chức lớp học, sinh hoạt hằng ngày và các tiến trình liên quan khác. Việc xây dựng mối
quan hệ tin tưởng, cầu thị, tôn trọng nhau cùng thực hiện các cam kết rõ ràng được xem
là điều kiện tiên quyết để thực hiện hiệu quả mô hình này (Magiera và Zigmond, 2005).
3. KẾT LUẬN
Để nâng cao chất lượng giáo viên, việc tạo bước đột phá trong khâu tổ chức và
thiết kế mô hình TTSP là điều hết sức cần thiết. Chuyển đổi từ mô hình truyền thống
520
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
sang mô hình hợp tác trong các chương trình thực tập có thể góp phần tạo bước đột phá
đó. Bằng sự chuyển đổi này, chúng ta hy vọng rằng các giáo sinh sẽ không phải “tự bơi”
trong “biển” nghệ thuật dạy học phức tạp, mà họ được hỗ trợ và kèm cặp một cách tận
tụy để rèn luyện đầy đủ các kỹ năng sư phạm và có thể tự đứng lớp một cách tự tin và
vững vàng. Chúng ta không vội khoác lên họ chiếc áo của người thầy mà họ cảm thấy
quá rộng mà chúng ta cung cấp cho họ những công cụ cần thiết để chuyển tiếp từ vai trò
của sinh viên sư phạm sang vai trò của người thầy một cách êm đềm hơn và có lẽ có ý
nghĩa hơn.
Dù có rất nhiều thách thức cần phải vượt qua, nhưng kết quả các nghiên cứu thực
chứng đã cho thấy sự nỗ lực của các giáo viên hướng dẫn và các giáo sinh trong việc
tìm kiếm tiếng nói chung và thiết lập mối quan hệ tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau sẽ đem
lại thành công cho việc áp dụng mô hình này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bacharach, N., Heck, T., & Dahlberg, K. (2010), Researching the use of co-teaching in
the student teaching experience. In Colette Murphy & Kathryn Scantlebury (Eds).
Moving Forward and Broadening Perspectives: Coteaching in International contexts.
New York, New York: Springer Publishing.
[2] Bacharach, N., Heck, T., & Dahlberg, K. (2013), Researching the use of co-teaching in
the classrooms: A metasynthesis of qualitative research, Exceptional Children, 73,
392-416.
[3] Bacharach, N., Heck, T. & Dank, M. (February, 2004), Co-Teaching in Student
Teaching: A case study, Paper presented at the annual meeting of the Association of
Teacher Educators, Dallas, Texas.
[4] Cook, L., & Friend, M. (1995), Co-teaching: Guidelines for creating effective practice,
Focus on Exceptional Children, 28(3), 1-16.
[5] Friend, M. (2007). The co-teaching partnership. Educational Leadership, 64(5), 58-62.
[6] Gately, S. F., & Gately, Jr., F. J. (2001), Understanding co teaching components.
Teaching Exceptional Children, 33, 40-47.
[7] Guyton, E. & McIntyre, D. (1990), Student teaching and school experiences, In W.
Houston (Ed.), Handbook of research on teacher education (pp.514-534), New York,
NY: Macmillan Publishing.
[8] Hartigan, B. (2014) Early Childhood Teacher Preparation: Using the Co-
Teaching Model, Creative Education, 5, 641-645.
[9] Heck, T., Bacharach, N, & Dahlberg, K. (2007), Changing the landscape of student
teaching: The co-teaching experience, Paper presented at the annual meeting of the
Association of Teacher Educators, San Diego, CA.
[10] Heck, T., Bacharach, N., Ofstedal, K., Dahlberg, K., Mann, B., & Wellik, J. (2007),
Extreme Makeover: Student teaching edition, Paper presented at the annual meeting of
the Association of Teacher Educators, San Diego, CA.
[11] Heck, T., Bacharach, N., Ofstedal, K., Mann, B, & Wellik, J, Dahlberg, K. (2006),
Rethinking student teaching, Paper presented at the annual meeting of the Association
of Teacher Educators, Atlanta, GA.
521
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
[12] Kloo, A., & Zigmond, N. (2008), Co-teaching revisited: Redrawing the blueprint.
Preventing School Failure, 52(2), 12-20.
[13] Magiera, K., & Zigmond, N. (2005), Co‐Teaching in Middle School Classrooms Under
Routine Conditions: Does the Instructional Experience Differ for Students with
Disabilities in Co‐Taught and Solo‐Taught Classes, Learning Disabilities Research &
Practice, 20(2), 79-85.
[14] Mastropieri, M.A., Scruggs, T.E., Graetz, J.E., Nordland, J., Gardizi, W., & McDuffie,
K. (2005), Case studies in co-teaching in the content areas: Successes, failures and
challenges, Intervention in School and Clinic, 40, 260-270.
[15] Murawski, W. W., & Dieker, L. A. (2004), Tips and strategies for co-teaching at the
secondary level, Teaching exceptional children, 36(5), 52-59.
[16] Murphy, C., & Beggs, J. (2006), Coteaching investigative primary science with student
teachers, Retrieved from website http://www.azteachscience.co.uk/resources/cpd/
coteaching/view-online.aspx
[17] Murphy, C., Beggs, J., Carlisle, K., Greenwood, J. (2004), Students as ‘catalysts’ in the
classroom: the impact of coteaching between science student teachers and primary
classroom teachers on children’s enjoyment and learning of science, International
Journal of Science Education, 26(8), 1023-1035.
[18] NCATE. (2010), Transforming teacher education through clinical practice: A national
strategy to prepare effective teachers, Blue Ribbon Panel on Clinical Preparation and
Partnerships for Improved Student Learning. Washington, DC: NCATE.
[19] Nguyễn Thị Ban (2010), Thực tập sư phạm – Yếu tố quan trọng quyết định đến chất
lượng đào tạo giáo viên, Truy cập ngày 22.10.2016 tại lib.education.vnu.edu.vn:8121/
bitstream/.../Ng%20Thi%20Ban.doc
[20] Perl, M., Maughmer, B. & McQueen, C, (1999). Co-Teaching: A different approach for
cooperating teachers and students teachers, Paper presented at the annual meeting of
the American Educational research Association, Chicago.
[21] Scruggs, T. E., Mastropieri, M. A., & McDuffie, K. A. (2007), Co-teaching in inclusive
classrooms: Ametasynthesis of qualitative research, Exceptional Children, 73, 392–416
[22] Tschida, C., Smith, J. J., & Fogarty, E. A, (2015), It Just Works Better: Introducing the
2:1 Model of Co-Teaching, Rural Educator, 36(2), 11-26.
[23] Võ Văn Chương (2008), Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm: Vài
suy nghĩ về thực trạng và giải pháp, Kỷ yếu Hội thảo “Công tác thực tập sư phạm của
các trường sư phạm”, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 20-27.
Title: CO- TEACHING - A NEW MODEL FOR STUDENT TEACHING
Abstract: The teaching practice is one of the most influential and powerful phases of teacher’s
preparation for prospective teachers. However, in most institutions, teaching practice model has
not significantly changed for many recent decades. This paper aims to introduce a co-teaching
approach in teaching practice – a new approach that has been applied among many countries all
over the world. This model can bring about positive changes for teaching practice in educational
institutions.
Keywords: teaching practice; teaching practice model, co-teaching
522
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
ThS. NGUYỄN PHƯỚC CÁT TƯỜNG
Khoa Tâm lý - Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
ĐT: 01206066034, Email: aline1174@yahoo.co.uk
TS. ĐINH THỊ HỒNG VÂN
Khoa Tâm lý - Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
ĐT: 01213513579, Email: dthvan2000@yahoo.com
523
nguon tai.lieu . vn