Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH ĐÀO TẠO CÔNG TÁC XÃ HỘI Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP NGÀNH ĐÀO TẠO ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI ThS. Kiều Văn Tu Phó Trưởng Bộ môn Công tác xã hội, Khoa Văn hóa du lịch 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngành công tác xã hội (CTXH) ra đời như một môn khoa học và được đưa vào đào tạo trong các trường đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ từ khoảng hơn một trăm năm trước, nhưng là ngành khoa học rất mới mẻ trong hệ thống đào tạo của các trường đại học ở Việt Nam. Đến năm 2018, ở bậc đại học cả nước có khoảng năm mươi cơ sở đào tạo chuyên ngành công tác xã hội. Trường đại học Đồng Tháp là một trong ba trường đào tạo ngành công tác xã hội ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2019, ngành công tác xã hội đã được đào tạo 14 năm và đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống các ngành đào tạo của Trường đại học Đồng Tháp. CTXH trở thành một trong những ngành đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực ở cả phương diện số lượng và phương diện chất lượng nguồn nhân lực. Việc đào tạo ngành công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp là hoàn toàn phù hợp với chủ trương đào tạo đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đào tạo để đáp ứng nhu cầu xã hội và thực hiện Đề án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020 (Đề án 32) của Thủ tướng Chính phủ. 2. KẾT QUẢ ĐÀO TẠO 2.1 Đào tạo công tác xã hội để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội Ở Việt Nam, mầm mống của công tác xã hội đã có từ rất sớm, ngay trong xã hội phong kiến tại các làng xã đã tồn tại các mô hình ruộng đất công mà sản phẩm thu được chủ yếu để trợ cấp cho các đối tượng “có hoàn cảnh” trong thôn xóm như bệnh tật, góa bụa, trẻ mồ côi... Nhà chùa, nhà thờ cũng là những nơi trú ngụ cho những người đói rách qua đường. Các xã hội sau đó đã phát triển nhiều mô hình xã hội khác nhau cho việc trợ giúp người nghèo, người khó khăn, hoạn nạn, mất thăng bằng xã hội, để họ trở lại với cuộc sống bình thường. Có thể nói những nội dung cơ bản mà công tác xã hội đề cập đến chúng ta đã có từ lâu, nhưng chưa hình thành một hệ thống khoa học, việc giải quyết các vấn đề xã hội vẫn mang tính mò mẫm, thiếu các công cụ mang tính khoa học. Công tác xã hội như một khoa học xã hội ứng dụng cũng chỉ nhận được sự phổ biến rộng rãi ở nước ta trong gần hai chục năm lại đây. Đó là sự đáp ứng những đòi hỏi, những nhu cầu tất yếu trong sự phát triển của xã hội. Ngày nay cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, những vấn đề xã hội bức xúc cũng đang có xu hướng bùng phát và duy trì ở mức cao. Cụ thể như: Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Tính đến ngày 17/4/2012, tổng số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 200.792 trường hợp, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 50.560 trường hợp. Tổng số người nhiễm HIV đã tử vong là 52.951 trường hợp (nguồn: website HIV Online) Vấn đề nghèo đói: Theo tổ chức Ngân hàng thế giới, tỉ lệ nghèo đói ở Việt nam năm 2010 là 20,7%, nghèo đô thị là 6%, nghèo nông thôn là 27%. Riêng ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ nghèo đói là 18,7% Trong thế giới ngày nay, việc giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội tương tự không thể cứ mò mẫm, theo chủ nghĩa kinh nghiệm thuần túy hoặc theo chủ nghĩa duy lý trí. CTXH cần phải mang tính chuyên nghiệp, những người làm CTXH cần phải được đào tạo một cách chính quy, có bài bản. 2.2 Đào tạo nguồn nhân lực công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp từ 2005 đến nay Trường đại học Đồng Tháp là nơi đào tạo tất cả các ngành sư phạm ở các cấp học, có uy tín và có truyền thống lâu đời. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Nhà trường đã phát triển đào tạo các ngành ngoài sư phạm trong đó có ngành công tác xã hội. Với quan điểm truyền bá tri thức và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về các ngành khoa học xã hội và nhân văn, phục vụ sự Trang 9
  2. KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019 nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi đó công tác xã hội là một ngành khoa học ứng dụng thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn và đã được đào tạo có tính chuyên nghiệp từ nhiều năm nay ở hầu hết các trường Đại học nổi tiếng trên thế giới. Vì vậy việc đưa vào đào tạo ngành công tác xã hội tại trường đại học Đồng Tháp là bước đi đúng, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, phù hợp với định hướng và sứ mệnh của nhà trường. Từ thực tế 14 năm đào tạo ngành công tác xã hội càng cho thấy vai trò quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực công tác xã hội của ngành đào tạo này. Về mặt số lượng Số lượng sinh viên trúng tuyển vào học ngành công tác xã hội có thay đổi theo từng năm (bảng 1). Nhìn một cách tổng thể thì đây là ngành đào tạo đang có nhiều nhu cầu việc làm trong xã hội nên số lượng sinh viên tuyển sinh vào học là tương đối ổn định. Có những năm điều kiện tuyển sinh đầu vào gặp khó khăn, nhiều ngành trong trường không đủ số lượng sinh viên để có thể mở lớp, nhưng ngành công tác xã hội vẫn duy trì được một đến 2 lớp (gồm cả hệ vừa làm vừa học). Bảng 1 Số lượng sinh viên chính quy học ngành công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp từ năm 2005 đến nay (đơn vị tính: người) Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Số lượng 32 42 58 75 69 57 18 18 34 34 49 17 29 14 sinh viên Nguồn: Bộ môn Công tác xã hội, trường đại học Đồng Tháp, năm 2018 Hệ đào tạo vừa làm vừa học là hệ đào tạo dành cho những người đang công tác trong các cơ quan, xí nghiệp, các tổ chức xã hội và không có điều kiện học tập ở hệ chính quy. Năm 2012, nhà trường đã đưa ngành công tác xã hội vào đào tạo vừa làm vừa học. Kết quả tuyên sinh các lớp ở các tỉnh trong khu vực cụ thể trong bảng 2. Bảng 2 Số lượng sinh viên vừa làm vừa học học ngành công tác xã hội ở các tỉnh liên kết đào tạo từ năm 2012 đến nay (đơn vị tính: người) Tỉnh liên kết Cà Mau Vĩnh Long An Giang Đồng Tháp Kon đào tạo Tum Số lượng 139 107 72 78 25 Nguồn: Bộ môn Công tác xã hội, trường đại học Đồng Tháp, năm 2018 Như vậy, so với nhiều ngành đào tạo ở trường Đại học Đồng Tháp, công tác xã hội là ngành đào tạo có sức thu hút xã hội khá cao, hay nói cách khác nhu cầu của người học (đó cũng thể hiện nhu cầu của xã hội) đối với ngành đào tạo này ở Trường là hiện thực. Về mặt chất lượng Kết quả của 5 khóa sinh viên tốt nghiệp ra trường cho thấy ngành công tác xã hội đã đáp ứng nhu cầu việc làm của xã hội. Trong số 207 sinh viên ra trường (không tính số lượng sinh viên vừa mới tốt nghiệp Khóa 2014) thì có 125 sinh viên có việc làm trong các cơ quan nhà nước nhà nước, 40 em có việc làm ở các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế (bảng 3). Khoảng 90% sinh viên có việc làm hiện đang làm việc ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Các cơ quan Nhà nước có số lương sinh viên tốt nghiệp ngành công tác xã hội vào làm việc nhiều là các Sở, Phòng Lao động thương binh và xã hội; Bảo hiểm xã hội; Ủy ban nhân dân các xã, phường… Công việc mà các em phụ trách thường là lĩnh vực chính sách xã hội; tư vấn chăm sóc bảo vệ trẻ em, bảo vệ trẻ em; phòng chống tệ nạn xã hội; tư vấn việc làm, nghề nghiệp cho thanh niên; tham vấn người bị nhiễm HIV; cán bộ phụ trách văn hóa xã hội ở các xã, phường. Trang 10
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH Bảng 3 Tình hình việc làm của sinh viên học ngành công tác xã hội khi ra trường (đơn vị tính: người) 2005- 2006- 2007- 2008- 2009- Khóa đào tạo Tổng 2009 2010 2011 2012 2013 Số lượng sinh viên 32 42 58 75 69 276 Số lượng sinh viên có việc làm trong cơ quan nhà nước 28 32 34 31 11 136 Số lượng sinh viên có việc làm ở tổ chức xã hội khác 2 5 12 21 4 44 Sinh viên tốt nghiệp đi học cao học; tự tạo việc làm; đang tìm việc làm 2 4 10 23 54 93 Số lượng sinh viên Số lượng sinh viên có việc làm trong cơ quan nhà nước Số lượng sinh viên có việc làm ở tổ chức xã hội khác Sinh viên tốt nghiệp đi học cao học; đang tìm việc làm Nguồn: Bộ môn Công tác xã hội, trường đại học Đồng Tháp, năm 2018 Từ bảng 3 cho thấy, đến khóa năm 2013 có 44 sinh viên ra trường đi làm việc tại các cơ quan khác. Điều này cho thấy rằng xu hướng sinh viên tốt nghiệp ngành công tác xã hội tìm được việc làm ở các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội tư nhân, các dự án, các tổ chức phi chính phủ đang có chiều hướng gia tăng. 2.3 Những yếu tố quan trọng để đạt được những kết quả đào tạo Trên cơ sở những cái đã có, cùng kết quả 14 năm đào tạo cũng như qua những số liệu về tình hình tuyển sinh và việc làm của sinh viên ngành công tác xã hội có thể giúp để thấy được các yếu tố quan trọng để có được kết quả đào tạo ngành công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp, cụ thể như sau - Thứ nhất, về chương trình đào tạo: Trên cơ sở văn bản qui định về qui chế đào tạo theo tín chỉ, Nhà trường đã tổ chức xây dựng chương trình đào tạo ngành CTXH cho phù hợp với sứ mệnh, đặc điểm và các yêu cầu của Trường, là trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trang 11
  4. KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019 Chương trình đào tạo ngành công tác xã hội hiện được thiết kế với 122 tín chỉ, được đào tạo trong 8 học kỳ, khối kiến thức đại cương là 34 tín chỉ, khối kiến thức chuyên ngành là 88 tín chỉ. Với cấu trúc này, chương trình vừa kết hợp được sức mạnh và những đặc điểm của trường đại học Đồng Tháp, vừa chú trọng nhiều đến khối kiến thức ngành và chuyên ngành. Với mục tiêu đào tạo các cử nhân công tác xã hội có thể thực hiện việc cung ứng dịch vụ công tác xã hội tại các cơ sở và tổ chức xã hội. Làm công tác xã hội chuyên nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau: sức khỏe, giáo dục, pháp luật, kinh tế, truyền thông, văn hóa, môi trường... Chương trình đã giành khá nhiều thời lượng cho kiến thức thực hành, thực tập thực tế. Số tín chỉ dành cho thực hành, thực tập là 16 tín chỉ (tương đương 1 học kỳ), cũng như đào tạo các phương pháp kỹ năng cho sinh viên như tham vấn, quan hệ công chúng... Có thể nói đây là ngành đào tạo giành thời lượng cho thực hành, thực tập, thực tế nhiều nhất trong các ngành đào tạo của trường đại học Đồng Tháp. - Thứ hai, về cơ sở đào tạo: Đến nay, trường đại học Đồng Tháp là một trong 3 trường trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều ngành đào tạo có truyền thống lâu đời, đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm, trình độ, có uy tín. Nhiều môn học, chuyên đề, đề tài khoa học liên quan đến các vấn đề: an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, chính sách xã hội, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, các tệ nạn xã hội… đều đã được đưa vào giảng dạy và nghiên cứu. Cùng đứng chân trên địa bàn thành phố Cao Lãnh có các cơ sở xã hội như Trung tâm Công tác xã hội trẻ em tỉnh Đồng Thám, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS… đó đều là những cơ sở thực hành hữu ích cho sinh viên công tác xã hội, giúp sinh viên gắn kết giữa học lý thuyết với nghiên cứu khoa học, gắn kết giữa lý thuyết với thực tế xã hội. Điều đó góp phần cùng với Nhà trường có đủ cơ sở, năng lực để đào tạo có chất lượng và phát triển nhanh chóng ngành công tác xã hội. - Thứ ba, sự quan tâm của chính quyền tỉnh Đồng Tháp và các tổ chức xã hội đối với ngành công tác xã hội: ngành công tác xã hội luôn nhận được sự quan tâm, sự ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần của chính quyền tỉnh Đồng Tháp và các tổ chức xã hội đối với ngành công tác xã hội. Chính quyền địa phương đã tạo mọi điều kiện để triển khai công tác tuyển sinh và đào tạo ngành học này đối với hệ đào tạo vừa làm vừa học. Nhà trường đã nhận được sự hỗ trợ trực tiếp của các tổ chức quốc tế như Save Children in Vietnam; SWEEP – trường đại học San Jose State, Hoa Kỳ; Trung tâm Công tác xã hội trẻ em Donkoi, Lào; Quỹ Học bổng Nguyễn Thị Oanh, Trung tâm Nghiên cứu, tư vấn Công tác xã hội và phát triển cộng đồng (SDRC) TP.HCM… các tổ chức này đã giúp đỡ học phí, tài liệu, giáo trình, xây dựng chương trình đào tạo, giảng dạy, tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn trong đào tạo công tác xã hội. Đặc biệt là Chương trình SWEEP- trường đại học San Jose State, Hoa Kỳ hỗ trợ giảng viên CTXH và cán bộ quản lý của Nhà trường đi tập huấn chuyên môn về đào tạo và quản lý chuyên ngành CTXH tại Hoa Kỳ. Như vậy, đề có được những kết quả đào tạo nguồn nhân lực CTXH ở trường đại học Đồng Tháp như hiện nay là nhờ vào các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan từ phía giảng viên CTXH và Lãnh đạo Nhà trường. Trong đó yếu tố quan trọng nhất là giảng viên CTXH và Lãnh đạo trường xác định là đào tạo để đáp ứng nhu cầu của xã hội, đào tạo nguồn nhân lực công tác xã hội cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long. 3. Những cơ hội và thách thức trong quá trình đào tạo 3.1 Những cơ hội Ngành công tác xã hội có vai trò rất quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như: Củng cố an sinh xã hội thông qua việc cải thiện các vấn đề xã hội và tăng cường khả năng giải quyết vấn đề cho cá nhân và cộng đồng; Trợ giúp cá nhân, nhóm và cộng đồng, cũng như môi trường xã hội rộng hơn giải quyết và đối phó với khó khăn trong cuộc sống; Kết nối con người với các nguồn lực và hệ thống các dịch vụ xã hội, cũng như việ c thúc đẩy các tổ chức xã hội cung cấp dịch vụ và nguồn lực cho con người hoạt động có hiệu quả và mang tính nhân văn; Thúc đẩy thực hiện và vận động chính sách hỗ trợ các nhóm yếu thế đẩy mạnh an sinh và công bằng xã hội; Tổ chức nghiên cứu các vấn đề xã hội nhằm cải thiện khung pháp lý và tăng Trang 12
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH cường dịch vụ đáp ứng phù hợp cho các nhóm đối tượng; Giáo dục cộng đồng nâng cao nhận thức và năng lực về giải quyết các vấn đề xã hội. Ngành công tác xã hội có thể làm việc ở các lĩnh vực như:  Bảo vệ trẻ em và phụ nữ nạn nhân của bạo hành gia đình và các hành thức hành hạ, ngược đãi, bóc lột, lạm dụng khác;  Bảo trợ xã hội, bao gồm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi, người khuyết tật,...  Phòng chống tệ nạn xã hội;  Tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, luật sư, tư vấn, trợ giúp pháp lý…)  Các chương trình cho thanh niên, người chưa thành niên;  Giáo dục ở các cấp học;  Y tế, bao gồm cả lĩnh vực sức khỏe tâm thần;  Phát triển cộng đồng;  Quản lý các dịch vụ xã hội;  Nghiên cứu chính sách … Vai trò và vị trí quan trọng của ngành công tác xã hội là những cơ hội để đào tạo và phát triển nghề công tác xã hội ở Viêt Nam nói chung và ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Với Quyết định 32/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì nghề công tác xã hội đã được khẳng định ở Việt Nam về mã số, ngạch bậc, thực hiện ở các cấp, bước đầu đã có cơ sở pháp lý. Việc tồn tại và phát triển công tác xã hội ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu xã hội. Trên thực tế, công tác xã hội với những biểu hiện cụ thể của nó đã được đề cập trong pháp luật Việt Nam từ rất sớm, ngay những năm 40-50 của thế kỷ trước thông qua các hoạt động trợ giúp, hỗ trợ người cao tuổi, trẻ em mồ côi, khuyết tật, những người gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do cá nhân, tổ chức như Hội Chữ thập đỏ, phụ nữ, thanh niên …thực hiện. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực này đã có tiền đề và là một thuận lợi để chúng ta hoàn thiện. Đã có những văn bản có liên quan đến hoạt động công tác xã hội được quy định trong các lĩnh vực cụ thể là cơ sở thuận lợi cho việc bổ sung, điều chỉnh, xây dựng các quy định pháp luật về nghề công tác xã hội trong thời gian tới. Nhiều nội dung liên quan đến công tác xã hội đã được qui định trong pháp luật Việt Nam, có liên quan đến nhiều lĩnh vực của các Bộ, ngành. Pháp luật Việt Nam đã có một số văn bản quy định trực tiếp về công tác xã hội như Luật nuôi con nuôi, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật nuôi con nuôi, Nghị định 67 và Nghị định 136 về chính sách trợ giúp xã hội bảo trợ xã hội, luật về trách nhiệm của con cái khi nuôi dưỡng người già…Bên cạnh đó có nhiều văn bản mặc dù không quy định cụ thể về công tác xã hội nhưng đã có quy định thể hiện khá rõ nét bản chất của công tác xã hội và dịch vụ công tác xã hội. Việc tổ chức thực hiện các quy định có liên quan đến công tác xã hội và dịch vụ công tác xã hội về cơ bản đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, lãnh đạo các ban ngành, tổ chức quan tâm chỉ đạo, triển khai và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đó là cơ sở để từng bước đóng góp vào sự phát triển, hoàn thiện ngành, nghề công tác xã hội ở Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển nghề CTXH nói chung ở nước ta thì có rất nhiều tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế quan tâm hỗ trợ nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực CTXH. Đây là một cơ hội rất lớn để Nhà trường có thể kết nối và hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm góp phần thực hiện Đề án 32. 3.2 Những thách thức Nhận thức về ngành nghề công tác xã hội còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các bạn trẻ ít hiểu biết về ngành công tác xã hội nên khó khăn trong công tác tuyển sinh đầu vào. Còn hạn chế trong công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về công tác xã hội chuyên nghiệp ở Việt Nam nói chung và ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng tới các cấp, các ngành, tới mọi người dân, phổ biến tuyên truyền rộng rãi về vị trí, vai trò của công tác xã hội chuyên nghiệp trong việc can thiệp, giải quyết các vấn đề xã hội. Trang 13
  6. KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019 Giảng viên có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành công tác xã hội còn ít so với nhu cầu đào tạo hiện nay của Nhà trường. Hiện nay có 8 giảng viên tham gia giảng dạy các môn học chuyên ngành công tác xã hội, các giảng viên này có trình độ thạc sĩ hoặc đang học tiến sĩ chuyên ngành công tác xã hội hoặc các ngành gần như xã hội học, dịch vụ xã hội và phát triển. Hiện nay, chưa có giảng viên đạt trình độ tiến sĩ chuyên ngành công tác xã hội, đây là một thách thức lớn đối với ngành công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp. Ở đồng bằng sông Cửu Long, các dịch vụ xã hội, các cơ sở xã hội nơi mà sinh viên có thể đến để thực hành, thực tập còn quá ít so với nhu cầu. Đây là thách thức lớn trong quá trình đào tạo và phát triển nghề công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp. Chưa có những qui định cụ thể về định biên (biên chế) CTXH trong các cơ quan, tổ chức xã hội là một thách thức quan trọng trong việc đảm bảo đầu ra trong đào tạo và phát triển nghề CTXH. Trong đào tạo ngành công tác xã hội, Nhà trường đã liên kết đào tạo với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long để đào đạo và cung cấp nguồn nhân lực công tác xã hội. Nhưng một số tỉnh trong khu vực lân cận lại liên kết đào tạo đại học hoặc các khóa học ngắn hạn với các trường đại học ở xa khu vực điều này gây tốn kém và lãng phí trong quá trình đào tạo và tận dụng nguồn nhân lực. 4. Kiến nghị và đề xuất Trong quá trình đào tạo, Bộ môn CTXH, trường đại học Đồng Tháp xin có một số kiến nghị và đề xuất như sau: Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các cơ quan hoàn thành quy định về định biên (biên chế) công tác xã hội trong các cơ quan có thể tuyển dụng cán bộ làm CTXH. Ví dụ như: nhân viên làm CTXH trong bệnh viện, trong trường học, trong các cơ quan đoàn thể… Bộ LĐ-TB&XH phối hợp Bộ Giáo dục và đào tạo và các tổ chức hỗ trợ, ưu tiên đào tạo nâng cao trình độ giảng viên đang trực tiếp đào tạo sinh viên ngành CTXH. Cụ thể như đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ chuyên ngành CTXH ở các nước phát triển. Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các cơ quan để truyền thông nhiều hơn nữa về ngành, nghề CTXH làm cho người dân, đặc biệt là học sinh phổ thông hiểu biết nhiều hơn về ngành CTXH. Phát triển nguồn nhân lực công tác xã hội là giải pháp quan trọng để góp phần giải quyết các vấn đề xã hội trên. Trường đại học Đồng Tháp đã, đang và sẽ tiếp tục đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực công tác xã hội cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long và trong cả nước. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng trong các mục tiêu của Đề án 32 phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ ThS Hà Đình Bốn, Phát triển công tác xã hội ở Việt Nam về phương diện pháp luật, bài viết trong kỷ yếu Hội thảo quốc tế về chia sẻ kinh nghiệm về an sinh xã hội và công tác xã hội, ngày công tác xã hội 2012 tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. 2/ PGS.TS. Phạm Văn Quyết, Đào tạo công tác xã hội ở trường ĐHKHXH&NV – ngành đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, bài viết tại Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và đào tạo Công tác Xã hội trong quá trình hội nhập và phát triển, 2008. 3/ Thạc sỹ Kiều Văn Tu, Báo cáo kết quả thực hiện đề án 32, Cục Bảo trợ xã hội, Bộ LĐTB&XH, năm 2016 Trang 14
nguon tai.lieu . vn