Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ DẤU ẤN CỦA NGƯỜI HOA TẠI VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN TRONG CÁC THẾ KỶ XVII – XIX The historical traces of the Hoa people in Hà Tiên region during the 17th – 19th centuries TS. Đào Vĩnh Hợp Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Người Hoa có mặt ở vùng đất Hà Tiên(1) vào nửa cuối thế kỷ XVII, xuất phát từ làn sóng di cư của những người Hoa tị nạn sau khi nhà Minh sụp đổ. Đến đầu thế kỷ XVIII, vùng đất này đón nhận những di dân mới thuộc nhiều tầng lớp thương nhân và cư dân lao động, từ đó, lịch sử Hà Tiên chứng kiến sự lớn mạnh của khối cộng đồng Hoa với vai trò lãnh đạo của dòng họ Mạc. Người Hoa đã có những đóng góp và có vai trò đặc biệt trong việc thiết lập và bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng đất Hà Tiên, tạo điều kiện để Đàng Trong hoàn thành công cuộc khai khẩn, xác lập chủ quyền trên toàn vùng đất Tây Nam Bộ. Sang thế kỷ XIX, người Hoa vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là kinh tế thương nghiệp và sản xuất nông sản. Những dấu ấn về cộng đồng người Hoa ở Hà Tiên trong gần 2 thế kỷ dưới thời phong kiến được tìm hiểu qua nghiên cứu những ghi chép của tác giả đương thời và những dấu tích văn hóa còn đến ngày nay. Từ khóa: dấu ấn, Hà Tiên, người Hoa, thế kỷ XVII – XIX ABSTRACT The Hoa people (the Chinese people) set foot on Ha Tien(1) region in the second half of the 17th century with their migration phenomenon after the Ming dynasty’s collapse. In the early 18th century, this region received new Chinese immigrants of different classes of traders and laborers, since then it witnessed the Hoa community’s prosperity thanks to the leadership of the Mok family. The community made great contributions and took important roles in establishing and firmly defending this land to facilitate Dang Trong in fulfilling its reclaiming cause and sovereignty establishment in the Southwest. Up to the 19th century, the Hoa continued to take significant roles in economic improvement, especially in trading field and the production of agricultural commodities. The historical traces of the Hoa community in Ha Tien for nearly 2 centuries under feudalism could be brought to light through studying historical archives and the cultural heritages bequeathed today. Keywords: historical traces, Hà Tiên, the Hoa people, 17th – 19th centuries 1. Đặt vấn đề vùng đất này chính thức trở thành đơn vị Hà Tiên vốn là vùng đất của vương hành chính (trấn Hà Tiên) của Đàng Trong quốc cổ Phù Nam. Năm 1708(2), sau nhiều nước Đại Việt. Trải qua các thế kỷ XVIII – thế kỷ nằm dưới sự cai quản của Chân Lạp, XIX với nhiều biến động thăng trầm, Hà Email: daovinhhop@gmail.com 64
  2. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Tiên ngày càng khẳng định vai trò là vùng của Lê Quý Đôn (1776), mục chép về biên viễn trọng yếu, tấm phên dậu bảo đảm “Nhân tài và thi văn” xứ Hà Tiên đã nhắc an ninh đất nước, đồng thời góp phần vào nhiều đến công trạng của dòng họ Mạc, đặc sự phát triển kinh tế của đất nước. Quá biệt là công cuộc mở mang kinh tế – xã hội trình xác lập chủ quyền, khai khẩn vùng trấn Hà Tiên dưới thời Mạc Thiên Tứ đất này đã ghi dấu vai trò của các khối cư (1735 – 1771) (Lê Quý Đôn, 1959, tr.109). dân Việt, Khmer vốn đã đến đây từ trước… Từ thế kỷ XIX, vùng đất này cũng xuất Bên cạnh đó, để làm nên một Hà Tiên phồn hiện trong biên chép của các sử gia đương thịnh, còn có vai trò của người Hoa. Bài thời như Vũ Thế Dinh với Mạc Thị Gia viết góp phần làm rõ những đóng góp của phả (1818), Trịnh Hoài Đức với Gia Định người Hoa đối với vùng đất Hà Tiên qua thành thông chí (1820 – 1822), Quốc sử hai giai đoạn: trước và trong thế kỷ XIX. quán triều Nguyễn với Đại Nam thực lục, 2. Khái lược về tiến trình di cư của phần chính biên, kỷ thứ nhất – đời Gia người Hoa đến Nam Bộ và vùng đất Long (1821 – 1847), Đại Nam nhất thống Hà Tiên chí (1864 – 1875). Các ghi chép về lịch sử vùng đất Hà Tại vùng đất Nam Bộ Việt Nam, người Tiên vào các thế kỷ XVII – XIX đã có từ Hoa có mặt sớm và gồm có 2 bộ phận: Bộ rất sớm, tiêu biểu như những ghi chép ở phận thứ nhất là những người Hoa “tị đầu thế kỷ XVIII (năm 1718) của thuyền nạn”, nhóm di dân này đến Nam Bộ từ cuối trưởng người Scotland là Alexander thế kỷ XVII. Thành phần quan trọng nhất Hamilton (Alexander Hamilton, 1927, là các binh lính, quan lại không chịu thần tr.196 – 204) hay ghi chép của thương phục nhà Thanh và chờ cơ hội “phản nhân Pháp Pierre Poirve vào những năm Thanh phục Minh”. Những người Hoa đầu 1764 – 1768 (Poivre Pierre, 2019, tr. 30 – tiên này có mặt tại Cù Lao Phố trên sông 31) khi hai ông có mặt tại những nơi này. Đồng Nai, Gia Định, Sài Gòn. Năm 1679, Những mô tả này có đề cấp đến vùng đất nhóm các tướng Trung Hoa là Trần có tên gọi Ponthiamas và Banteay Meas, Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch cập đó chính là những vùng đất thịnh vượng biển Đà Nẵng, chúa Nguyễn cho họ vào nằm trong địa phận Trấn Hà Tiên lúc bấy vùng đất phương Nam khai khẩn. Trần giờ, vốn được tạo ra bởi một cộng đồng cư Thượng Xuyên định cư ở Biên Hoà – Cù dân đa sắc tộc trong đó có vai trò của các Lao Phố (tỉnh Đồng Nai), Dương Ngạn thương nhân người Hoa. Lịch sử vùng đất Địch định cư ở Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang). này cũng đã ít nhiều được nhắc đến trong Cũng trong khoảng thời gian đó, cuộc di sử liệu của Trung Quốc, như trong cuốn dân của Mạc Cửu và gia đình đến vùng đất Hoàng Thanh Văn Hiến Thông khảo với Mang Khảm (nay là Hà Tiên, tỉnh Kiên mục ghi chép về “Cảng Khẩu Quốc” (tức Giang). Bộ phận thứ hai là những thường Hà Tiên) vào thời điểm trước năm 1747 dân (thương nhân, tiểu chủ, lao động bình (Trần Kinh Hòa, 1858, tr, 36). dân) đi tìm đất làm ăn và di cư đến Đồng Ghi chép của học giả trong nước tuy bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) theo nhiều muộn hơn so với phương Tây nhưng có đợt trong thế kỷ XVIII. Tiêu biểu trong số phần khá chi tiết, nhất là về các khía cạnh đó là cuộc di cư của người Tiều (phủ Triều lịch sử chính trị – xã hội. Phủ Biên tạp lục Châu của Quảng Đông giáp Phúc Kiến) 65
  3. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) sang Hà Tiên vào 1715 (Mạc Đường, 1991, nho sĩ cùng chí hướng giong buồm đi về tr. 223). Những di dân này đa số có nguồn phương Nam đến vùng đất Mang Khảm gốc từ các tỉnh duyên hải phía Nam Trung (nay là Hà Tiên, Kiên Giang) khai mở nơi Hoa, như Quảng Châu, Triều Châu, Phúc buôn bán: “...Cửu người Lôi Châu, Quảng Kiến.v.v. Đến Nam Bộ, họ được tổ chức Đông. Nhà Minh mất, để tóc chạy sang theo đơn vị “phủ” rồi “bang” như các phủ: phương Nam, đến nước Chân Lạp làm Phước Châu, Chương Châu, Triều Châu, chức Ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy Ninh Ba rồi các bang: Phúc Kiến, Triều có nhiều người buôn các nước tụ họp, bèn Châu, Hải Nam. Dấu ấn định cư của người mở sòng gá bạc để thu thuế gọi là hoa chi, Hoa tại Nam Bộ và khu vực Hà Tiên gắn lại được hố bạc chôn nên thành giàu. Nhân liền với hai giai đoạn lịch sử khác nhau: Từ chiêu tập dân xiêu dạt đến các nơi Phú thế kỷ XVII – XVIII: nổi lên vai trò của Quốc, Cần Bột, Gia Khê, Luống Cày, các thế hệ người Minh Hương, đặc biệt là Hương Úc, Cà Mau (thuộc tỉnh Hà Tiên) dòng họ Mạc. Còn trong thế kỷ XIX, vai lập thành 7 xã thôn...” (Quốc sử quán triều trò của các tầng lớp thương nhân người Nguyễn, 2002, tr.122). Trong thời kỳ lập Hoa sinh hoạt trong đơn vị phủ, bang (ngũ phủ Gia Định – năm 1698, khối người bang)… trở nên nổi trội hơn cả(3). Minh Hương (con cháu nhà Minh) phần 3. Người Hoa ở vùng đất Hà Tiên từ lớn được tổ chức thành đơn vị xã, như: cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII Thanh Hà xã (Trấn Biên), Minh Hương xã Từ cuối thế kỷ XVII, khi nhóm cận (Gia Định, Hà Tiên).v.v. Trong số đó, thần nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Minh Hương xã là cơ cấu quản lý mang Trần Thắng Tài được chúa Nguyễn phong tính tự trị cao và được chính thức thành lập chức tước và cho vào định cư, khai khẩn bởi chính quyền chúa Nguyễn. Dù có điểm vùng Mỹ Tho, Biên Hòa thì ở khu vực Hà giống với xã, thôn người Việt (như cơ cấu Tiên, Mạc Cửu cũng được cử làm Tổng tổ chức với các chức Lý trưởng, Hương binh trấn Hà Tiên. Dấu ấn của những người chủ...) nhưng Minh Hương xã này cũng có Hoa trong gần 1 thế kỷ sau đó được thể nhiều điểm khác (địa bàn phân bố cư dân hiện trên các lĩnh vực: rộng lớn - trải rộng khắp dinh, trấn, tỉnh; có Đối với quá trình thiết lập hành thêm chức năng là đơn vị lãnh sự trực chính vùng đất và bảo vệ vùng biên viễn thuộc cấp trấn, tỉnh,...). Qua các ghi chép trong Mạc Thị Gia Trước tình hình phát triển nhanh phả (Vũ Thế Dinh, 2006, tr.15), Gia Định chóng của khu vực Gia Định dưới quyền thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và thư quản lý của chính quyền chúa Nguyễn tịch của Triều Nguyễn, vùng đất Hà Tiên cộng với sự cướp phá từ quân Xiêm (Thái được Mạc Cửu tập trung khai thác vào Lan), quân Chân Lạp, Mạc Cửu dần nhận khoảng cuối thế kỷ XVII (Trịnh Hoài Đức, thấy cần có một thế lực đủ mạnh để bảo vệ 2005, tr.159). Mạc Cửu người tỉnh Quảng vùng đất mà ông đã dày công khai phá và Đông (Trung Quốc), vốn là một thương không thể không dựa vào chính quyền chúa buôn năng động, từng buôn bán ở các cảng Nguyễn nếu muốn tiếp tục củng cố và mở thị của Philippines và Batavia. Do kiên rộng thế lực trên vùng đất này. Do đó, năm quyết không chịu cộng tác với nhà Thanh, 1708, Mạc Cửu đem phần đất đã khai phá ông đã đưa binh sĩ, gia quyến và một số được dâng cho chúa Nguyễn và xin thần 66
  4. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN phục. Chúa Nguyễn Phúc Chu ưng thuận bằng Sông Cửu Long, điển hình như việc và đặt tên cho toàn bộ thôn xóm vùng này họ Mạc đã lãnh đạo bảo vệ thành công là trấn Hà Tiên, Mạc Cửu được chúa vùng đất Hà Tiên trước sự xâm phạm của Nguyễn phong làm Tổng binh trấn Hà các thế lực ly khai của Chân Lạp với sự hỗ Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Đến tháng 4 trợ đắc lực của quân Xiêm La trong các năm 1708, Hà Tiên phụ thuộc vào Đàng năm Ất Mùi (1715), Kỷ Mùi (1739) và Trong của chúa Nguyễn và được biệt chuẩn Mậu Thìn (1748) (Trần Đức Cường, 2016, để lập thành một trấn, do chức tổng binh tr.139 – 140). Những sự kiện này chứng tỏ đứng đầu cai quản (Quốc sử quán Triều vai trò của người Hoa (đứng đầu là dòng Nguyễn, 2002, tr.164). Việc vùng đất Hà họ Mạc) có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng vùng đất Hà Tiên nói riêng và giữ vững an Trong là sự kiện đánh dấu bước phát triển ninh vùng đất biên viễn nói chung. Nếu Hà quan trọng trong quá trình mở rộng chủ Tiên không được bảo vệ vững chắc thì quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất Nam công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ sẽ bị Bộ. Đến đầu thế kỷ XVIII, chủ quyền Việt ảnh hưởng rất lớn, khối cư dân Việt, Hoa, Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên và mũi Khơ-me sẽ không có điều kiện để khai thác Cà Mau, bao gồm cả các hải đảo ngoài đất đai, lập làng mở phố, mang mang cơ Biển Đông và vịnh Thái Lan (Nguyễn Văn nghiệp, lập nên một vùng đất đai rộng lớn Kim, 2006, 137). Năm 1757, địa giới Hà ở vùng đất Tây Nam Bộ như đã thấy. Tiên được mở rộng hơn, thành lập 2 đạo Đối với hoạt động kinh tế, văn hóa, Kiên Giang và Long Xuyên: “Bấy giờ Nặc xã hội Tôn lại cắt năm phủ Hương úc, Cần Vọt, Đến cuối thế kỷ XVII, Hà Tiên có Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn cảng thương mại biển quan trọng – một hải Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều cảng có tính chất quốc tế, là điểm trung đình. Chúa cho lệ năm phủ ấy vào quản hạt chuyển hàng hóa trên con đường thương Hà Tiên, Thiên Tứ lại xin đặt Giá Khê làm mại Đông – Tây vô cùng sôi động. Đây là đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long nơi tập kết hàng hóa của 3 vùng đồng bằng Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu dân cư, lập quan trọng: đồng bằng sông Mênam của thôn ấp, làm cho địa giới Hà Tiên ngày Xiêm La, đồng bằng Đông Nam của Chân càng thêm rộng” (Quốc sử quán Triều Lạp và đồng bằng Nam Bộ của Đàng Nguyễn, 2002, tr.178). Trong nước Đại Việt. Hoạt động thương Vùng đất Hà Tiên còn có vai trò quan mại của Hà Tiên bấy giờ trở nên khá phồn trọng đối với sự phát triển của Việt Nam thịnh và có liên hệ với cả bên ngoài, trong trong các thế kỷ XVII – XVIII. Nó là chìa đó có Trung Hoa. Việc buôn bán với Trung khóa mở ra một không gian rộng lớn, khơi Quốc được bắt đầu từ năm 1729, những thổ dậy các nguồn lực mới cho sự phát triển sản của Hà Tiên như hải sâm, cá khô, tôm của đất nước, có vai trò then chốt đối với khô… liên tục được xuất cảng sang Trung tiến trình xác lập chủ quyền lãnh thổ trên Quốc (Huỳnh Lứa, 2009, tr.39). Thương đất liền và trên biển của Việt Nam. Trong cảng Hà Tiên vô cùng tấp nập, liên lạc với suốt các thế kỷ XVII – XVIII, vùng đất này Xiêm La, Cao Miên, Việt Nam, Trung trở thành tiền đồn quan trọng, bảo vệ mặt Hoa, Mã Lai.v.v. Các món hàng xuất cảng: Nam và Tây Nam của toàn bộ vùng đồng gạo, sáp ong, ngà voi, đồn đột, cá khô, tôm 67
  5. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) khô, thịt bò khô,... Địa danh “Cảng Khẩu một đông, tiếng tăm của Thái Công ngày Quốc” đã xuất hiện trong các bộ Hoàng một lừng lẫy” (Vũ Thế Dinh, 2006, tr.15). Thanh văn hiến thông khảo đời Thanh. Bên Năm 1736, chúa Nguyễn chuẩn cho Mạc cạnh đó, địa danh “Doãn Đại Mã”, “Côn Thiên Tứ kế tập chức vị của cha, thăng làm Đại Ma” (tức Sài Mạt – Bantay Méas) cũng Khâm sai Đô đốc, phong tước Tông Đức được ghi chú trong Gia Khánh trùng tu hầu: “...Ông lo sắp đặt văn võ nha thuộc, nhứt thống chí và Hải Quốc văn kiến lục tuyển chọn binh lính, xây dựng công thự, (Sơn Nam, 2015, tr.51). Theo Hoàng đắp thành lũy, quy hoạch đường xá chợ Thanh Văn hiến thông khảo (quyển 299) búa, từ đó thuyền buôn các nước đều cập chép: “Cung thất ở Cảng khẩu quốc không bến ấy. Ông lại tập hợp văn nhân, thi sĩ khác gì ở Trung Quốc, từ vương cung trở trong ngoài nước, lập văn đàn, khuếch xuống đều dùng gạch và ngói lợp nhà. Chế trương phong hóa, giáo dục của vùng đất độ và phong tục phang phác giống nhà Hà Tiên” (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.160). Minh. Vua (chỉ những người đứng đầu họ Đến cuối thế kỷ XVIII, vai trò cộng Mạc) để tóc dài và đội khăn, mặc long bào, đồng người Minh Hương và người Hoa ở dân chúng mặc áo thụng tay, lúc để tang Hà Tiên giảm sút vai trò do hậu quả của mặc áo trắng. Phong tục chú trọng văn học chiến tranh và sự sa sút của dòng họ Mạc. và giỏi làm thơ văn. Trong nước có văn Trước sự tàn phá của quân Xiêm, đặc biệt miếu, vua và nhân dân đều tôn kính…” “…và 1771 bị quân Xiêm La nhiều lần (Trần Kinh Hòa, 1958, tr.36). chiếm đóng, phá sạch nhà cửa đồn bảo. Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XVIII là một Đây là giai đoạn khiến cho cộng đồng dân xã hội nho giáo ở miền duyên hải vịnh cư ở đây, trong đó có người Hoa phải xiêu Xiêm La, có một mức độ phát triển kinh tế tán” (Huỳnh Ngọc Trảng, 2006, tr.10) đã – văn hóa đã tương đối hoàn thiện. Ở Hà dẫn đến phố xá bị tàn phá trở thành bãi Tiên (Cancao), những người đứng đầu chiến trường, của cải bị cướp bóc, dân dòng họ Mạc cũng đã triệt để phát huy thế tình khốn khổ, xiêu tán. Những di sản của mạnh của một vùng đất trù phú, dùng lúa người Hoa có được trước đó cũng bị thiêu gạo để nhập các sản vật từ Đông Nam Á cháy, tàn rụi. Hà Tiên chung số phận như trong đó có chì, thiếc từ bán đảo Mã Lai để các trung tâm kinh tế thương mại lớn của tái xuất sang Trung Quốc. Được coi là một Nam Bộ một thời(4) . Sau thời kỳ bị quân “tiểu Quảng Châu”, cảng Hà Tiên là điểm Xiêm chiếm giữ (1771 – 1772), đến khi đến của nhiều đoàn thuyền buôn từ Mã Lai, các chúa Nguyễn giành lại, khu vực này Sumatra, Java, Xiêm La, Ấn Độ, Miến trong tình trạng tiêu điều xác xơ (Trần Điện, Trung Quốc (Nguyễn Văn Kim, Đức Cường, 2016, tr.146). Thậm chí đầu 2006, tr.137). thế kỷ XIX, dân Hà Tiên có những năm Trong Mạc thị Gia phả cho biết mức đói to, phải tâu xin với vua Gia Long cho độ đô hội ban đầu của Hà Tiên: “Thái đong thóc từ hai đạo Long Xuyên, Kiên Công (tức chỉ Mạc Cửu) ngày đêm lo chiêu Giang mỗi năm tới cả 1 vạn phương. Tình tập người ở khắp hải ngoại đến buôn bán, trạng này của Hà Tiên ngoài nguyên nhân tàu thuyền vào ra rất nhộn nhịp, người chiến tranh còn do sự sa sút vai trò lãnh Việt, người Đường, người Liêu, người Man đạo của dòng họ Mạc (Trần Thị Mai, đua nhau kéo đến trú ngụ, hộ khẩu ngày 2007, tr.97). 68
  6. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 4. Người Hoa ở vùng đất Hà Tiên Hoa (Nguyễn Đình Đầu, 1994b, tr.140). trong thế kỷ XIX Như vậy, người Hoa đã sở hữu nhiều đất Năm 1810, hai huyện Kiên Giang và đai để sản xuất hàng hóa nông nghiệp, đây Long Xuyên được đưa về lại trấn Hà Tiên. hoàn toàn là sở hữu tư được nhà nước thừa Đồng thời, ở trấn vẫn duy trì (trực trị) nhận. Việc sở hữu đất đai từ việc khai phá những xã thôn, phố, sở điếm, sóc lệ thuộc hoặc do mua bán được nhà Nguyễn khuyến trực tiếp vào trấn, gồm: 19 xã thôn người khích đối với người Hoa ở Nam Bộ. Đồng Việt; 5 phố, sở điếm của người Hoa và 26 thời, nhờ việc sở hữu đất đai để sản xuất sóc của người Khơ–me (Trịnh Hoài Đức, nông sản hàng hóa cũng kích thích và phục 2005, tr.175,176). Đến năm 1832, vua vụ đắc lực cho nền thương mại của người Minh Mạng cho thành lập tỉnh Hà Tiên, lập Hoa (ngoài nguồn cung từ nền sản xuất của phủ quản các huyện, tăng cường dân sự cư dân đa số là người Việt). Kinh tế của hóa bộ máy hành chính, gắn kết chặt chẽ người Hoa sau một thời gian phục hồi đã vào nhà nước trung ương. Dấu ấn người trở lại thịnh vượng: “…Khoảng đầu thế kỷ Hoa tại Hà Tiên trong thế kỷ XIX được thể XX, vùng Rạch Giá, Hà Tiên có một số hiện trên các phương diện. doanh nhân người Hoa giàu có, hoạt động Hoạt động kinh tế, xã hội thương mại tầm cỡ, chuyên xuất khẩu hồ Ngoài buôn bán lúa gạo và các nông tiêu như ông Ênh, ông Hòa Túi ở Hà Tiên, sản khác, thương nhân người Hoa ở Hà các ông này đều có tàu buôn chở tiêu xuất Tiên đã làm chủ việc phân phối các mặt khẩu, hoặc như các ông Lâm Thọ Viễn, hàng nhu yếu phẩm hàng ngày do các nhà Lâm Du người Hải Nam rất giàu, chủ nhân buôn từ Trung Quốc, Đông Nam Á hay của những vườn tiêu có diện tích lớn, Châu Âu chuyển tới. Thống kê (một phần chuyên xuất khẩu tiêu đi các nước Đông số liệu có được từ cuộc đạc điền năm 1836 Nam Á…” (Phan Yến Tuyết, 2006, tr.130). của chính quyền nhà Nguyễn) cho thấy Sự phân bố cư dân và tổ chức cư trú người Hoa còn tham gia vào lĩnh vực nông Các khu định cư của người Hoa cũng nghiệp nhưng chủ yếu trồng các loại cây mở rộng trên khắp vùng Nam Bộ. Khoảng hương liệu như hồ tiêu, trầu cau. Tính toàn những năm 1802–1806, Hoàng Việt Dư địa tỉnh có tổng số chủ vườn tiêu là 176 người: chí ghi chép “…đến nhiệm sở đạo Long trong đó 96 người Triều Châu, 36 người Xuyên (tức vùng Cà Mau). Ở đây có miếu Minh Hương, 2 Phước Kiến, 7 chủ ở phố Hội đồng, phía đông là nhà của người Lạc Hóa, 31 chủ bản thôn và 4 phụ canh Kinh, người Hoa rất đông đúc, phía Tây là khác. Nếu tính cả những chủ “bản thôn” có nhà của người Cao Miên nhưng thưa thớt” gốc gác Hoa, thì chủ vườn tiêu hầu hết là (Lê Quang Định, 2005, tr.337). Theo Đại người Hoa (Nguyễn Đình Đầu, 1994b, Nam nhất thống chí thì vào năm 1820 – tr.138). Đất trồng cau và trầu: đất trồng 1822: “Chợ Mĩ Đức ở huyện Hà Châu, vườn cau (Tư viên lang thổ) đa số chủ cũng quán xá liên tiếp, người Kinh, người Trung là người Minh Hương và người Hoa; đất Quốc tụ họp, trước kia đông đúc, nay thưa trồng trầu (Tư phù viên thổ) ở huyện Hà thớt dần” (Quốc sử quán Triều Nguyễn, Châu: xã Mỹ Đức có 1 chủ Triều Châu, 2006, tr.31). Gia Định thành thống chí cho thôn Tân Thạnh với 5 chủ đều là người thấy ngoài xã Minh Hương, ở trấn Hà Tiên Phước Kiến. Các chủ vườn đều là người vào đầu thế kỷ XIX còn có các khu vực 69
  7. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) định cư của người Hoa như: Minh Bột đại hoạt động kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng của phố (Phố lớn Minh Bột); Minh Bột tân phố những miếu, hội quán đó thì ông không có (Phố mới Minh Bột); Phố Minh Bột Kỳ ghi chép nào cụ thể: “…Dinh Hiệp trấn ở Thọ (trước có tên là Cây Kè); Sở Minh Bột chân núi Ngũ Hổ, ngoài vọng cung về phía Lư Khê (trước là xứ Rạch Vược); Điếm trái có chợ trấn, phía trái công thự có đền Minh Bột Thổ Khâu (trước là xóm Rễ); và Quan Thánh, sau thự có chùa Tam Bảo. một Thuộc của người Hoa ở đảo Phú Quốc Bên trái chùa có đền thờ Mạc công. Chợ (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.176). trấn trông về đông là bến hồ, ở đó có trại Thống kê năm 1876 cho thấy ở hạt cá, phía bắc công khố là miếu Hội đồng, Châu Đốc có 807 người Hoa, hạt Long phía bắc có xưởng sửa chữa thuyền, chia Xuyên có 400 người Hoa, và hạt Sóc Trăng thành khu ngang dọc, lấy đường lớn làm 3.226 người Hoa (Nguyễn Đình Đầu, ranh; phía tả miếu Quan Thánh là phố Điếu 1994a, tr.91 - 93). Theo số liệu năm 1910, Kiều, đầu bến có bắc cầu ván thông ra biển ở tỉnh Hà Tiên mới (chỉ bao gồm đất huyện tiếp với hòn Đại Kim …” (Trịnh Hoài Đức, Hà Châu của tỉnh Hà Tiên cũ) có 2000 2005, tr.246). người Hoa (đa số từ Hải Nam tới làm vườn Đại Nam nhất thống chí chép: “Đền tiêu ở Hòn Chông); tỉnh Rạch Giá có 1.870 Quan Công: ở xã Mĩ Đức huyện Hà Châu, người Hoa và 4.800 người Minh Hương; nguyên trước do người Minh Hương dựng, tỉnh Bạc Liêu có 4.913 người Hoa và 7.300 sau bị quân Xiêm La đốt cháy. Năm Minh người Minh Hương (Nguyễn Đình Đầu, Mệnh thứ 15, dân xã dựng tạm ngôi đền 1994b, tr.105 – 108). Những số liệu thống bằng tranh. Năm Thiệu Trị thứ 2 lợp ngói, kê vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nhân dân cầu đảo thường được linh ứng. phản ánh sự phần nào sự phân bố người Phía sau đền có hồ nước sâu, rộng chừng Hoa ở vùng đất Hà Tiên xưa, người Hoa hơn một mẫu, nhân dân dùng để tưới lúc này tập trung đông hơn ở vùng đất ven ruộng. Đền cổ Bắc Đế: ở phía tả đền Rạch biển của vùng Tây sông Hậu bao gồm Hà Giá thuộc huyện Kiên Giang. Đền Thiên Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng. Hậu: ở chân hòn Khoai thuộc huyện Long Một số di sản văn hóa của cộng đồng Xuyên, thờ vị Thiên Hậu linh thần” (Quốc Tại Hà Tiên, không gian sống của sử quán triều Nguyễn, 2006, tr.33). Tác cộng đồng của người Hoa vừa mang truyền phẩm này cũng cho biết còn có đền cổ Bắc thống của quê hương Trung Hoa, vừa phù Đế ở phía tả đền Rạch Giá thuộc huyện hợp với yếu tố bản địa. Nhiều công trình Kiên Giang, đền Thiên Hậu ở chân hòn kiến trúc như: chợ, phố cổ, nhà cổ, miếu, Khoai thuộc huyện Long Xuyên, thờ vị hội quán... lần lượt ra đời. Đến nay, trên Thiên Hậu linh thần. địa bàn Kiên Giang (tập trung ở Hà Tiên và Cộng đồng người Hoa Hải Nam, xã Rạch Giá) còn nhiều di tích minh chứng Bình An (huyện Kiên Lương) có Hải Nam cho quá trình định cư của người Hoa, đặc hội quán. Hội quán này được xây dựng tại biệt là những di tích được xây dựng các ấp Hòn Chông. Là cư dân giỏi về nghề trong thế kỷ XVIII - XIX. Trong Gia Định buôn bán, hoặc đánh cá, thường đi lại trên thành thông chí, Trịnh Hoài Đức có nhắc sông, biển nên tín ngưỡng của người Hải đến miếu Quan Thánh ở trấn Hà Tiên gần Nam chủ yếu là những vị thần biển, thần khu vực chợ trấn. Tuy nhiên về tổ chức, bảo hộ cư dân sống ở hải đảo, thường di 70
  8. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN chuyên trên biển... Thần điện thờ tự trong Nhờ vào sự giao lưu buôn bán giữa các hội quán gồm: Phước Đức Chính thần, 108 nước ở vùng biển Đông ngày càng trở nên liệt vị, Thủy Vĩ Thánh Nương (Ý Vĩ Nương nhộn nhịp và chính sách tích cực của các Nương). Tại Hà Tiên có miếu Thiên Hậu chúa Nguyễn, từ cuối thế kỷ XVII đến đầu (miếu Bà Mã Châu, Lôi Châu hội quán) của thế kỷ XIX, vùng đất Hà Tiên phát triển nhóm người Hoa đến từ bán đảo Lôi Châu, thành “xứ đô hội biển”. Đây là chìa khóa miếu Ông Bổn của nhóm Hoa Hải Nam. mở ra một không gian rộng lớn và có vai Quỳnh Phủ hội quán ở Hà Tiên thờ cúng trò then chốt đối với tiến trình xác lập chủ tương tự Quỳnh Phủ hội quán ở Thành phố quyền lãnh thổ trên đất liền và trên biển Hồ Chí Minh (Phan Yến Tuyết, 2006, của Việt Nam. Nền kinh tế thương mại Hà tr.134 – 135). Sự hiện diện những di tích Tiên được tạo ra bởi cộng đồng cư dân đa miếu, hội quán của người Hoa gốc Hải sắc tộc trong đó có người Hoa. Những dấu Nam ở Hà Tiên là điều đặc biệt bởi trước ấn của người Hoa ở vùng đất Hà Tiên về đây ở Tây Nam Bộ (thế kỷ XVIII – đầu thế kinh tế, văn hóa khẳng định vai trò của kỷ XIX) người Hoa gốc Triều Châu có số cộng đồng người Hoa đối với vùng đất này. lượng và vai trò nổi trội, tuy nhiên đến cuối Sự thành công của người Hoa cùng những thế kỷ XIX nhóm Hoa Hải Nam đã đến Hà đóng góp của họ cũng gợi mở những vấn Tiên và các vùng hải đảo (của Kiên Giang đề liên quan đến chính sách đại đoàn kết ngày nay) để khai thác thế mạnh về nông dân tộc và phát triển kinh tế – văn hóa của nghiệp trồng cây hồ tiêu. Các số liệu thống Kiên Giang nói riêng và miền Tây sông kê cũng đã cho thấy cư dân Hoa ở Hà Tiên Hậu nói chung trong bối cảnh hiện nay. (hạt/ tỉnh Hà Tiên mới) đa số là người gốc Bài báo thuộc đề tài NCKH – Mã số Hải Nam như đã phản ánh trong các tài liệu CS2018–15. Tác giả chân thành cảm ơn về cư dân ở trên. Trường Đại học Sài Gòn đã tài trợ cho đề 5. Kết luận tài nghiên cứu này. Chú thích: (1) Địa danh “Hà Tiên” đã được dùng để đặt tên các đơn vị hành chính hết sức khác biệt như: Trấn Hà Tiên (1708-1832); tỉnh Hà Tiên (1832- 1868); huyện Hà Tiên (1826- 1832) sau đổi thành Hà Châu thuộc tỉnh; hạt Hà Tiên (1881-1910), tỉnh Hà Tiên (1910- 1955), và TP. Hà Tiên ngày nay. Vùng đất Hà Tiên trong bài viết này được hiểu là vùng đất thuộc trấn Hà Tiên (1708 – 1832) và tỉnh Hà Tiên (1832 đến cuối thế kỷ XIX). Phạm vi của trấn Hà Tiên, tỉnh Hà Tiên (thế kỷ XVII – XIX) cơ bản gồm có diện tích của các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và một phần diện tích của các tỉnh Bạc Liêu, Hậu Giang (Việt Nam). (2) Gia Định thành thông chí và Đại Nam thực lục ghi năm 1708, Mạc Thị gia phả và Đại Nam nhất thống chí ghi năm 1714. Vấn đề này đã gây ra nhiều tranh luận trong giới Sử học. Tuy nhiên, dần dần mốc thời gian 1708 được chấp nhận nhiều hơn. (3) Thư tịch triều Nguyễn cho biết có 4 chủ thể người Minh Hương: Minh Hương cựu phố (những thương nhân nhà Minh sang nước ta tạm trú trong những cảng thị, khu phố để buôn bán từ trước năm 1644); Minh Hương cựu thần (những di thần gồm quan quân và 71
  9. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) binh lính chạy nạn sau khi nhà Minh sụp đổ, từ năm 1644); Minh Hương nguyên ngạch (các thế hệ người Minh Hương mang 2 dòng máu Hoa – Việt) và Minh hương Tân thuộc (những người Thanh tạm thời sinh hoạt trong các Minh Hương xã, chờ đủ số lượng để lập bang). Đối với người Hoa, họ là những cư dân sinh hoạt trong các tổ chức xã hội như phủ, bang (ra đời từ cuối thế kỷ XVIII), tuy nhiên những thế người Minh Hương thời kỳ đầu như Minh hương cựu phố, Minh Hương cựu thần chủ yếu là người Hoa (do cơ bản là cư dân tạm trú). (4) Ba trung tâm kinh tế thương mại lớn nhất của Nam Bộ gồm: Mỹ Tho Đại Phố, Hà Tiên và Cù Lao Phố, đều được hình thành vào thập niên 80 của thế kỷ XVII, hưng thịnh vào khoảng giữa thế kỷ XVIII (1750 đến 1760), nhưng sau đó gần như bị tàn phá vào cùng một lúc: Mỹ Tho và Hà Tiên (1771), Cù Lao Phố (1776 – 1777). TÀI LIỆU THAM KHẢO Alexander Hamilton. (1927). A New Account of East Indies Volume II, Publisher: King’s printing house in Craig’s Closs (digitiez by Google Books), Chap. XLVIII: Gives an Account of Combodia, its Trade, also of a late War brought into their country by the Siamer, and the ill success they had. p. 196 –204. Lê Quang Định (2005). Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí. (Bản dịch của trung tâm ngôn ngữ Đông Tây). NXB Thuận Hóa. Lê Quý Đôn (1959), Phủ Biên Tạp lục, bản dịch của Ngô Lập Chí, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội. Mạc Đường. (1991). Người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long. Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, TP.HCM: NXB Khoa học Xã hội, 215 – 241. Nguyễn Đình Đầu. (1994a). Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh An Giang. NXB Tổng hợp TP.HCM. Nguyễn Đình Đầu. (1994b). Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh Hà Tiên. NXB Tổng hợp TP.HCM. Nguyễn Văn Kim. (2006). Xứ Đàng Trong trong mối quan hệ và tương tác quyền lực khu vực”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX. Thế Giới, 118-140. Phan Yến Tuyết. (2006). Người Hoa Hải Nam ở vùng đất Hà Tiên xưa. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX. Thế Giới. Poivre Pierre. (2019). Puissance de l’Agriculture. Origine du Royaume de Ponthiamas, Voyages d’un philosophe, ou observations sur les mœurs et les arts des peuples de l’Afrique, de l’Asie et de l’Amérique, p. 30–31 [http://www.pierre–poivre.fr/doc–68– an–c.pdf; download 1.1.2020] 72
  10. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Quốc sử quán triều Nguyễn. (2002). Đại Nam thực lục. Tập 1. (Viện Sử học biên dịch). Hà Nội: NXB Giáo dục. Quốc sử quán triều Nguyễn. (2006). Đại Nam nhất thống chí, Tập 5. (Tái bản lần thứ 2, Viện Sử học biên dịch). Huế: NXB Thuận Hóa. Sơn Nam (2015). Tìm hiểu đất Hậu Giang và lịch sử đất An Giang. NXB Trẻ Trần Đức Cường (chủ biên). (2016). Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ. (Từ khởi thủy đến năm 1945): NXB Khoa học Xã hội. Trần Kinh Hòa (Cheng Ching Ho). (1958). Họ Mạc và chúa Nguyễn tại Hà Tiên. Văn hóa Á Châu. (số 70). Sài Gòn, 30-38. Trần Thị Mai. (2007). Lịch sử Sài Gòn – Gia Định thời kỳ 1802 – 1875. TP.HCM: NXB Tổng hợp TP.HCM & Văn hóa Sài Gòn Trịnh Hoài Đức (2005). Gia Định thành thông chí. Bản dịch của Lý Việt Dũng. Đồng Nai: NXB Tổng hợp Đồng Nai. Vũ Thế Dinh. (2006). Mạc Thị Gia phả. (Nguyễn Khắc Thuần dịch, giới thiệu và chú thích). NXB Giáo dục. Ngày nhận bài: 20/01/2020 Biên tập xong: 15/3/2020 Duyệt đăng: 20/3/2020 73
nguon tai.lieu . vn