- Trang Chủ
- Ngôn ngữ học
- Dạy học văn học dân gian với việc nâng cao tri thức, giữ gìn truyền thống văn hóa cho học sinh phổ thông
Xem mẫu
- DẠY HỌC VĂN
Khoa Ngữ văn, Trƣờng HỌC DÂN GIAN
Đại học Sƣ phạm Hà Nội VỚI VIỆC NÂNG
Điện thoại: 0989209917 CAO TRI THỨC,
GIỮ GÌN TRUYỀN
Email: THỐNG VĂN HÓA
viethungsphn@yahoo.com CHO HỌC SINH
TS. NGUYỄN VIỆT HÙNG PHỔ THÔNG
TÓM TẮT
Văn học dân gian vừa là văn học vừa là văn hóa. Mỗi tác phẩm văn học dân gian
chứa đựng những tƣ liệu văn hóa, khoa học, tri thức của cộng đồng.Vì thế việc dạy và
học văn học dân gian góp phần nâng cao tri thức văn hóa truyền thống của học sinh và
thực hiện việc bảo truyền thống văn hóa.
Từ khóa: văn học dân gian, tri thức văn hóa, truyền thống văn hóa, bảo tồn văn
hóa
ABSTRACT
Folklore is both literature and culture. Each literary works contain folk material
culture, science, knowledge of the community. So learning and teaching folklore
contribute to improving knowledge of traditional culture and guide students to preserve
their cultural traditions.
Key words: folklore, cultural knowledge, cultural traditions, cultural
preservation
1. Mở đầu
Văn học dân gian (VHDG) không phải là một bộ môn khoa học đƣợc dạy và học
một cách độc lập trong nhà trƣờng. Phần VHDG cũng nhƣ những mảng kiến thức Ngữ
văn khác nằm trong khung chƣơng trình Ngữ văn trong nhà trƣờng và cùng có nhiệm vụ
hƣớng tới mục tiêu của môn học: “góp phần hình thành những con ngƣời có trình độ
học vấn, có ý thức tự tu dƣỡng, biết thƣơng yêu quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu
nƣớc, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hƣớng tới những tƣ tƣởng tình cảm cao đẹp nhƣ lòng
84
- nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác… Đó
cũng là những ngƣời có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”[6/4] . Mục tiêu đƣợc cụ thể hoá thành ba phƣơng diện: kiến
thức, kĩ năng và thái độ và những phƣơng diện đó đã chi phối đến cấu tạo của khung
chƣơng trình, cấu trúc của sách giáo khoa.
Chƣơng trình và SGK Ngữ văn bậc THCS và THPT hiện hành đã đƣợc ban hành
kèm theo quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT, ngày 24 tháng 01 năm 2002 của Bộ
trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chƣơng trình này đƣợc chuẩn hoá và thay thế cho
những chƣơng trình trƣớc đây. “Bên cạnh những cải tiến chung của bộ Chƣơng trình
nhƣ giảm tải, tăng thực hành, gắn đời sống, nét cải tiến nổi bật của Chƣơng trình và
SKG môn Ngữ văn là hƣớng tích hợp”. Hệ quả của điều này là việc thay sách giáo khoa
ở tất cả các lớp học và sự thay đổi một số đơn vị kiến thức cơ bản, trong đó có phần
Văn học dân gian (VHDG). Dẫu có sự thay đổi nhƣ thế nào về cấu trúc chƣơng trình, hệ
thống bài học cụ thể thì đối tƣợng VHDG vẫn không thay đổi. Đó là những sáng tác
nghệ thuật ngôn từ trong chỉnh thể folklore nghệ thuật và vì thế, VHDG vừa là văn học
vừa là văn hóa. Việc dạy và học VHDG trong nhà trƣờng không chỉ tiếp cận tác phẩm
và thể loại theo đặc trƣng mà điều quan trọng mà mảng nội dung kiến thức này đem đến
cho ngƣời học là cung cấp những kiến thức, tri thức về văn hóa truyền thống của cộng
đồng; nhận thức rõ ràng về vốn văn hóa đó là bƣớc đầu tiên trong quá trình bảo tồn
truyền thống văn hóa của các thế hệ.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Mĩ học folklore và quan niệm về Văn học dân gian
Mĩ học folklore của phƣơng Đông và phƣơng Tây trong cuối thế kỉ XIX đến nay
gặp gỡ nhau ở điểm cơ bản coi folklore là một loại văn hóa dân gian, trong đó yếu tố
ngôn từ không tách rời khỏi các yếu tố khác nhƣ âm nhạc, nghi lễ, phong tục tập quán,
sân khấu, tín ngƣỡng… của con ngƣời. Trên thực tế, ngƣời ta “không thể xác định ranh
giới chính xác” [V. Gen-nép, 2/108]. Xu hƣớng ban đầu, các nhà nghiên cứu xem
folklorelà đối tƣợng phức hợp, đa dạng (ở Pháp, Tây Ban Nha, Bỉ…), nhƣng đến khi
trƣờng phái Phần Lan ra đời thì xu hƣớng rút gọn folklore nhƣ tác phẩm ngôn từ, họ
nghiên cứu Ka-lê-va-la nhƣ một tác phẩm thơ, theo tinh thần ngữ văn [2/112]. Quan
điểm này nhanh chóng đƣợc thay đổi bởi các nhà khoa học Xô-viết đầu thế kỉ XX. Họ
cho rằng khái niệm văn học, thơ văn không bao trùm hết folklore, và không thể phân
biệt ranh giới giữa folklore và các phƣơng thức biểu hiện nghệ thuật khác [Iu. Xô-cô-
lốp, 2/113]. Tiếp nối truyền thống đó, các nhà nghiên cứu nhƣ Ji-mun-xki, Gu-sép,
Prốp… đều nghiên cứu ngữ văn dân gian trong chỉnh thể văn hóa dân gian, gắn liền với
văn hóa, tín ngƣỡng, nghi lễ truyền thống. [Mĩ học folklore – Gusev, Folklore và thực
tại, Prốp]
85
- Những công trình văn hóa học, nhân học của nhân loại trong khi rất chú trọng
mô tả cặn kẽ, tỉ mỉ những tƣ liệu dân tộc học trong sự đối sánh với folkloređã tạo tiền
đề về mặt lí luận cũng nhƣ thực tiễn cho các nhà folklorehọc trong việc đi tìm bản chất
của folklorecũng nhƣ mối quan hệ của nó với các loại hình nghệ thuật, văn hóa khác.
Quan điểm đó đƣợc thể hiện trong một hệ thống các công trình nghiên cứu nhân học,
mở đầu là văn hóa học: “Văn hóa nguyên thủy” của E. Taylor, tiếp đó là “Cành vàng”,
Các huyền thoại về nguồn gốc của lửa (J.Frazer); Thi pháp của huyền thoại (Mê-lê-tin-
xki) đến những công trình gần đây: Địa đàng phƣơng Đông (Oppenheimer),… Những
mô tả dân tộc học đó luôn gắn với các thần thoại, huyền thoại tồn tại trong các cộng
đồng dân cƣ khắp thế giới. Nếu nhƣ Taylor tìm đến tƣ liệu của các thổ dân da đỏ châu
Öc, các cộng đồng châu Phi thì Frazer chủ yếu mô tả các nghi lễ, tục lệ dân gian của các
bộ lạc đến các dân tộc châu Âu thời Trung cổ.
Trong công trình “Folklore và thực tại”, V. Prốpsau khi phân tích những đặc
trƣng của folkloretrong mối quan hệ với dân tộc học, khảo cổ, phong tục… tác giả
khảo sát một trƣờng hợp “Truyện cổ tích Nàng công chúa không cƣời” qua rất nhiều
phƣơng diện: cấm cƣời, tiếng cƣời ban phát sự sống, tiếng cƣời trong nghi lễ trồng trọt,
tiếng cƣời nở hoa,… để từ đó đƣa đến kết luận về bản chất nông nghiệp của tiếng cƣời
trong hình tƣợng nàng công chúa không cƣời.
“Tất cả những tài liệu đã trình bày trên đây cho phép chúng ta rút ra kết luận:
Truyện cổ tích về nàng công chúa không cƣời ma thuật dựa trên ý niệm cho rằng ngƣời
chết không cƣời,chỉ có ngƣời sống cƣời hơn. Khi đi xuống vƣơng quốc của cái chết,
những ngƣời chết không thể cƣời, những ngƣời sống không đƣợc cƣời. Ngƣợc lại,mọi
trƣờng hợp nhập thế, dù đó là sự ra đời của một đứa trẻ hay sự tái sinh tƣợng trƣng
trong nghi lễ nhập môn hoặc những nghi lễ tƣơng tự, có kèm theo tiếng cƣời, tiếng cƣời
này đƣợc gán cho là có một sức mạnh không phải chỉ đi kèm với sự sống mà còn tạo ra
đƣợc sự sống. Vì vậy, những trƣờng hợp nhập thế đều nhất thiết có kèm theo tiếng cƣời
nghi lễ. Những nguyên nhân thật sự của sự ra đời không đƣợc nhận thức một cách chủ
động và không đƣợc phản ánh trong nghi lễ. Cùng với sự xuất hiện của nông nghiệp,
tiếng cƣời đƣợc gán cho là có khả năng kích thích sự sống của cây cỏ. Một mặt, vẫn tiếp
tục cái tuyến những hiện tƣợng tạo ra sự sống mà không cần giao phối nam nữ. Hoa nở
ra từ nụ cƣời của ngƣời phụ nữ không có sự tham gia của ngƣời chồng - Đêmêtê, nữ
thần phì nhiêu, là một điển hình của nữ thần phì nhiêu không chồng. Tiếng cƣời của nữ
thần gắn với đặc tính nông nghiệp của nữ thần. Mặt khác, nguyên nhân thực sự của việc
tạo ra sự sống cũng nhƣ sinh ra con ngƣời đã đƣợc chủ động chuyển sang cho cây cỏ,
đƣợc đƣa vào nghi lễ. Ở đây, tiếng cƣời, việc cày ruộng và sự gặp gỡ vợ chồng tạo
thành một thể toàn vẹn. Ở hình tƣợng Đêmêtê, chúng ta đã thấy có những ý định gán
cho nữ thần một ngƣời chồng. Truyện cổ tích về nàng công chúa không cƣời và về
những dấu vết riêng của công chúa biểu hiện sự phát triển toàn vẹn của cái tuyến ấy.
86
- Một mặt chỉ cần làm cho công chúa cƣời lên đƣợc, mặt khác cần có một ngƣời chồng có
sức mạnh ma thuật. Ở hình tƣợng công chúa cũng nhƣ ở hình tƣợng chàng rể, chúng ta
thấy bộc lộ những tính cách nông nghiệp.”
Quan điểm của các nhà mĩ học Xô-viết càng đƣợc củng cố bởi chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phân tích, cắt nghĩa đặc trƣng của folklore ngôn từ có nguồn gốc từ sự
nhận thức nguyên hợp của ngƣời nguyên thủy, nhận thức thẩm mĩ mang tính tổng hợp.
Trong buổi sơ khai của xã hội loài ngƣời, nghệ thuật không chỉ tồn tại đơn thuần, độc
lập mà nó gắn với hoạt động thực tiễn của con ngƣời, có ý nghĩa thực tiễn, sau đó mới là
ý nghĩa nghệ thuật. Cosven đã miêu tả các hình thức nhảy múa liên quan đến âm nhạc…
Folklore thoạt đầu có thể là một thành phần của một hình thức nghi lễ. Khi hình thức
nghi lễ ấy suy tàn hay mất đi thì folklore tự tách ra và bắt đầu sống cuộc sống độc lập
của nó. Các hình vẽ trên hang động, những hình thức nhảy múa trƣớc hoặc sau cuộc đi
săn… vừa mang ý nghĩa truyền đạt kinh nghiệm, vừa mang màu sắc ma thuật, tôn giáo.
Rõ ràng là VHDG gắn với rất nhiều yếu tố, và là một thành phần quan trọng trong các
yếu tố tôn giáo, nghi lễ, phong tục, tập quán… Đây là những thành tố của tổng thể văn
hoá. Do đó, VHDG chính là một hiện tƣợng văn hoá, một thành tố trong chỉnh thể văn
hoá đó. Nói đến đặc trƣng văn hoá của VHDG là chúng ta nhấn mạnh đến tính nguyên
hợp của nó. VHDG không chỉ đơn giản là văn học mà còn là khoa học tổng hợp, là cuốn
bách khoa toàn thƣ về thế giới. Thông qua mỗi tác phẩm VHDG con ngƣời không
những thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của mình mà còn tìm thấy kiến thức nhiều mặt ẩn
chứa trong đó. Tác phẩm đó cũng là nơi lƣu giữ những giá trị bền vững của nền văn hoá
cổ truyền.
2.2. Tìm về cội nguồn văn hóa cộng đồng từ tác phẩm, thể loại văn học dân gian
Những thể loại VHDG có đời sống không tách rời ra mà gắn với những hoạt động
thực tiễn của con ngƣời. VHDG là nơi ẩn chứa thẩm thấu văn hóa dân gian, trong đó
những yếu tố tôn giáo, tín ngƣỡng, phong tục… của ngƣời nguyên thủy đƣợc chọn lọc,
khúc xạ, hình thành nên những biểu tƣợng, những mã văn hóa. Vì thế so với bối cảnh xã
hội, so với nền tảng văn hóa rộng lớn, những biểu tƣợng trong VHDG kết tinh những
giá trị văn hóa, diễn đạt tƣ tƣởng cộng đồng một cách cô đọng, hàm súc. Những năm
giữa thế kỉ XX, tác giả Tầm Vu đã tìm hiểu tƣ tƣởng ngƣời Việt qua những truyền
thuyết hàng đầu (Họ Hồng Bàng, Sơn Tinh Thủy Tinh, Thánh Gióng…). Tác giả Vũ
Ngọc Khánh cũng đặt vấn đề tìm hiểu lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam trong văn hóa dân
gian, ông đã khái quát những vấn đề cơ bản trong tƣ tƣởng ngƣời Việt nhƣ: ý thức cội
nguồn dân tộc, sức sống mãnh liệt, tinh thần dân tộc, hội nhập tƣ tƣởng, triết học, tôn
giáo…
Từ đó, chúng tôi nhận thấy việc dạy và học phần VHDG không thể tách rời với việc
tìm hiểu văn hóa truyền thống của dân tộc. Thực hiện việc này vừa đi đúng hƣớng tiếp
87
- cận VHDG theo đặc trƣng nguyên hợp, vừa đáp ứng đƣợc nhu cầu bồi dƣỡng, nâng cao
vốn tri thức văn hóa truyền thống của học sinh phổ thông. Thậm chí nếu không tuân thủ
nguyên tắc tiếp cận đó có thể gây ra những tranh luận về các tác phẩm VHDG trong nhà
trƣờng nhƣ chúng ta đã biết: về cái chết mẹ con mụ dì ghẻ trong Tấm Cám, bản chất
hình tƣợng Chử Đồng Tử, hình tƣợng An Dƣơng Vƣơng…
Trong hệ thống thể loại VHDG, mức độ biểu hiện của yếu tố văn hóa đậm nhạt khác
nhau, và mỗi thể loại cũng lựa chọn, chắt lọc những tƣ liệu văn hóa, lịch sử, tƣ tƣởng
khác nhau để đƣa vào tác phẩm. Ngƣời ta có thể tìm thấy cội nguồn tƣ tƣởng về quốc
gia, dân tộc, ý thức về chủ quyền lãnh thổ, sự đấu tranh bảo vệ độc lập trong thể loại
truyền thuyết; đồng thời cũng có thể tìm thấy những phong tục tập quán, tín ngƣỡng và
nhƣng sinh hoạt cộng đồng ở những truyện cổ tích.
Trong chƣơng trình phổ thông, thể loại truyền thuyết đƣợc đƣa vào giảng dạy ở
lớp 7 và lớp 10, có các tác phẩm sau: Con Rồng cháu Tiên, Thánh Gióng, Bánh chƣng
bánh giầy, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Sự tích Hồ Gƣơm (lớp 7), An Dƣơng Vƣơng và Mỵ
Châu – Trọng Thủy (lớp 10). Các truyền thuyết khá đa dạng về đề tài, chủ đề phản ánh.
Trong đó có đề tài nguồn gốc dân tộc, truyền thống chống ngoại xâm, ca ngợi những
anh hùng sáng tạo văn hoá, đề cao thành tựu văn minh buổi ban đầu… Trong 5 truyền
thuyết thì 4 truyện về thời đại Hùng Vƣơng, một truyện về thời Hậu Lê. Thời đại Hùng
Vƣơng là “thời đại mở đầu lịch sử Việt Nam”, gắn với vấn đề nguồn gốc dân tộc và
công cuộc dựng nƣớc, giữ nƣớc” buổi ban đầu của dân tộc. Chủ đề của các truyền
thuyết đã bao quát đƣợc các vấn đề trọng đại đặt ra với cộng đồng, dân tộc lúc bấy giờ,
đó là:
- Giải thích nguồn gốc giống nòi
- Giải thích tục làm bánh chƣng, bánh giầy thờ cúng ông bà
- Đề cao thành tựu văn minh buổi ban đầu
- Ý thức và ƣớc mơ về ngƣời anh hùng chống ngoại xâm
- Giải thích hiện tƣợng lũ lụt, ca ngợi chiến công dựng nƣớc
Qua đó, học sinh đƣợc giáo dục về truyền thống của dân tộc, ý thức suy tôn
giống nòi, cổ vũ tinh thần đoàn kết và trách nhiệm với cộng đồng. Đó cũng là những
chức năng chính, vai trò lịch sử của thể loại mà truyền thuyết cần đạt đƣợc. Trong số
những truyền thuyết đó, có nhiều truyện mang tính tƣ tƣởng cao: tác giả Tầm Vu đã gọi
đó là những “truyện đứng đầu” trong kho tàng thần thoại (5 truyện), truyền thuyết ngƣời
Việt, tác giả Đinh Gia Khánh cũng lựa chọn 4 truyện tiêu biểu… Tƣ tƣởng nổi bật của
những truyện đó là “yêu nƣớc thƣơng nòi – ở trình độ sơ khai nhƣng đã có những nét
tuyệt vời”. SGK có 3 truyện trong số đó là: Con Rồng cháu Tiên (Truyện họ Hồng
Bàng), Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng. Những tác phẩm đó đã khẳng định giá trị của
88
- chúng trong lòng nhân dân qua bao thế hệ và đƣợc nhân dân sàng lọc, nâng niu, mài
giũa, đồng thời chính những tác phẩm ấy đáp ứng tâm tƣ, nguyện vọng, những nhu cầu
trực tiếp của ngƣời dân.
Sách Ngữ văn 10 quan niệm “truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về các
nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thƣờng có yếu tố tƣởng tƣợng
kì ảo. Truyền thuyết thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân với các sự kiện và
nhân vật lịch sử đƣợc kể”. Quan niệm này không phải là không đúng chỉ có điều nó quá
chú ý đến “yếu tố lịch sử” trong truyền thuyết: kể và đánh giá về “các nhân vật và sự
kiện lịch sử”. Điều này đúng nhƣng không đủ vì truyền thuyết nói nhƣ Vũ Quỳnh là “sử
ở trong truyện”, yếu tố lịch sử tạo là một phần của cơ sở lịch sử – xã hội cho sự ra đời
của truyền thuyết. Trong truyền thuyết, lịch sử là nền, là bối cảnh trực tiếp diễn ra các
sự kiện, hành động của nhân vật. Nhƣng bên cạnh đó, yếu tố văn học, bản chất thẩm mĩ
của thể loại cũng hết sức quan trọng. Chính sự sáng tạo của nhân dân lao động (về cả
những nhân vật và sự kiện) làm nên đặc trƣng văn học của thể loại. Thực tế cho thấy,
truyền thuyết có nhiều nhân vật là sự sáng tạo của nhân dân (Thánh Gióng, thần Kim
Quy…), còn các sự kiện thì hầu hết là sản phẩm của trí tƣởng tƣợng bay bổng của ngƣời
lao động.
Mặt khác, khái niệm này chỉ trình bày truyền thuyết nhƣ là những văn bản văn
học đơn thuần mà chƣa có những gợi ý về nghệ thuật diễn xƣớng truyền thuyết, mối
quan hệ của truyền thuyết với tín ngƣỡng, lễ hội. Đứng về phía lí luận thì có thể học
sinh chƣa hiểu biết, tiếp nhận đƣợc nhƣng thực tế của đời sống sinh hoạt văn hoá dân
gian diễn ra xung quanh các em khiến cho ngƣời học không thể không có những liên
tƣởng và thắc mắc: chẳng hạn học sinh ở vùng Phù Đổng, Sóc Sơn vốn sống trong vùng
lễ hội và các hình thức thờ cúng về Gióng; vùng đền Hùng với hệ thống truyền thuyết
thời Hùng Vƣơng…
Mỗi tác phẩm VHDG đều hàm chứa trong đó những tri thức khoa học, những tƣ
liệu về đời sống, những hình thức sinh hoạt, tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân, đặc biệt
ở những thể loại tự sự ra đời sớm nhƣ thần thoại, sử thi, truyện cổ tích… Sử thi “Đẻ đất
đẻ nƣớc” của ngƣời Mƣờng có nguồn gốc từ những nghi lễ cổ xƣa, đƣợc diễn xƣớng
trong các nghi lễ tang ma. Những bài mo đƣợc dùng trong tang lễ của ngƣời Mƣờng
đƣợc thày mo hát từng đoạn trong sử thi gắn với những bƣớc tiến hành của nghi lễ tang
ma, trong đó chứa đựng tri thức của tộc ngƣời Mƣờng về thế giới quan, nhân sinh quan.
Ở ven vùng sông Đà tồn tại nhiều bản kể liên quan đến nhân vật Sơn Tinh: Sơn
Tinh đƣa Mỵ Nƣơng về núi bị lạc nhau, đi qua sông gặp nhiều trắc trở... Trong truyện
thì đó là cách diễn tả hình tƣợng hóa những khó khăn, trở ngại mà thực tế con ngƣời
phải đối diện. Ẩn chứa dƣới những hình tƣợng nghệ thuật đó, chúng ta thấy đƣợc vốn
văn hóa, tri thức khoa học của ngƣời xƣa về tập tục đi săn (Sơn Tinh – Mỵ Nƣơng bị lạc
89
- nhau phải nhờ tiếng hú mới tìm đƣợc, gắn với phong tục rƣớc tiếng hú của cƣ dân săn
bắn), về kinh nghiệm vƣợt sông Đà của dân quanh vùng mùa nƣớc trong và nƣớc đục.
Đó là kinh nghiệm có đƣợc do sự quan sát và thực tế sống và chiến đấu với con sông và
nó đi vào tác phẩm một cách tự nhiên. Truyện cổ tích cũng phản ánh những yếu tố của
đời sống hiện thực. Chính vì vậy, nhiều nhà khoa học đã đi tìm căn rễ, nguồn gốc của
truyện cổ tích trong những tƣ liệu lịch sử, văn hoá nhƣ Mê-lê-tin-xki, Prốp… và thực sự
đã có lí khi giải thích đƣợc rất nhiều các mô-típ, chức năng trong truyện cổ tích bắt
nguồn từ những yếu tố hiện thực. Chẳng hạn, truyện “Trầu cau” phản ánh tình trạng xã
hội chuyển từ chế độ quần hôn sang hôn nhân gia đình, cho nên xuất hiện rất nhiều mâu
thuẫn và sự bỡ ngỡ. Hay truyện “Sự tích cây nêu ngày tết”, lớp lịch sử gần là phản ánh
phong tục dựng cây nêu để xua đuổi tà ma, cầu mong yên ấm; nhƣng lớp sớm hơn phản
ánh nghi lễ cầu mùa, lễ mừng cơm mới của cƣ dân nông nghiệp: Ngƣời ta thƣờng vẩy
máu động vật (thƣờng là máu chó, gà..) ra bốn xung quanh để tiến hành các nghi lễ ma
thuật gắn với lễ cầu mùa màng đƣợc tƣơi tốt. Trong truyện cổ là các cô gái thƣờng cắt
lấy mẩu khố của chàng trai đã cứu mình để sau này nhận ra nhau. Mô-típ đó có thể giải
thích đƣợc bằng các phong tục dân gian, đặc biệt là trò Trám. Trong rừng trám khi các
đôi trai gái tiến hành lễ thức “tình phọc”, có đôi khi không biết nhau, nữ phải giữ một
vật của nam là kỉ niệm nhƣ khăn đội đầu hoặc tà áo… Hay mô-típ “ngƣời câm” phản
ánh những nghi lễ có tính chất ma thuật. Đó có thể là sự cấm kị không nói trong nghi lễ
phồn thực, cấm nói khi tiến hành hầu bóng (đi vào thế giới của ngƣời chết nên không
đƣợc nói), cũng có thể đó là cấm kị đối với cô dâu khi mới về nhà chồng không đƣợc
nói trong một không gian hay thời gian nào đó.
Ở chƣơng trình THCS, thể loại truyện cổ tích giới thiệu năm tác phẩm cổ tích
của Việt Nam và thế giới Cây bút thần (Trung Quốc), Ông lão đánh cá và con cá vàng
(Nga) liền sau truyện Sọ Dừa, Thạch Sanh, Em bé thông minh. Trong trƣờng THPT, có
hai truyện là Chử Đồng Tử và Tấm Cám, hai truyện đƣợc xem là cổ tích thần kì. Về cơ
bản trong nhà trƣờng vẫn áp dụng khuynh hƣớng tiếp cận ngữ văn đối với các tác phẩm
và thể loại VHDG. Việc xem VHDG nhƣ một loại văn học và với truyện cổ tích chủ yếu
phân tích dƣới góc độ tác phẩm văn học: khai thác nhân vật, nội dung chủ đề. Chúng ta
cần phải xem truyện cổ tích nhƣ một thể loại truyện kể dân gian có đặc trƣng riêng biệt,
trong đó mỗi câu chuyện đều đƣợc hình thành và phát triển trong mối quan hệ với các
dạng cấu trúc văn hoá, phong tục, thần thoại của cộng đồng.
Về các văn bản truyện cổ tích trong nhà trƣờng, vấn đề tạo nên sự tranh luận chủ
yếu ở ba truyện Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Ông lão đánh cá và con cá vàng.
Truyện Chử Đồng Tử thuộc thể loại nào? Cổ tích hay truyền thuyết? Tại sao
Chử Đồng Tử lại đƣợc thờ ở nhiều đình, đền khác nhau ở vùng Hải Dƣơng, Hƣng Yên,
Thái Bình. Đền Dạ Trạch Hoá Từ (Khoái Châu – Hƣng Yên), di tích lớn nhất thờ Chử
Đồng Tử cùng với hai ngƣời vợ vậy thì nội dung ca ngợi mối tình trong sáng, thanh cao
90
- nhƣ hƣớng dẫn của SGK có còn đứng vững đƣợc hay không? Nếu khai thác theo hƣớng
là truyện cổ tích thì nội dung và chủ đề nhƣ thế nào? Nếu chỉ khai thác tác phẩm ở chủ
đề ca ngợi ngƣời con chí hiếu, mối tình trong sáng, thanh cao… thì có làm nghèo chủ đề
tác phẩm và hình tƣợng nhân vật hay không? Cách đánh giá nhân vật Chử Đồng Tử nhƣ
vậy có phù hợp với tâm thức dân gian về nhân vật này hay không? Quan hệ giữa tác
phẩm này với tín ngƣỡng, lễ hội nhƣ thế nào? Đó là vấn đề phức tạp cần quan tâm, giải
quyết. Bởi vì, bản thân tác phẩm là một hiện tƣợng phức tạp, truyền thuyết Chử Đồng
Tử đã bị cổ tích hoá, khiến cho nội dung và chủ đề xã hội đƣợc đan xen, kết nạp vào tƣ
tƣởng của truyền thuyết ban đầu.
Cuối năm 2011, trên các diễn đàn báo mạng và báo viết, có diễn ra cuộc tranh
luận về truyện Tấm Cám chủ yếu chung quanh kết thúc truyện trong văn bản SGK Ngữ
văn 10. Thực ra, đây không phải là vấn đề mới bùng nổ mà nó đã đƣợc đặt ra từ nhiều
năm trƣớc: từ những công trình đầu tiên của tác giả Đinh Gia Khánh (Sơ bộ tìm hiểu
những vấn đề truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám, năm 1968) đến cuộc tranh luận trên
báo chí những năm 90 của thế kỉ XX. Không giống nhƣ trƣớc, lần này, các nhà nghiên
cứu văn học dân gian không lên tiếng đơn giản vì trong giới folklore vấn đề này đã
đƣợc giải quyết từ nhiều năm trƣớc.
Có hai luồng ý kiến trái chiều nhau: một bên phê phán kết thúc truyện với hành
động trả thù dã man của cô Tấm (sớm nhất là Lơ-cléc, sau đó có Phan Hải Triều,
Nguyễn Đổng Chi, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Xuân Lạc..); một bên bảo vệ và khẳng
định truyện Tấm Cám và hành động trừng phạt của Tấm với Cám (Đinh Gia Khánh,
Nguyễn Xuân Kính, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Văn Tiếng...).
Trong đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến ý kiến của nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên khi xem xét cái kết của truyện Tấm Cám. Ông xem đó là hành động mang tính
biểu trƣng, ý nghĩa cảnh tỉnh cái ác, và do đó không nên lảng tránh kết thúc đó. Điều
quan trọng là thầy cô giáo phải giúp các em hiểu rõ tinh thần sự trả thù của Tấm. Tác
giả Bùi Văn Tiếng thì cho rằng kết thúc nhƣ vậy là thành công của truyện là cách ứng
xử mang tính nghệ thuật mà tác giả dân gian gửi đến độc giả mai sau về sự hoàn thiện
nhân cách của con ngƣời, con ngƣời có thể trở nên độc ác do hoàn cảnh khách quan.
Ở Việt Nam, tác giả Chu Xuân Diên đã vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu đặc
thù của văn học dân gian (sử dụng khái niệm mô-típ) đƣợc đề xuất bởi A.N Vê-xê-lôp-
xki, để phân tích kiểu truyện Tấm Cám), tránh xu hƣớng quan tâm chủ yếu đến các yếu
tố tâm lí – đạo đức trong hành động của Tấm [1/312], xu hƣớng gắn với mục đích đánh
giá nhân vật, thƣờng dựa trên những tiêu chuẩn tâm lí và đạo đức của con ngƣời hiện
đại. Từ đó tác giả triển khai và giải quyết các vấn đề:
Thứ nhất, hành động của Tấm là sự trừng phạt, chứ không phải là trả thù. Qua
việc so sánh các dị bản của truyện Tấm Cám trong nƣớc, với kiểu truyện mang tính
91
- quốc tế, đối sánh với hệ thống tên gọi mô-típ của Stith Thompson, tác giả đi đến kết
luận: về phƣơng diện cấu trúc và chức năng mô-tip cơ bản và nòng cốt của cho đoạn kết
của truyện Tấm Cám là mô-típ“trừng phạt”, cái ác phải bị đền tội. [1/318].
Tôi cho rằng, việc nhân vật ác bị trừng phạt đƣợc xem nhƣ một chân lí về sự
công bằng xã hội, cái ác phải bị tiêu diệt. Điểm này có sự phù hợp với thực tế tiếp nhận
truyện cổ tích nói chung và truyện Tấm Cám nói riêng. Tuổi thơ của mỗi chúng ta, đƣợc
nghe ông bà cha mẹ kể chuyện cổ tích thì trong thâm tâm đều mong muốn, ƣớc mơ về
sự chiến thắng của cái thiện với cái ác và vì thế chi tiết Tấm giết Cám không hề tạo nên
cảm giác ghê sợ hay không đồng tình với cô Tấm. Ngƣợc lại, khi cái ác bị đền tội, đứa
trẻ nào cũng thấy hả hê và tin tƣởng vào sự công bằng mà thế giới “ngày xửa, ngày xƣa”
mở ra trƣớc mắt chúng.
Xét về phƣơng diện lí luận và thi pháp thể loại, cốt truyện cổ tích là yếu tố bất
biến, là mô hình đã đƣợc xác lập ổn định và đã đƣợc hoàn thành, trong đó chỉ có lời kể
thay đổi do quy luật của sự sáng tạo truyền miệng cũng nhƣ sự vận động của cốt truyện
trong bối cảnh không – thời gian. Vì thế, việc cô Cám bị trừng phạt bởi Tấm, nhà vua,
Thiên Lôi, hay bất kì một thế lực nào khác thì bản chất của sự kiện, hành động vẫn
không đổi: cái ác phải bị tiêu diệt, công lí phải đƣợc thực thi, còn ai là ngƣời thực hiện
điều đó và thực hiện nhƣ thế nào không quan trọng. Mỗi cộng đồng, thời đại có cách lựa
chọn của riêng mình cho cách kể nhƣng phải tuân thủ một quy luật: không thể để yếu tố
thời đại, thực tại xâm nhập vào cốt truyện dân gian. Vì thế mỗi chi tiết “giết bằng gƣơm,
giết bằng giội nƣớc sôi, bằng đốt lửa” có ý nghĩa lịch sử, thời đại của chúng mà chúng
ta không thể thay thế bằng việc “giết nhân vật bằng súng”...
Thứ hai, vấn đề ai thực hiện việc trừng phạt và trừng phạt nhƣ thế nào đƣợc tác
giả lí giải ở các phần tiếp theo. Các mô-típ “sự bắt chƣớc không thành công”, “giội
nƣớc sôi trở nên xinh đẹp hơn”, “mẹ ăn thịt con”... đƣợc tác giả phân tích dƣới góc nhìn
cấu trúc cốt truyện và phƣơng pháp so sánh lịch sử. Tác giả đi tìm những tƣ liệu dân tộc
học, phong tục học, để đi đến nhận định đã từng tồn tại quan niệm về việc “Chết do việc
dội nƣớc sôi để trở nên trắng và đẹp hơn” [Chu Xuân Diên, 1/324], đồng thời trong nghi
lễ trƣởng thành của hầu hết các tộc ngƣời cũng tồn tại quan niệm và thực hành nghi lễ:
con ngƣời trải qua sự hành xác thì trở nên đẹp đẽ, hoàn thiện hơn. Mô-típ truyện dân
gian là những tia hồi quang của các phong tục và nghi lễ dân gian mà đến thời đại chúng
ta, do khoảng cách lịch sử mối dây liên hệ đó không liên tục khiến chúng ta xa lạ và khó
chấp nhận.
Truyện cổ tích, ngoài chức năng phản ánh, lí giải các hiện tƣợng tâm lí, xã hội
còn hƣớng tới chủ đề phong tục.Về mặt cốt truyện, sự kiện nhân vật chết (cái ác, cái
xấu) có thể kết thúc câu chuyện. Nhƣng truyện cổ tích vẫn luôn thêm vào sự hoá thân
của nhân vật để gửi gắm quan niệm của dân gian, lồng ghép các chủ đề khác (giải thích
92
- phong tục, tên gọi sự vật, tên địa danh…): trầu cau, ba ông đầu rau, đá vọng phu... Cho
nên, truyện Tấm Cám của ngƣời Việt không dừng lại ở cái kết cô Tấm trở thành hoàng
hậu mà kéo dài đoạn trừng phạt cũng là thực hiện chức năng đó. Do đó, truyện cổ tích
không chỉ đƣợc tiếp nhận dƣới góc nhìn văn học mà cần đặt nó trên bình diện văn hoá
rộng lớn, với sự bổ trợ của các kiến thức dân tộc học, phong tục học, nghi lễ và tín
ngƣỡng dân gian...
Thêm nữa, chúng ta quen xét đoán nhân vật cổ tích dƣới góc nhìn tâm lí – đạo
đức của thời đại (cái nhìn lịch đại) mà không đặt nhân vật dƣới góc nhìn đồng đại: so
sánh kiểu hành động trừng phạt của cô Tấm với các nhân vật khác. Chẳng hạn, hành
động trừng phạt của Đức Phật trong các truyện cổ có tính chất Phật thoại: Sự tích cái
chổi, Sự tích lá phƣớn nhà chùa, Sự tích ông bình vôi... Phật trừng phạt những lỗi lầm,
sơ suất rất thƣờng tình của con ngƣời bằng những cái chết cho nhân vật. Ở đây, chúng ta
cũng không thể đánh giá Đức Phật dƣới góc độ con ngƣời – đạo đức vì Đức Phật thực
hiện chức năng mà truyện cổ tích quy định: răn dạy con ngƣời tuân thủ nghiêm ngặt
giáo lí của nhà Phật, ai đi ngƣợc lại điều đó thì bị trừng phạt. Tƣ tƣởng đó tạo ra sự tôn
nghiêm, thiêng liêng của tôn giáo trong lòng nhân dân.Tƣơng tự nhƣ vậy, tƣ tƣởng về
sự trừng phạt cái Ác trong Tấm Cám cũng để tạo nên sự tin tƣởng của nhân dân về lẽ
công bằng, về quy luật “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”.
Vì thế, hành động của Tấm phù hợp với quy luật chung của thể loại truyện cổ
tích và với tƣ tƣởng nhân dân ở thời đại mà truyện cổ tích ra đời. Cũng vì lẽ đó, câu cửa
miệng của nhân dân “hiền nhƣ cô Tấm” vẫn tồn tại nhƣ một sự khẳng định phẩm chất,
con ngƣời cô sau tất cả các hành động của nhân vật cũng nhƣ sự lƣu truyền qua thời
gian của câu chuyện.
Tác giả Chu Xuân Diên kết thúc cho chuyên luận của mình bằng đề mục “ngày
xửa ngày xƣa”... để khẳng định bản chất của truyện cổ tích là câu chuyện tƣởng tƣợng,
kì ảo, đem đến cho ngƣời đọc thế giới của tất cả những điều vô lí. Vì thế “không nên
bằng cách bình luận văn học và thậm chí cả bằng cách “sửa chữa” truyện cổ tích theo
hƣớng hợp lí hoá cho phù hợp với tƣ duy lô-gic của con ngƣời hiện nay mà làm mất đi
cái vô lí ấy của truyện cổ tích. Vấn đề là giải thích đƣợc cái vô lí ấy, phát hiện ra cái
hợp lí của bản thân truyện cổ tích” [1/344].
Chúng tôi bổ sung thêm ý kiến của M.Goóc-ki để thấy đƣợc tâm lí đón nhận của
ngƣời đọc/nghe truyện cổ tích: “Tôi càng lớn càng thấy truyện cổ tích khác xa so với
cuộc đời thực. Truyện cổ tích mở ra trƣớc mắt tôi một cánh cửa để trông vào thế giới
khác...”. Thế giới đó là thế giới mà tất cả các nghệ nhân dân gian, ngƣời kể chuyện cổ
tích Nga đã thẳng thắn thừa nhận: “Câu chuyện tôi kể đến đây là hết rồi, không thể bịa
đặt thêm đƣợc nữa. Nhƣng trong đám cƣới của Ivan và công chúa, tôi là ngƣời dự tiệc,
93
- tôi đã uống rất nhiều rƣợu pha mật ong. Đến bây giờ, những giọt mật ong vẫn còn đọng
long lanh trên râu tôi”...
Trong cuộc tranh luận gần đây về truyện Tấm Cám, vấn đề tranh luận đã đƣợc
giới folklore trong nƣớc và quốc tế giải quyết từ nhiều năm trƣớc cho nên trong và
ngoài ngành folklore, đặc biệt giới học giả trong nhà trƣờng cần thiết cập nhật những
thành tựu nghiên cứu khoa học để giáo dục trong nhà trƣờng đƣợc tiếp cận với các kết
quả đó.
Chính vì thế, giới nghiên cứu VHDG, cũng nhƣ những ngƣời biên soạn SGK
không có quyền sửa chữa văn bản của tác phẩm VHDG để chạy theo tinh thần thời đại,
bởi lẽ đặc trƣng cơ bản của truyện cổ tích là câu chuyện đã hoàn tất ở quá khứ và tinh
thần thời đại không thể xâm nhập vào cấu trúc truyện kể. Đồng thời nhà nghiên cứu
phải luôn bám sát đặc trƣng của văn học dân gian cũng nhƣ sử dụng những phƣơng
pháp nghiên cứu chuyên ngành phù hợp với đối tƣợng. Cũng đã từng tồn tại những kiến
giải về truyện Tấm Cám dƣới góc nhìn tâm lí, đạo đức nhƣ trƣờng hợp nhà nghiên cứu
Hoàng Ngọc Hiến: từ những năm 1980 ông phê phán kết thúc dã man của truyện Tấm
Cám nhƣng sau đó tác giả đƣa ra quan điểm: việc chúng ta sửa một văn bản nhằm mục
đích giáo dục đạo đức có thể phản tác dụng khi học sinh lớn lên, tiếp xúc với các dị bản
khác và nhận ra mình đã bị lừa khi không đƣợc tiếp nhận một văn bản nguyên vẹn của
nó. Vậy thì ý định của chúng ta muốn xây dựng hình ảnh đẹp đẽ toàn vẹn của Tấm có
thực hiện đƣợc không? [Xem TL3]
Ngoài ra những vấn đề cụ thể của tác phẩm, thể loại VHDG cũng chính là những
lĩnh vực cụ thể mà ngành folklore học cần giải quyết: chủ đề của sử thi Đam San, nhân
vật Đam San chống chuê nuê hay khuất phục chuê nuê, ý nghĩa của hình tƣợng Đam
San cũng nhƣ nguyên nhân thất bại của ngƣời anh hùng. Đây là vấn đề khá phức tạp và
hiện nay giới nghiên cứu vẫn chƣa thống nhất. GV và HS phổ thông càng gặp khó khăn
hơn vì họ không đƣợc trang bị những kiến thức lịch sử – văn hoá để giúp cho việc hiểu
tác phẩm. Việc tìm hiểu thể loại ca dao cũng không thể tách rời những hình thức sinh
hoạt văn hóa, ca hát của cộng đồng. Chính tâm lí chung của cộng đồng, những lề lối
sinh hoạt giao duyên là nguồn cảm hứng nảy nở những bài ca trữ tình dân gian, đồng
thời cũng là những gợi mở hƣớng tiếp cận cho ngƣời đọc hiểu cái tình ý của nhân vật
trữ tình trong mỗi lời ca đó.
3. Kết luận
Nhƣ vậy, từ đặc trƣng đối tƣợng VHDG là nghệ thuật ngôn từ trong một tổng thể
văn hóa dân gian, mang tính nguyên hợp, thì ngƣời giáo viên cần thiết phải trang bị cho
mình tri thức về văn hóa truyền thống, nắm vững đặc trƣng thể loại và phƣơng pháp tiếp
cận để đem đến cho ngƣời học không chỉ vẻ đẹp của hình tƣợng, đặc sắc của nghệ thuật
mà còn cho thấy chiều sâu văn hóa, cội nguồn lịch sử, tƣ tƣởng qua mỗi tác phẩm và thể
94
- loại VHDG. Những dấu hiệu hình thức nghệ thuật, lời kể, diễn xƣớng… của VHDG có
thể biến đổi nhƣng những giá trị cốt lõi về văn hóa ứng xử, về tƣ tƣởng dân tộc, về niềm
tin, giá trị nhân văn của con ngƣời thì vẫn đƣợc duy trì. Vì thế việc dạy và học VHDG
cần phải đáp ứng đƣợc yêu cầu nâng cao tri thức về văn hóa cho ngƣời học, và chỉ có
thể duy trì nền nếp, phong tục, ứng xử đẹp đẽ của dân tộc thông qua nhận thức và hành
vi, thái độ của thế hệ trẻ, đặc biệt trong xu thế biến đổi của văn hóa, đời sống hiện nay.
Sự tăng cƣờng lƣợng thông tin, tri thức về truyền thống văn hóa cộng đồng chắc chắn
không đem lại cảm giác nặng nề mà thực sự ngƣời học sẽ đƣợc giải thoát khỏi những
phƣơng thức giáo huấn theo lối mòn, vì chính điều đó đánh thức nhân cách văn hóa
cộng đồng trong mỗi cá nhân ngƣời học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Xuân Diên (2001): Văn hóa dân gian, mấy vấn đề phƣơng pháp luận và nghiên
cứu thể loại. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. V.E.Gusev (1999): Mĩ học Folklor, Nxb Đà Nẵng,
3. Hoàng Ngọc Hiến (1994): “Giảng truyện Tấm Cám ở trƣờng phổ thông”, Giáo dục
và Thời đại, số 29, ra ngày 18/7.
4. Đinh Gia Khánh (1989): Trên đƣờng tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà
Nội.
5. Propp (2004): Tuyển tập V.Ia.Propp, tập 2. Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, Hà Nội.
6. Nhiều tác giả (2002), Ngữ văn 6 tập 1 – Sách giáo viên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, trang
4
7. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện văn hóa dân gian (1999): Văn hóa dân gian
– những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb KHXH, Hà Nội.
95
nguon tai.lieu . vn