Xem mẫu

  1. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo Gv: Bùi Huy Lan Chương I: ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM 1. Xã hội Xã hội theo nghĩa thông thường là cộng đồng người sinh sống và phát triển. Theo triết học duy vật lịch sử và duy vật biện chứng thì xã hội là hình thái vận động cao nh ất của thế giới vật chất, lấy con người và sự tác động lẫn nhau gi ữa ng ười v ới ng ười làm nền tảng. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sinh ra sự sống và theo quy lu ật ti ến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động v ật. Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người. Quá trình chuy ển biến từ động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về ch ất, ta g ọi là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội. Khác với giới tự nhiên vô thức, mù quáng, sống theo bản năng, xã hội loài ng ười hoạt động có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi nh ững m ục đích nh ất đ ịnh. Như vậy xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên, là sản phẩm của sự tác động qua l ại giữa những con người. Mác và Angghen đã chỉ rõ lao động và ngôn ngữ là hai s ức kích thích s ự chuy ển biến bộ não của loài vật thành bộ não con người, tâm lý đ ộng v ật thành ý th ức. Vì v ậy mà con người mới có ý thức và mục đích sống phù hợp với quy luật phát tri ển c ủa t ự nhiên và xã hội để tái sản xuất chính mình và tự nhiên. Trong xã hội, sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người, bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra b ản thân con ng ười. Ba quá trình đó g ắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó s ản xuất v ật ch ất là c ơ s ở c ủa s ự t ồn t ại xã hội, từ đó hình thành và phát triển ý thức xã hội. Triết học duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã h ội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào t ồn t ại xã h ội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những hình thái ý th ức xã h ội nh ư 1
  2. chính trị, tư tưởng, triết học, pháp luật, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật v.v…cũng sẽ biến đổi theo. 2. Đạo đức: Theo văn hóa Phương Đông, các học thuyết của Nho giáo, Đ ạo giáo, Ph ật giáo đ ều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con ng ười làm điều thiện, tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề ra những quy tắc, chuẩn mực để định hướng cách đánh giá, ứng xử của con người trong quan hệ xã hội và tu thân, dưỡng tâm, rèn khí tiết. Ở Phương Tây, khái niệm đạo đức bắt đầu từ chữ mos trong ngữ vựng Latinh, có nghĩa là lề thói; hoặc chữ ethicos trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là tập tục gắn với thói quen. Cả hai từ này đều nói về tập quán, lề thói trong các quan h ệ giao ti ếp c ủa con người và đều chỉ đạo đức xã hội. Khái niệm đạo đức theo tiếng Anh là moral, chỉ các quan hệ, hành vi, phẩm giá về sự quan tâm của người này đối với người khác theo các chuẩn mực v ề cái tốt trong cộng đồng xã hội. Từ những quan niệm trên đây, có thể định nghĩa: Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực được dư luận xã hội thừa nhận nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với tự nhiên và xã hội. Với định nghĩa trên đây, đạo đức gồm các thành tố: - Một hình thái ý thức xã hội (phản ánh tồn tại xã hội). - Một chế định xã hội (chuẩn mực, nguyên tắc ứng xử cho cá nhân và cộng đồng). - Có giá trị điều chỉnh các mối quan hệ xã hội (bên cạnh pháp lu ật và các quy phạm xã hội khác). - Được dư luận xã hội thừa nhận. Đạo đức là mối quan hệ xã hội có quy tắc, chuẩn mực, có giá trị, được thực hiện bằng niềm tin cá nhân, truyền thống và chịu tác động của dư luận xã hội. Việc đánh giá đạo đức không chỉ dựa vào hành vi ứng xử của mỗi người, mà quan tr ọng là phải xem xét động cơ để thực hiện hành vi đó. II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA ĐẠO ĐỨC 2
  3. 1. Nguồn gốc của đạo đức: Trước khi học thuyết Mac ra đời, các nhà triết học và đạo đức học có nhi ều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về nguồn gốc, bản chất của đạo đức. Những nhà duy tâm chủ quan cho rằng đạo đức là những năng lực bẩm sinh c ủa con ng ười phù h ợp v ới “mệnh lệnh tuyệt đối” hướng tới cộng đồng, sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và người khác. Ngược lại các nhà triết học duy tâm khách quan và thần học lại cho rằng đạo đức của con người là do các đấng siêu nhiên đem lại, hoặc là sự biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Các nhà duy vật trước Mac thì giải thích nguồn gốc bản chất của đ ạo đức từ mối quan hệ giữa người với người, nhưng lại cho rằng con người là một thực thể bất biến phi lịch sử, phi giai cấp nên đạo đức cũng chỉ như là một thứ năng lực bẩm sinh không thay đổi. Những người theo học thuy ết Đác Uyn thì quan ni ệm đ ạo đ ức nh ư là sự mở rộng những bản năng bầy đàn của động vật; sự thực hi ện ch ức năng thích nghi với môi trường, là sự tiến hóa của giới hữu sinh, mà đỉnh cao là con người. Quan điểm của chủ nghĩa Mac cho rằng đạo đức sinh ra trước h ết là từ nhu c ầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong quá trình con ng ười t ương tác với tự nhiên và xã hội, trong phân phối sản ph ẩm làm ra. Cùng v ới s ự phát tri ển c ủa sản xuất, của các quan hệ xã hội, ý thức và hành vi đ ạo đ ức cũng theo đó mà hình thành và phát triển. Như vậy đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động s ống của con người; là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã h ội, t ổng h ợp các y ếu t ố khách quan trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. 2. Bản chất của đạo đức: Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức trước hết mang bản ch ất xã hội. Bản chất xã hội của đạo đức thể hiện ở nội dung do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội quyết định, đồng thời phụ thuộc vào trình độ phát triển và hoàn thi ện c ủa kinh t ế - xã hội. Mac và Angghen đã luận ch ứng bản ch ất xã h ội c ủa đ ạo đ ức b ằng cách ch ỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức. Các nguyên tắc, chuẩn mực; các quan điểm đạo đức là sản phẩm của các chế độ kinh tế. Vì vậy, tương ứng với mỗi chế độ kinh tế, mỗi phương th ức sản xuất, m ỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đ ức nh ất đ ịnh. Đó là tính th ời đ ại c ủa đ ạo đức. Tính dân tộc cũng là một trong những biểu hiện bản chất xã hội của đ ạo đ ức. Ngoài những chuẩn mực đạo đức chung, mỗi dân tộc do điều kiện sinh sống, sự khác biệt về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan h ệ sản xuất, cũng có các quan niệm, chuẩn mực, cách ứng xử khác nhau tạo thành bản sắc dân tộc. Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, đạo đức cũng ph ản ánh và kh ẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức nh ư m ột công c ụ đ ể 3
  4. bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức chi phối toàn xã h ội bao gi ờ cũng là hệ thống đạo đức của giai cấp thống trị. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội gắn với các phương thức sản xuất xã hội. Khi phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo. Tuy nhiên đạo đức có tính độc l ập t ương đ ối, v ừa ph ản ánh t ồn t ại xã hội, vừa tác động trở lại thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát tri ển và ảnh h ưởng sâu rộng đến các hình thái ý thức xã h ội khác như chính trị, khoa h ọc, ngh ệ thu ật, pháp luật…. Điều cần chú ý là, tình thời đại của đạo đức luôn có s ự k ế th ừa đ ối v ới c ơ s ở sinh ra nó và tuy đạo đức mang tính giai cấp nhưng không vì vậy mà ph ủ nh ận tính nhân lo ại chung của nó. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình th ức th ấp là bi ểu hi ện nh ững quy tắc đơn giản, thông thường, cần thiết để đảm bảo cuộc sống trật t ự hàng ngày c ủa con người. Biểu hiện cao hơn là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại. 3. Cấu trúc của đạo đức: Đạo đức là một trong những hình thái ý th ức xã h ội đ ộc l ập, có c ấu trúc riêng. Tùy theo cách tiếp cận mà xem xét cấu trúc của đạo đức dưới những góc độ khác nhau: 3.1. Nếu xem xét từ góc độ mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì cấu trúc của đạo đức gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Ý thức đạo đức bao gồm nhận thức, tình cảm và lý trí tạo nên mục đích và động cơ của hành vi đ ạo đ ức. Th ực ti ễn đ ạo đ ức là toàn bộ hoạt động của con người được điều chỉnh bởi ý thức đ ạo đ ức, là s ự th ể hi ện ý thức thành hành động phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội. 3.2. Nếu xem xét từ góc độ quan hệ thì đạo đức gồm một h ệ th ống quan h ệ đ ặc thù giữa người và người, giữa người với cộng đồng xã hội và t ự nhiên, đ ược đ ặc tr ưng bởi tính tự giác, tự nguyện và tính động cơ. Mỗi người sinh ra đã b ắt g ặp h ệ th ống các quan hệ đạo đức xã hội tồn tại bên ngoài ý muốn c ủa mình và trong quá trình s ống, t ất yếu phải tham gia vào hệ thống các quan hệ đạo đức đó. 3.3. Nếu xét theo góc độ quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì đạo đức được cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã h ội hình thành trên c ơ s ở c ộng đồng về lợi ích, trở thành một hệ thống giá trị chung đ ược m ọi thành viên tin t ưởng và noi theo. Đạo đức cá nhân là biểu hiện của đạo đức xã h ội trong t ừng ng ười c ụ th ể v ới các cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào việc người đó quán triệt đến m ức nào nh ững yêu cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội cả trong ý th ức l ẫn th ực ti ễn đ ạo đ ức. Đ ạo đ ức xã hội và đạo đức cá nhân có mối quan hệ hữu cơ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau. 4. Chức năng của đạo đức: 4
  5. 4.1. Chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nh ận th ức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Mục đích của nhận thức đạo đức không phải là phát hiện quy lu ật, h ướng t ới chân lý mà là đánh giá giá trị thiện – ác của các hiện tượng, sự kiện xã hội, hành vi, t ư t ưởng, tình cảm con người…. Tất cả những gì góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội và giải phóng con người đều là tiêu chí khách quan của nhận thức đạo đức như là nh ững giá trị đích thực về cái thiện; ngược lại, đó là điều ác. Nhận thức đạo đức và kết quả của nó là cơ sở để điều chỉnh hành vi của con người. Sự nhận thức đạo đức có đặc điểm: - Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức đạo đức. - Nhận thức đạo đức là quá trình v ừa h ướng ngo ại, v ừa h ướng n ội (t ự nh ận thức). Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đ ạo đức c ủa xã h ội làm đối tượng. Nhờ đó mà chủ thể nhận thúc chuyển hóa được chuẩn mực đ ạo đ ức c ủa xã hội thành ý thức đạo đức của cá nhân. Nhận thức h ướng n ội l ấy b ản thân mình làm đ ối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự giác, tự thẩm định, đối chiếu những nh ận th ức, hành vi đạo đức của mình với những chuẩn mực chung của cộng đồng. Từ đó mà ch ủ thể hình thành, phát triển ý thức và hành vi đạo đức. Nhận thức đạo đức có hai trình độ là trình độ thông thường và trình độ lý luận: - Nhận thức ở trình độ thông th ường là nh ững giá tr ị riêng l ẻ, đáp ứng nhu c ầu đạo đức đủ để chủ thể xử lý kịp thời các mối quan hệ thông thường trong cuộc sống. - Nhận thức ở trình độ lý luận là những nh ận th ức có tính nguyên t ắc đ ược ch ỉ đạo bởi những giá trị đạo đức phổ quát, đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nhận thức đạo đức đem lại tri thức, ý thức đạo đức để ch ủ th ể tạo d ựng và hi ện thức hóa đạo đức cá nhân. 4.2. Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi làm cho con người và xã hội tồn tại, phát triển; bảo đảm hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đặc trưng của sự điều chỉnh đạo đức là ở tính tự giác và tự nguyện, trong đó chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đạo đức và tình cảm đ ạo đức có vai trò c ực kỳ quan 5
  6. trọng. Hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức phụ thuộc vào c ả nhân t ố ch ủ quan và khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa hành vi của con người, được thực hiện bằng lương tâm và dư luận xã hội. Mục đích của chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức là t ạo nên s ự hài hoà quan h ệ lợi ích cộng đồng và cá nhân. Đối tượng điều ch ỉnh trực ti ếp là hành vi cá nhân, qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng. 4.3. Chức năng giáo dục: Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời, hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan tác động, chi phối con người. Đó là ch ức năng giáo d ục c ủa đạo đức. Trong xã hội có giai cấp luôn tồn tại nhiều hệ thống đạo đức khác nhau tác đ ộng đến các cá nhân, làm chuyển hóa nhận thức đạo đức và th ực ti ễn đ ạo đ ức c ủa h ọ. Các hành vi đạo đức được lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân, làm cho cả đ ạo đức xã hội và đạo đức cá nhân được củng cố, phát triển, trở thành thói quen, truy ền thống, tập quán đạo đức. Hiệu quả giáo dục của đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh t ế - xã h ội, cách thức tổ chức, mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục. Chức năng giáo dục của đạo đức bao gồm sự giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng, giữa các cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng; mặt khác là sự tự giáo dục ở mỗi cá nhân và cộng đồng. Tóm lại, với những chức năng cơ bản trên đây, đạo đ ức có vai trò r ất l ớn trong đời sống con người và xã hội. Đạo đức đã trở thành m ục tiêu đ ồng th ời cũng là động lực để phát triển xã hội. Các chức năng của đạo đức có sự thống nh ất bi ện chứng, chức năng này là tiền đề và điều kiện cho chức năng kia và ngược lại. III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ Đạo đức là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy, ý thức đạo đức của con người mông muội đã được hình thành, từ đó được phát triển hoàn thiện dần trên cơ sở phát tri ển c ủa hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao. 1. Xã hội cộng sản nguyên thủy không phân chia thành giai cấp, không có hi ện tượng người bóc lột người. Mọi người cùng nhau hái lượm, săn bắt…, để duy trì cuộc sống và chưa sản xuất ra sản phẩm thừa. Kỷ luật và quy tắc lao động 6
  7. được duy trì bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã h ội, b ằng uy tín và sự tôn vinh đối với tộc trưởng, hay phụ nữ. Trong điều ki ện đó, các d ấu hiệu đạo đức sơ khai đã xuất hiện, với những đặc điểm mang tính c ụ th ể, c ảm tính, trực quan và kinh nghiệm. Các chế định đạo đức được lặp lại từ kinh nghiệm th ực tiễn trong dạng tr ực quan và thói quen, bắt chước. Các phong tục tập quán, lễ nghi, định kiến, dư luận xã h ội hình thành và tồn tại dai dẳng trong lao động sản xuất và đời sống. Tính trung thực, thẳng thắn, kiên cường, dũng cảm là đức tính phổ bi ến c ủa con người. Tính hợp tác, công bằng, thông cảm, tương trợ được coi trọng. T ất c ả nh ững gì có ích cho cộng đồng, bộ lạc được coi là điều thiện, ngược l ại cái gì có h ại b ị coi là đi ều ác. 2. Sự xuất hiện giai cấp trong chế độ nô lệ đã tạo nên sự khác biệt giữa quyền lợi và nghĩa vụ cũng như vai trò và địa vị của từng cá nhân trong xã h ội . Điều đó cũng dẫn tới sự tan vỡ của ý thức đạo đức thống nhất trong nội bộ cộng đồng xã hội nguyên thủy, đánh dấu một bước sa sút về đạo đức trong xã hội, bắt đầu xuất hiện những yếu tố kích thích nảy sinh nh ững đi ều x ấu v ề đạo đức (trộm cắp, tham lam, bạo lực, gian trá….) Chiếm hữu nô lệ là một quan hệ sản xuất mới (phù hợp với sức sản xu ất ti ến b ộ hơn) mà cơ sở là chủ nô chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu cả bản thân người lao động. Từ đây xuất hiện một nền đạo đức mới mà đặc trưng là tính chất đối kháng giữa đạo đức của chủ nô và nô lệ. Tầng lớp chủ nô coi mình là người có đ ức h ạnh, thượng lưu, quý tộc; còn nô lệ là những người không có phẩm hạnh, thấp hèn, hạ đẳng. Sự nô dịch của số ít với số đông được đảm bảo bằng nhà nước, tình trạng bình đẳng nhường chỗ cho đẳng cấp. Tính chất đó cũng quy định các nội dung khác nhau về đạo đức. Người nô lệ chỉ được xem là “công cụ biết nói” và phục tùng tuy ệt đối. Nh ững đức tính cao cả của người nô lệ như lòng dũng cảm, chí khí, danh dự, bất khuất v.v… đã bị chủ nô coi là sự thách thức, bất kính, vô đạo đức. Trong xã hội tạo thành hai h ệ thống đạo đức tách biệt: Đạo đức của kẻ chiếm hữu nô l ệ và đ ạo đức c ủa ng ười b ị nô lệ. Đó là mâu thuẫn đầu tiên lớn nhất, tập trung nhất trong văn hóa tinh th ần c ủa nhân loại. 3. Chế độ phong kiến dựa trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất, là một giai đoạn mới, cao hơn trong việc phát triển sản xuất. Người nông dân có công cụ sản xuất riêng, dựa vào lao động cá nhân và đem lại cho h ọ những điều ki ện sinh sống cần thiết. Tuy nhiên cuộc sống của họ vẫn ph ụ thuộc và g ắn bó ch ặt ch ẽ với chế độ lao động nặng nhọc, tối tăm, ngu dốt, đè nén v ới l ối c ưỡng b ức siêu kinh tế của giai cấp phong kiến thống trị. 7
  8. Ở đây tồn tại nhiều kiểu đạo đức, nhưng đạo đức của giai cấp phong ki ến v ẫn chiếm địa vị thống trị. Cơ sở đạo đức phong kiến là quyền uy, tính đẳng c ấp, gia trưởng, trọng nam khinh nữ…. Ở phương Tây thường xuất phát từ những tín điều tôn giáo, còn ở phương Đông thường xuất phát từ quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên, được dựa trên cơ sở của học thuyết Nho giáo và ảnh h ưởng c ủa đạo đức Phật giáo, Đạo giáo. Quan điểm đạo đức của giai cấp phong kiến và nông dân đã có sự bi ến đ ổi, thu ngắn sự khác biệt và “hòa bình” hơn so với chủ nô và nô lệ. 4. Thay thế chế độ phong kiến, chế độ tư bản là bước tiến mới của l ịch sử xã hội, vì nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xóa b ỏ tình tr ạng cát c ứ c ủa phong kiến, mở ra thị trường phát triển sản xuất và khoa học kĩ thuật. Sự thay thế quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư b ản ch ủ nghĩa d ẫn đến biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội. Quan h ệ hàng hóa ti ền t ệ thâm nh ập vào tất cả các ngõ ngách của đời sống xã hội, phá tan những sợi dây trói buộc con người. Ở đây, chủ nghĩa cá nhân là nguyên tắc cơ bản c ủa đạo đ ức t ư s ản. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa cá nhân là sự thừa nhận sự tự trị và quy ền tuy ệt đối của cá nhân trong xã hội. Đạo đức tư sản coi ch ủ nghĩa cá nhân là b ản tính tự nhiên bất biến của con người. Trong quá trình tích lũy t ư b ản, bóc l ột lao động làm thuê, chủ nghĩa cá nhân đã chiến thắng quan h ệ chật hẹp đẳng c ấp phong kiến dưới khẩu hiệu cách mạng tư sản là “tự do, bình đẳng, bác ái”. Trong thời kỳ thiết lập chủ nghĩa tư bản, con người được giải phóng và phát triển. Tuy nhiên, sự bình đẳng cũng chỉ là hình thức vì giai cấp tư sản không giải quyết được nguồn gốc sinh ra bất bình đẳng chính là đặc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải làm ra của một số ít người. Trong quá trình phát tri ển xã h ội, giai c ấp t ư s ản đã làm cho quan hệ giữa người với người bị chi phối b ởi quan h ệ ti ền b ạc; bi ến giá tr ị con người thành giá trị đổi chác, mua bán. Lòng tham vô đáy chi ếm đ ịa v ị th ống tr ị trong mọi hoạt động của giai cấp tư sản. Công lý và nền tảng đạo đức trong xã h ội không được đảm bảo; con người trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy giảm. Có thể nói, tất cả các lý thuyết đạo đức của giai cấp bóc lột mặc dù có chỗ khác nhau, nhưng đều có đặc điểm chung là ca tụng chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, coi hiện tượng người bóc lột người là tự nhiên, bất khả xâm phạm. 5. Sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, người lao động từng bước được giải phóng về kinh tế, chính trị và xã hội. Loài người bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa cộng sản, xây dựng một xã hội không còn giai cấp bóc lột. Mọi người sống trong hòa bình, tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Đạo đức c ủa giai cấp vô sản trở thành đạo đức thống trị và là mầm mống của đ ạo đ ức c ộng s ản chủ nghĩa tương lai. 8
  9. Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao trên con đường tiến lên c ủa xã h ội và s ẽ t ồn t ại mãi với loài người. Nó chứa đựng tất thảy những đặc điểm tốt đẹp của đ ạo đ ức trong các thời đại trước và có bước phát triển mới về chất, theo những nguyên tắc: - Đề cao chủ nghĩa tập thể; mình vì mọi người, mọi người vì mình. - Lao động tự giác và sáng tạo. - Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. - Chủ nghĩa nhân đạo triệt để nhất. 6. Sự phát triển đạo đức ở Việt Nam. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, đất nước và nhân dân ta đã trải qua nhi ều giai đoạn thăng trầm, chịu sự tác động mạnh của các luồng văn hóa, v ới nh ững quan niệm, tư tưởng, triết học, đạo đức khác nhau. Sự tiếp biến các n ền văn hóa đã hình thành truyền thống đạo đức chịu ảnh hưởng mạnh của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo và sau này là Đạo đức cách mạng. Nho giáo, với mẫu hình nhân cách của “kẻ sĩ”, người quân tử với lý t ưởng “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và phẩm chất “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.” Nh ững t ư t ưởng đạo đức được xã hội đề cao như: “trung quân ái quốc”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “tam tòng, tứ đức”. Đạo giáo, khuyến khích con người sống “vô vi”, không làm điều gì trái tự nhiên, trở về với sự chất phác, mộc mạc của tự nhiên mà đặc trưng là những ph ẩm ch ất: Vô tư, khoan dung, khiêm nhường và mềm dẻo. Phật giáo, với mẫu hình người giác ngộ, đề cao các tín niệm “vô thường”, “vô ngã” và đức tính “làm lành, tránh ác”, “từ bi, hỷ xả”, “cứu nhân độ th ế”, mà đ ặc tr ưng là “khuyến thiện, chống ác.” Thiên chúa giáo, với triết lý dựa vào điều giáo huấn v ề tình yêu c ủa Chúa, đ ặc trưng là lòng nhân ái cao cả. Từ khi Cách mạng Tháng tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng c ộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những giá trị đạo đức cách m ạng đã đ ược b ổ sung, phát triển làm giàu thêm đạo đức truyền thống của dân tộc, hình thành n ền đ ạo đ ức mới, vừa kế thừa phát huy những giá trị truyền thống, vừa bổ sung nh ững giá trị m ới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước. Đặc trưng c ủa đ ạo đ ức m ới là đ ề cao lòng trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người; cần, kiệm, li ệm, chính, chí công vô tư và có tinh thần quốc tế trong sáng IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT: 9
  10. Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ biện chứng với nhau và đ ều là nh ững quy phạm xã hội có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Giữa hai hình thái ý thức xã hội này có sự th ống nhất. B ản thân pháp lu ật, m ột m ặt phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nh ưng m ặt khác nó v ẫn k ế thừa các giá trị truyền thống. Còn đạo đức cũng kế thừa các giá trị truyền thống và phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã h ội, nh ưng nó cũng ph ải đ ảm b ảo phù hợp với những yêu cầu của pháp luật và khuyến khích thực hiện tốt pháp luật. Trong thực tế, thường có sự chuyển hóa, thống nh ất hai loại quy ph ạm này đ ể điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong một chừng mực nào đó, cần thiết nhà nước ph ải thể chế hóa những quy phạm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thành những quy ph ạm pháp luật. Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật không xóa nhòa ranh giới giữa chúng. B ởi vì giữa hai hình thái ý thức xã hội này có những điểm khác biệt: Đạo đức là hình thái ý thức xã hội th ường được th ể hiện b ằng ni ềm tin, lý t ưởng, các nguyên tắc chung có ý nghĩa định hướng tinh th ần đ ể mỗi ng ười t ự đi ều ch ỉnh hành vi của mình trong quan hệ với xã hội, dưới sự kiểm soát của lương tâm và dư luận xã hội. Trong khi đó, pháp luật lại chú trọng đến việc quy định các hành vi một cách c ụ thể, với những tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc mọi người tuân theo và đ ược đ ảm b ảo thực hiện bằng nhà nước. Luật pháp chỉ có thể điều chỉnh trên một số lĩnh vực nh ất định của đời s ống xã h ội và sẽ mất đi khi không còn nhà nước. Trong khi đó, đạo đ ức có vai trò đi ều ch ỉnh trong tất cả các quan hệ xã hội và sẽ tồn tại mãi mãi với loài ng ười. Mặt khác, lu ật pháp thường chỉ tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội khi đã đến độ gây nên nh ững ảnh hưởng xấu và cơ bản chỉ áp dụng đối với nh ững người đã đ ến tu ổi công dân. Còn đ ạo đức, do tính mềm dẻo và linh động, nó tham gia điều ch ỉnh các hiện t ượng l ệch chu ẩn xã hội ngay từ khi mới xuất hiện, với mọi loại đối tượng. Cho nên có thể nói, pháp luật là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức là pháp luật tối đa. V. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI: Văn hóa theo nghĩa chung nhất là toàn bộ những giá trị do con người sáng t ạo, l ưu giữ, tôn vinh và phát triển. Như vậy giữa văn hóa và con người có mối quan hệ th ống nhất biện chứng. Con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của văn hóa không ngừng làm tăng lên chất lượng và trình độ người trong phát triển. Để sáng tạo các giá trị văn hóa, trước hết con người phải là chủ thể của đạo đức, nhân cách, phù h ợp với nh ững 10
  11. chuẩn mực đạo đức và nhân cách của xã hội. Đó là giá trị hàng đầu, lớn nhất trong bảng giá trị văn hóa. Nghị quyết hội nghị trung ương Đảng lần thứ V, khóa VIII đã kh ẳng đ ịnh văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, đạo đức lối sống của từng cá nhân và cả xã hội là y ếu t ố quan trọng, cốt lõi làm nên diện mạo của văn hóa dân tộc. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên ti ến đ ậm đà b ản s ắc dân tộc. Tính chất tiên tiến và đậm đà bản s ắc dân tộc không ch ỉ bi ểu hi ện ở h ệ t ư t ưởng, khoa học, kỹ thuật… mà còn bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và thực tiễn ở đạo đức, l ối sống. Con người, có nhân cách sẽ biết cảm thụ và sáng tạo văn hóa đ ể phát tri ển và hoàn thiện chính mình, đồng thời vượt qua những lệch chuẩn, biến dạng phản văn hóa. Nội dung cốt lõi của tiên tiến là lòng yêu nước và ti ến bộ; là lý t ưởng đ ộc l ập và ch ủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nh ằm m ục tiêu t ất c ả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã h ội và tự nhiên. B ản s ắc văn hóa dân t ộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Vi ệt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh th ần đoàn k ết; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao đ ộng; s ự tinh t ế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…. Đồng thời bản sắc dân tộc luôn gắn k ết, mở rộng tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại để không ngừng làm phong phú, nâng cao các giá trị văn hóa dân tộc, phù hợp với thời đại. Xây dựng được một môi trường văn hóa lành mạnh, từ trong gia đình đ ến c ộng đồng dân cư và toàn xã hội, thấm đậm những giá trị đạo đức sẽ tạo nền tảng cho người Việt Nam phấn đấu vươn lên, phát triển toàn diện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. VI. MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC: Phạm trù đạo đức là những khái niệm phản ánh nh ững đặc tính căn b ản, nh ững quan hệ phổ biến trong đời sống hiện thực. Toàn bộ những chuẩn mực đạo đức được luận giải một cách khái quát gọi là phạm trù đạo đức. Ngoài đặc tính chung nh ư các phạm trù khoa học xã hội khác, phạm trù đạo đức còn có một số đặc đi ểm riêng nh ư mang tính phổ biến và khái quát cao, chứa đựng nội dung thông báo và nội dung đánh giá, đồng thời có tính phân cực rõ ràng. Những giai đoạn lịch sử khác nhau, ph ạm trù đạo đức cũng mang những nội dung khác nhau. 1. Lẽ sống: (ý nghĩa của cuộc sống) Lẽ sống là phạm trù chỉ mặt ý thức của lối sống, có vai trò dẫn dắt, đ ịnh h ướng cho lối sống ổn định, một trong những vấn đề trọng tâm của đời sống con người, theo ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân. Có thể xem l ẽ sống là quan ni ệm s ống, là ý nghĩa cu ộc 11
  12. sống mà con người tự nhận thức được và tự giác hành động vì một lý tưởng đạo đức cao cả, tiến bộ; loại bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, h ướng con ng ười t ới chân, thiện, mỹ. Vì vậy lẽ sống là nền tảng tinh thần nói chung và đạo đức của con người nói riêng. Nó chi phối và liên quan mật thiết đến những định hướng cuộc sống h ết sức cơ bản của con người, như lý tưởng, niềm tin, thái độ, quan điểm sống v.v…. Lẽ sống là biểu hiện của sự tự ý thức cao nhất của con người về cuộc sống của mình, là hội tụ của sự trưởng thành về nhân cách, phát triển trí tuệ, tri thức và kinh nghiệm. Người có lẽ sống tốt đẹp sẽ có khả năng vượt qua mọi khó khăn, th ử thách đ ể vươn lên trong cuộc sống. Ngược lại, sự khủng hoảng về lẽ sống sẽ có th ể làm cho con người đổ vỡ niềm tin, chao đảo tinh thần, chệch hướng trong cuộc sống, rối loạn trong hành động, dẫn tới những hậu quả khó lường. Lẽ sống là phạm trù trung tâm của đạo đức, bao trùm, tác đ ộng và liên h ệ đ ến các phạm trù khác của đạo đức. Lẽ sống giúp con người sáng tạo ra nh ững h ạnh phúc, giúp con người giữ gìn phẩm giá, danh dự, sống cao cả, gắn bó với cộng đồng, hoàn thành tốt nghĩa vụ đạo đức với gia đình và xã hội. Lẽ sống đem lại cho con người sự lạc quan yêu đời, luôn tích c ực, t ự giác, kiên trì khắc phục khó khăn và khao khát vươn tới trong cuộc sống. Lẽ sống còn là một phạm trù mang tính phổ biến, là nhu cầu tự nhiên t ất y ếu c ủa mỗi người. Không có lẽ sống hoặc lẽ sống không đúng, con người sẽ trở thành kẻ ăn bám, đục khoét, xâm phạm, phá hoại lợi ích của xã hội và của người khác. Đạo đức học macxit coi lẽ sống là quá trình th ống nh ất gi ữa nghĩa v ụ và h ạnh phúc. Nghĩa là, con người chỉ thật sự hạnh phúc khi tự giác làm tròn nghĩa vụ v ới ng ười khác và với xã hội. Tuyệt đối hóa một mặt nào đó giữa nghĩa vụ và h ạnh phúc thì l ẽ sống của con người sẽ chỉ thiên lệch một chiều; chỉ biết nhận và h ưởng th ụ, không bao giờ nghĩ đến cho và cống hiến; hoặc rơi vào trạng thái th ụ động, ch ỉ bi ết vâng l ời ch ấp nhận mà không độc lập, đấu tranh, ước mơ, sáng tạo. Lao động là cơ sở, cội nguồn của lẽ sống, là một trong những điều kiện, hành vi đầu tiên sáng tạo ra con người và xã hội loài người. Lao động không chỉ tạo ra các giá trị vật chất bảo đảm cho sự tồn tại của con người mà còn làm nảy sinh nhu c ầu, khát vọng, yếu tố cơ bản làm nên lẽ sống. Đó là động lực đ ể con ng ười v ươn lên và có hoài bão. Lao động làm cho sản xuất và xã hội phát triển, đồng thời cũng làm nhu c ầu và khát vọng của con người ngày càng tăng lên, từ đó lẽ sống cũng không ng ừng nâng cao và mở rộng. Theo Mac, quá trình lao động là quá trình con người hoàn thiện b ản thân mình. Lao động làm tăng tính tích cực cho xã hội và nh ững đức tính quý báu c ủa con ng ười nh ư lòng nhân ái, tính vị tha, sự cao cả, tính tự giác, kỷ luật…. Đồng thời nó cũng loại b ỏ những thói xấu như tính lười biếng, tham lam, ích kỷ, ti tiện…. 12
  13. Trong cuộc sống, mỗi người cần phải có lẽ sống đúng đắn. Đó là biết sống vì xã hội, luôn phấn đấu cống hiến nhiều những thành quả lao động có giá trị góp phần vào quá trình phát triển xã hội, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân hay hạnh phúc của cả xã h ội là ranh gi ới, tiêu chu ẩn đ ể phân biệt người có lẽ sống cao cả với kẻ có lẽ sống tầm thường, ích kỷ, thấp hèn. Ng ười có quan niệm đạo đức chân chính bao giờ cũng hướng lẽ sống của mình phù hợp với yêu cầu phát triển và tiến bộ của xã hội, biết kết h ợp hài hòa gi ữa l ợi ích cá nhân và l ợi ích xã hội. Như vậy, lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống của con người không hoàn toàn ph ụ thuộc chỉ vào thời gian sống mà quan trọng nhất chính là ch ất l ượng cu ộc s ống, trong đó con người được lao động tự giác, sáng tạo, tự do cống hi ến cho xã h ội và thụ hưởng từ xã hội. 2. Hạnh phúc: Hạnh phúc là ước mơ lớn nhất, là mối quan tâm sâu s ắc c ủa con người ngay t ừ khi con người tách khỏi động vật và bắt đầu ý thức được về mình. Quan ni ệm v ề h ạnh phúc có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần nói chung và đạo đức nói riêng. Nó trở thành một trong những nền tảng tinh th ần giúp con ng ười xây d ựng lý tưởng, mục tiêu, thái độ sống. Đồng thời, quan niệm về hạnh phúc còn giữ vai trò là hạt nhân, là thước đo và định hướng để con người thiết lập các khái niệm thiện, ác, phẩm giá và hàng loạt các khái niệm nhân bản khác. Hạnh phúc chân chính t ạo ra nh ững đ ộng lực thúc đẩy con người và xã hội tiến tới sự hoàn thiện, thông qua vi ệc ph ấn đ ấu th ực hiện những lý tưởng cao quý. Qua các thời đại lịch sử, có nhiều quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Phần lớn các quan niệm trước Mac đều cho rằng hạnh phúc là sự thỏa mãn các nhu c ầu, là tr ạng thái khi con người đạt được sự sung sướng, không còn những đau kh ổ, dằn vặt và đ ược yên tĩnh, thanh thản trong tâm hồn. Các tôn giáo lại quan niệm hạnh phúc là cái không có ở trần gian, mà nó chỉ có ở thế giới bên kia. Những quan niệm trên đây đều có khuynh hướng coi h ạnh phúc là s ự th ỏa mãn những nhu cầu cá nhân, tuyệt đối hóa, tầm thường hóa các nhu c ầu cá nhân ho ặc mang nặng yếu tố siêu hình dẫn đến những lệch lạc, bế tắc trong quá trình đi tìm hạnh phúc. Đạo đức học macxit quan niệm hạnh phúc gắn liền với quá trình lao động sản xuất và hoạt động xã hội của con người. Lao động sản xuất và hoạt động xã hội mang l ại cho con người niềm vui, niềm tự hào sung sướng, nâng cao ý th ức ph ẩm giá làm ng ười, tin tưởng vào xã hội, gắn bó mỗi cá nhân với cộng đ ồng trong tình th ương yêu, quý trọng lẫn nhau. Như vậy, hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy trong lao động, học tập, trong đấu tranh và chỉ đến với con người như một tặng thưởng kèm theo nh ững giá trị vật chất và tinh thần mà họ đã tạo ra vì xã hội, được xã h ội đánh giá và th ừa nh ận. Do đó, hạnh phúc không phải là cái gì đó có sẵn để con ng ười nh ận l ấy m ột cách th ụ đ ộng mà 13
  14. phải do chính bản thân họ tạo ra. Chỉ những hoạt động nào có ích cho con ng ười, làm lợi cho xã hội mới đem lại hạnh phúc. Những hoạt động gây nên đau khổ cho con người sẽ bị xã hội lên án và ngăn chặn. Đó là lẽ vì sao lười biếng, thói ỷ l ại, trì trệ, ích k ỷ, hưởng thụ một chiều trong thực tế là trái đạo đức và là kẻ thù của hạnh phúc. Mặt khác hạnh phúc của mỗi người chỉ có thể đạt được khi nó gắn với hạnh phúc của cộng đ ồng và xã hội. Đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, cái lạc h ậu, b ảo th ủ kìm hãm xã h ội phát triển; đồng thời đấu tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp, dân t ộc, xây d ựng một xã hội ngày càng tốt đẹp, văn minh chính là đem lại hạnh phúc cho con người. Xã hội càng văn minh tốt đẹp càng tạo điều kiện cho con người s ống h ạnh phúc và đ ạt được những giá trị cao đẹp. Những hoạt động thỏa mãn nhu cầu đạo đức xã hội, làm cho con ng ười đ ạt đ ến hạnh phúc cao nhất, đích thực nhất; hướng con người phấn đấu vươn tới cái chân, thiện, mỹ. Hạnh phúc còn là phạm trù có tính tương đối, tính lịch sử cụ th ể, luôn v ận đ ộng, biến đổi theo sự vận động và biến đổi của tồn tại xã hội. Mỗi th ời đại l ịch s ử, m ỗi con người cụ thể trong những hoàn cảnh, lứa tuổi khác nhau, có những quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Mặt khác hạnh phúc không loại trừ hoàn toàn mọi nỗi khổ đau. Những nỗi khổ có tính tích cực như sự trăn trở trong sáng tạo, đau kh ổ khi v ượt qua l ỗi l ầm, hy sinh vì nghĩa lớn; đau khổ vì nỗi đau của người khác; những gian truân, kh ổ ải trước khó khăn trong lao động và cuộc sống v.v… một khi con người đã vượt qua thì ni ềm vui, hạnh phúc mà họ nhận được sẽ càng lớn. Hạnh phúc trọn vẹn là sự thỏa mãn những nhu cầu cả về vật ch ất lẫn tinh th ần, đồng thời phải không ngừng sáng tạo ra những giá trị đó. Nhưng nhu cầu vật chất thì có hạn, còn nhu cầu tinh thần thì không có giới hạn nên bao giờ cũng là tiêu chuẩn cao hơn, đòi hỏi con người phải kiên trì phấn đấu mới có thể đạt đ ược nh ững đỉnh cao c ủa khát vọng tinh thần. 3. Nghĩa vụ: Nghĩa vụ chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống đạo đức xã hội. Vi ệc thực hiện nghĩa vụ tốt hay xấu là thước đo đặc thù nói lên tình trạng ti ến bộ hay thoái hóa của đời sống đạo đức trong xã hội. Nghĩa vụ đạo đức là ý thức trách nhiệm, là tình c ảm t ự giác c ủa con ng ười đ ối v ới người khác và đối với xã hội. Một hành vi được xem là nghĩa vụ đ ạo đ ức ph ải đ ặt trên cơ sở tự nguyện, tự giác, cái thiện và tự do; là sự thống nhất giữa lý trí và tình c ảm, ý thức và hành vi của cá nhân với lý trí của toàn xã hội. Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga G. Bandzeladze đã vi ết: “Đ ạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và t ự do nh ững ng ười khác và xã hội…. Nơi nào không có những hành động tự nguyện, tự giác của con người thì ở 14
  15. nơi ấy không có nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống xã h ội” (G. Bandzeladze – đạo đức học – NXB Giáo dục - Hà Nội – 1985 – t1, tr.102). Sự trưởng thành về ý thức nghĩa vụ đạo đức phản ánh xu hướng tiến bộ của một xã hội lành mạnh, hài hòa. Ý thức nghĩa vụ đạo đức không ch ỉ là sự đòi h ỏi, yêu c ầu của xã hội đối với cá nhân mà còn là nhu cầu của sự tiến bộ, hoàn thi ện đ ối v ới b ản thân mình. Vì vậy, nghĩa vụ đạo đức không thể là sự ép buộc từ bên ngoài, mà g ắn bó chặt chẽ với ý thức của con người về lẽ sống, lý tưởng, h ạnh phúc…. Nh ững quan niệm đúng đắn giúp con người nhận thức được sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, thống nhất giữa hạnh phúc cá nhân và h ạnh phúc xã h ội. Đó là lý do làm cho ý thức nghĩa vụ đạo đức được nuôi dưỡng, củng cố phát triển trong môi trường của một nền giáo dục gia đình đầm ấm, xã hội lành mạnh mà ở đó tình th ương yêu, đoàn kết, sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau với những tình cảm chân thành đ ược duy trì và phát triển. Trong những điều kiện đó, con người được hưởng thụ một bầu không khí đạo đức trong sáng, cao quý và chan chứa tình người, mà bản thân h ọ cũng tr ưởng thành v ề đạo đức, yêu lao động, có lý tưởng, hoài bão, giàu cảm xúc, tin tưởng vào xã hội. Mất đi ý thức nghĩa vụ đạo đức cũng chính là đánh mất ý th ức v ề chính b ản thân mình, m ất đi ý nghĩa làm người của mình. Trong quan hệ xã hội, bao trùm lên tất cả và thấm sâu vào mọi quan h ệ xã hội là quan hệ đạo đức, mà đặc trưng là nghĩa vụ của con ng ười. Vì th ế, ý th ức nghĩa v ụ đ ạo đức được tất cả các thế hệ người trong xã hội vun đắp, gìn gi ữ, phát tri ển đ ể tr ở thành niềm tin, tình cảm thiêng liêng mà mỗi thế hệ người đều gìn giữ, kế th ừa, bổ sung và hoàn thiện. Ý thức nghĩa vụ đạo đức mang tính chất một tình cảm thiêng liêng cao c ả cấu thành nội dung cơ bản của bổn phận, của đạo làm người. Chính ý th ức nghĩa vụ đạo đức đã hun đúc lòng yêu nước, trung thành với tổ quốc, h ết lòng ph ục v ụ nhân dân; yêu thương, kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ và l ối s ống th ủy chung son s ắt trong đ ạo vợ chồng, tình nghĩa anh em, bầu bạn. Ý thức nghĩa vụ đạo đức là quá trình phát triển không ngừng cùng với s ự trưởng thành của xã hội và con người. Vì thế, việc hình thành ý th ức nghĩa v ụ ph ải là m ột quá trình tu dưỡng bền bỉ, rèn luyện không ngừng trong suốt cuộc đời của mỗi người. 4. Lương tâm: Lương tâm là tình cảm hoặc ý thức trách nhiệm đạo đức của mỗi người về hành vi của mình trong quan hệ xã hội; ý thức trách nhiệm đối với số phận của người khác và xã hội. Lương tâm đồng thời là sự tự phán xét về các hoạt động, hành vi của mình. Vì vậy, lương tâm không đơn thuần chỉ là tình cảm mà còn ch ứa đựng cả y ếu t ố ý th ức của con người. Nguồn gốc của lương tâm gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người qua quá trình từ thấp lên cao. Nếu chỉ vì sợ hoặc xấu hổ trước người khác mà hành đ ộng thì chưa phải là hành vi có lương tâm. Chỉ khi con người biết xấu h ổ với chính mình thì 15
  16. tình cảm lương tâm mới xuất hiện và khi đó con ng ười hành đ ộng hoàn toàn theo s ự t ự giác, tự do của tình cảm, lý trí bản thân mà không phụ thuộc vào nh ững tác động bên ngoài. Vì vậy, lương tâm là biểu hiện tập trung nhất của ý th ức đ ạo đ ức trong th ực tiễn, nó là dấu hiệu và thước đo sự trưởng thành của đời sống đạo đức cá nhân. D ưới hình thức tình cảm nội tâm, lương tâm luôn tồn tại như một minh ch ứng cho s ự hi ện diện của đời sống đạo đức cá nhân. Mỗi người, với tư cách là một ch ủ th ể đạo đức trưởng thành bao giờ cũng là người có lương tâm. Vì thế khái niệm “lương tâm”, “vô lương tâm” thường được dùng như sự khẳng định hay phủ định tình trạng có đạo đức hay vô đạo đức. Người có lương tâm sẽ có đủ nghị lực vượt qua khó khăn để đạt t ới những giá trị đích thực của cuộc sống; dù sống ở đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn giữ được nhân cách và rất giàu tình người. Lương tâm không phải là một cảm xúc hời hợt, nhất thời hoặc một phản ứng tự nhiên mang tính bản năng, mà đó là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc đối với những nhu cầu đạo đức xã hội. Sự hình thành cảm xúc lương tâm gắn li ền nh ận th ức về lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc của con người với ý thức nghĩa vụ đạo đức. Nghĩa vụ đạo đức và lương tâm luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nghĩa v ụ đạo đức là ý thức trách nhiệm trước xã hội và người khác, còn lương tâm là ý thức trách nhiệm trước bản thân mình. Có thể xem ý th ức nghĩa v ụ đ ạo đ ức là n ền t ảng, là c ơ s ở hình thành lương tâm con người. Lương tâm được biểu hiện ở hai trạng thái khẳng định và ph ủ đ ịnh. Tr ạng thái khẳng định là sự thư thái, là cảm giác trong sạch của lương tâm. Nó giúp nâng cao tính tích cực của con người, giúp con người tin tưởng vào bản thân, vào cu ộc s ống, thôi thúc con người vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp. Trạng thái phủ định là sự cắn rứt, sự không trong sạch của lương tâm. Nó gây cho con người cảm giác đau kh ổ, làm suy gi ảm ho ạt động tích cực của con người. Nhưng mặt khác sự cắn rứt lương tâm cũng giúp con người thức tỉnh, hối cải; giúp con người suy nghĩ lại và uốn nắn nh ững hành vi sai trái của mình để trở về con người đúng đắn, tiến bộ. Người có đạo đức bao giờ cũng đặt cho mình một “tòa án lương tâm” để tự giám sát mọi hành vi ứng xử của bản thân. Ân hận là sự trừng ph ạt c ủa l ương tâm; khi có l ỗi lầm mà lương tâm thức tỉnh thì sự ân h ận giúp con ng ười có thêm ngh ị l ực đ ể s ửa ch ữa sai lầm, khuyết điểm. 5. Thiện và ác: Thiện là lợi ích của con người phù hợp với lợi ích và s ự ti ến b ộ c ủa xã h ội. Thi ện cũng là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người, làm cho con người ngày càng sung sướng hơn, tư do, hạnh phúc, tiến bộ h ơn. Nó là bi ểu hi ện t ập trung nh ất, c ụ th ể và cao cả nhất của đời sống đạo đức xã h ội, gắn bó ch ặt ch ẽ v ới cái chân lý và cái t ốt đẹp. 16
  17. Đối lập với cái thiện là cái ác. Cái ác ch ống lại cái thi ện, gây nên n ỗi đau kh ổ cho con người, cản trở sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Đạo đức học macxit quan niệm thiện và ác của con người là một sản phẩm lịch sử. Vì thế, nội dung của nó không phải là một cái gì vĩnh viễn không thay đổi. Ngược lại, ở mỗi thời đại, từ những quan hệ kinh tế, xã hội và giai cấp, con ng ười l ại hình thành nên những quan niệm thiện – ác khác nhau, tương ứng với xã hội trong th ời kỳ đó. Trong một xã hội có giai cấp đối kháng thì những quan niệm về thi ện – ác cũng khác nhau thậm chí còn đối lập nhau. Mặt khác, nhiều khi trong đời s ống th ực ti ễn, cái ác còn được thể hiện ra như một tất yếu phải vượt qua trên con đường con người đi t ới cái thiện. Sống thiện là nét đặc trưng trong đời sống đạo đức của con người và xã h ội. Đ ề cao việc thiện, phê phán và chống lại cái ác sẽ làm cho con ng ười mang tính ng ười h ơn, làm nảy nở những tình cảm như lòng vị tha, nhân ái, quý trọng nhau; lo ại b ỏ thói ích k ỷ và những hành vi vô nhân đạo. Xã hội nào đề cao tính thiện thì nh ững bất công xã h ội cũng giảm đi, con người được sống tự do, hạnh phúc hơn. Sống thiện là phải luôn suy nghĩ, hành động tích cực vì lợi ích và ti ến b ộ xã h ội, đem lại hạnh phúc và làm giảm đi những đau khổ cho người khác và cho xã hội. Vì vậy, để có cái thiện thật sự thì phải giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công; xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ, bình đẳng. Nếu lòng tốt, tình thương người chỉ dừng lại ở ý thức tư tưởng thì chưa thể là thiện, điều quan trọng là nó phải được thể hiện bằng hành động trong cuộc sống hiện thực. Cái thiện còn là sự thống nhất giữa động cơ và kết qu ả, mục đích và ph ương ti ện. Thông thường, một hành vi có động cơ tốt sẽ dẫn đến kết qu ả t ốt, đó là thi ện; đ ộng c ơ xấu, kết quả xấu, đó là ác; động cơ tốt, kết quả xấu, không coi là ác; đ ộng c ơ x ấu, k ết quả tốt thì vẫn coi là ác. Mối quan hệ giữa mục đích và ph ương tiện cũng vậy. Đã là mục đích thiện thì không thể sử dụng những phương tiện ác, tàn bạo. Nhưng trong th ực tế, để đi tới cái thiện con người vẫn phải trải qua những hy sinh, m ất mát, ph ải tr ả giá bằng xương máu của hàng triệu người, vượt qua cái ác để giải phóng con người, hướng tới cái thiện cao cả, vĩ đại và đáng trân trọng nhất. ************************ 17
  18. Chương II: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO I. KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP Đạo đức nghề nghiệp là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chu ẩn m ực nh ằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong lao động ngh ề nghi ệp và quan hệ nghề nghiệp với xã hội, được biểu hiện trong ba mối quan h ệ: Với mình, với người (xã hội), với công việc mà phẩm chất cao nhất là lòng yêu nghề và yêu người. Những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp góp phần duy trì một trình độ chuyên môn cao nhằm hình thành nên ch ế độ làm vi ệc c ủa ng ười lao đ ộng và t ổ chức nghề nghiệp. Mặt khác, đạo đức nghề nghiệp giúp người lao động nhận thức rõ được các phẩm chất tốt của cá nhân đối với các chương trình và chính sách của tổ chức. Từ đó xác định thái độ, hành động phù hợp giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích c ủa tổ chức và xã hội. 18
  19. Ở nước ta từ khi Cách mạng Tháng tám thành công, ra đời Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì triết lý và những giá trị đạo đức nghề nghiệp cao nh ất là ph ục v ụ nhân dân. Do tính chất và tác động xã hội của báo chí rất l ớn; liên quan đ ến nhi ều ngh ề, ảnh hưởng đến nhiều người, nhiều lĩnh vực, lại luôn gắn với quyền lực, danh ti ếng, ch ịu nhiều áp lực nên đạo đức nghề nghiệp nhà báo cũng có những nét đặc thù và yêu cầu mang tính xã hội cao. II. NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN MÓNG XÂY DỰNG QUY CHUẨN ĐẠO Đ ỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO VIỆT NAM 1. Nguyên tắc về phẩm chất chính trị: Đây là nguyên tắc hàng đầu, vì làm báo là làm chính tr ị. Nhà báo trong ch ế đ ộ ta là những chiến sỹ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng, có vai trò đ ịnh h ướng t ư tưởng cho công chúng để tạo ra sự thống nhất và ổn định chính trị - xã h ội, góp ph ần xây và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy trước hết nhà báo phải nắm vững các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; có lập trường vững vàng, trung thành với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội; đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân. 2. Nguyên tắc về trình độ và năng lực chuyên môn: Đây là nguyên tắc nhằm đảm bảo cho nhà báo hoàn thành t ốt nhi ệm v ụ trong ho ạt động nghề nghiệp. Không ngừng phấn đấu học tập rèn luyện nâng cao trình đ ộ hi ểu biết, tích lũy kinh nghiệm, phát huy năng lực s ở trường và sáng t ạo trong ho ạt đ ộng nghề nghiệp là tiêu chuẩn đạo đức của nhà báo. 3. Nguyên tắc về đạo đức cá nhân: Đạo đức cá nhân là cơ sở để nhà báo xây dựng và phát huy đạo đức ngh ề nghiệp. Nhà báo không thể có đạo đức nghề nghiệp nếu chưa có những phẩm ch ất tối thi ểu của đạo đức làm người. Đó là biết sống có ích (cho bản thân, gia đình và xã h ội), có lòng thương người; biết kiềm chế bản năng thú tính, biết chống lại cái xấu, cái ác và không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để bổ sung những phẩm chất cá nhân khác như lòng nhân ái, yêu nước, hiếu thảo, trung thực, chân thành, chung th ủy, c ần, ki ệm, liêm chính, chí công vô tư v.v…. Những phẩm chất đó chính là nền tảng để xây dựng và nâng cao đạo đức nghề nghiệp của mỗi nhà báo. 4. Nguyên tắc về hiệu quả công việc: 19
  20. Kết quả công tác là thước đo phẩm chất đạo đức của nhà báo. Đ ặc bi ệt ph ải quan tâm đến hiệu quả xã hội của hoạt động nghề nghiệp và hiệu quả t ừ các tác ph ẩm báo chí do nhà báo sáng tạo ra. Không thể nói nhà báo có đạo đức, khi nhà báo không hoàn thành nhiệm vụ hoặc viết nhiều, làm nhiều mà các tác ph ẩm do nhà báo sáng t ạo ra không đem lại lợi ích gì cho xã hội, thậm chí cỏn gây hậu quả xấu cho xã hội. III. TỪ QUY ƯỚC ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LÀM BÁO VIỆT NAM Dựa trên những nguyên tắc nền móng trên đây, ngay từ đại hội l ần th ứ VI (3/1995) Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua 10 Quy ước Đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Na 1. Mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà báo hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực và hoàn cảnh nào cũng hướng về mục tiêu cao cả đó. 2. Báo chí thực hiện quyền thông tin của nhân dân. Nhà báo ph ải khách quan, trung thực, tôn trọng sự thật. Mọi thông tin đưa ra công luận ph ải ph ản ánh đúng b ản chất sự thật khách quan trong bối cảnh xã hội của nó, tuy ệt đ ối không đ ược xuyên tạc hoặc cường điệu sự việc, sự kiện. Nhà báo có trách nhi ệm cung c ấp cho công chúng hình ảnh chân thật, đúng bản chất về quá trình của sự kiện và tình huống được thông tin, thông qua đó hướng dẫn dư luận. 3. Báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu với đời sống xã h ội, là công c ụ văn hóa. Nhà báo tôn trọng và thực hiện tự do báo chí, ch ịu trách nhi ệm tr ước xã hội; trước nhân dân và tự do hành nghề trong khuôn kh ổ lu ật pháp. Nhà báo thực hiện đúng tôn chỉ của cơ quan báo chí; không vì bất kỳ s ức ép nào mà làm trái với mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam, đi ngược lợi ích đất nước. 4. Cùng với quyền tự do thông tin, thực hiện quyền trả lời và cải chính trên báo chí là một nguyên tắc cấu thành tự do dân chủ báo chí. Nhà báo có quyền kiên trì quan điểm và thông tin đúng đắn của mình, nhưng tôn trọng quy ền trả lời và quyền cải chính của công dân theo đúng luật pháp. 5. Nhà báo có nghĩa vụ bảo vệ nguồn tin và giữ bí mật do người khác cung c ấp, phù hợp với luật pháp. 6. Báo chí Việt Nam phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tôn trọng các n ền văn hóa khác và những giá trị tinh thần phổ biến của loài người; phấn đấu vì đại đoàn kết dân tộc, vì hòa bình, hữu nghị, hiểu biết giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới. 20
nguon tai.lieu . vn