Xem mẫu

  1. ts. đinh công sơn - ths. võ thị dương 117 ĐẠO ĐỨC KINH DOANH - TRONG QUAN HỆ VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ NHỮNG VIỆC CẦN LÀM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY TS. Đinh Công Sơn, ThS. Võ Thị Dương Học viên Tài chính, Đại học Kinh Tế – Kỹ Thuật TÓM TẮT Đạo đức kinh doanh là một thành tố cấu thành văn hóa kinh doanh. Trong các thành tố cấu thành đó, đạo đức kinh doanh là sự biểu hiện tập trung của văn hóa kinh doanh. Đạo đức kinh doanh có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh một cách tự giác, tự nguyện. Điều này rất cần cho người tiêu dùng và xã hội. Tuy nhiên, thời gian qua, với những vụ việc gian lận thương mại, làm hàng giả, hàng kém chất lượng, gây ô nhiễm môi trường, v.v. đã làm cho người tiêu dùng hết sức lo lắng và phẫn nộ. Dẫu biết rằng, kinh doanh là phải sinh lợi, nhưng không phải vì lợi mà người kinh doanh bất chấp tất cả. Người kinh doanh chân chính, trong hoạt động của mình luôn có ý thức trách nhiệm góp phần vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đội ngũ những người kinh doanh luôn có ý thức trách nhiệm như vậy, cần phải tạo điều kiện cho việc trau dồi, nâng cao đạo đức kinh doanh. Từ khóa: đạo đức; kinh doanh; văn hóa; người tiêu dùng; việc cần làm. V ăn hóa kinh doanh, hiểu một Trong sự phát triển xã hội, đạo đức ra đời cách đơn giản, là biểu hiện của rất sớm. Nó là một hình thái ý thức xã hội đặc sự gắn kết cái lợi với những giá biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, trị Chân – Thiện – Mỹ để tạo ra bản sắc kinh quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn doanh nhằm đem lại sự phát triển bền vững mực của xã hội, nhờ đó con người tự điều của các chủ thể kinh doanh. chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của cộng đồng và sự tiến bộ Văn hóa kinh doanh bao gồm: văn hóa của xã hội trong mối quan hệ giữa con người doanh nhân, triết lý kinh doanh, đạo đức với con người, giữa cá nhân với xã hội. kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh Đạo đức kinh doanh chính là đạo đức nói nghiệp. Trong đó đạo đức kinh doanh là biểu chung được vận dụng vào toàn bộ các hoạt hiện tập trung của văn hóa kinh doanh. Bởi động và quan hệ kinh doanh (sản xuất, buôn vì, mọi hoạt động của doanh nghiệp (từ tuyển bán và dịch vụ sao cho sinh lợi). Có thể định dụng, bổ nhiệm, đánh giá người lao động, nghĩa, đạo đức kinh doanh là một tập hợp các hoạt động quảng cáo, hoạt động kế toán – tài nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức có tác dụng chính, vấn đề bí mật thương mại, chất lượng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hàng hóa, bảo vệ môi trường…) đều gắn liền hành vi của các chủ thể kinh doanh một cách với đạo đức kinh doanh. tự giác, tự nguyện.
  2. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 118 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tuy nhiên, kinh doanh là hoạt động gắn và nuôi dưỡng sự vô trách nhiệm kiểu “sống liền với lợi ích kinh tế, do vậy sự thể hiện chết mặc bay” của một số doanh nhân kém trong ứng xử về đạo đức của nó không hoàn đạo đức. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng tâm toàn giống các hoạt động khác. Vấn đề đạo lý này để tuyên truyền, quảng cáo che đậy đức kinh doanh phải được đặt ra và giải quyết cho những chiêu: “xả hàng”, “giảm giá”, “quà trong mối quan hệ tương hỗ về lợi ích giữa tặng”, v.v. mà thực chất là bán hàng kém chất ba chủ thể chính của nền kinh tế thị trường: lượng, hàng “quá đát”. Khách hàng không người tiêu dùng - người kinh doanh/doanh những bị lừa dối mà việc sử dụng những sản nghiệp - nhà nước. Giữa ba chủ thể đó có mối phẩm kém chất lượng sễ rất nguy hiểm đối quan hệ với nhau và ảnh hưởng tới toàn bộ với sức khỏe người tiêu dùng và môi trường. quá trình kinh tế. Việc giải quyết đúng đắn Hiện tượng này những năm gần đây không lợi ích của các chủ thể trong mối quan hệ này thiếu trong nền kinh tế nước ta. Bởi vậy, cần có ý nghĩa quyết định đối với việc tồn tại hay chú trọng công tác giáo dục, nâng cao hiểu không tồn tại đạo đức kinh doanh. biết về thị trường cho người tiêu dùng, đảm Trong mối quan hệ trên, người tiêu dùng bảo người tiêu dùng luôn là nhà “thông thái”. giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là trung Đạo đức kinh doanh đòi hỏi khi nhà kinh tâm của thị trường, là người quyết định sự doanh thu được lợi nhuận, thì đồng thời cũng tồn tại của các doanh nghiệp, là “Thượng đế”. phải đưa lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thực Chúng ta đều biết, yếu tố quyết định đối với tiễn cuộc sống cho thấy, nhà doanh nghiệp sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là nào mà cả trong tư duy lẫn hành động đều lợi nhuận. Nhưng, lợi nhuận hoàn toàn phụ thực sự coi khách hàng là “Thượng đế”, thì thuộc vào sức mua của người tiêu dùng. Nếu nhà doanh nghiệp đó sẽ thành công. hàng hóa chất lượng kém, hình thức xấu, hay giá quá cao so với giá trị của nó thì người tiêu Các nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế dùng sẽ không mua, hoặc chỉ mua một lần vì cho thấy, luôn có sự tồn tại mối quan hệ chặt coi như “bị mắc lừa”. Người kinh doanh chỉ chẽ giữa hành vi có đạo đức của người kinh có thể kiếm được lợi nhuận lâu dài, bền vững doanh và sự hài lòng của người tiêu dùng. thông qua việc thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của Các hành vi vô đạo đức có thể làm suy giảm người tiêu dùng trên thị trường. Đó chính là lòng tin của người tiêu dùng và họ sẽ chuyển thể hiện sự kinh doanh có đạo đức. Bởi vậy, sang mua hàng của các thương hiệu khác. trước khi đưa hàng hóa ra thị trường, nhà kinh Ngược lại, hành vi có đạo đức có thể lôi cuốn doanh cần phải nghiêm túc xét xem liệu hàng người tiêu dùng đến với sản phẩm của công hóa có bán được không và có nên đem bán ty. Người tiêu dùng thường chỉ thích mua sản không, chứ không phải cứ có hàng là đem phẩm của các công ty có danh tiếng tốt, quan bán. Về phía mình, người tiêu dùng luôn đòi tâm đến khách hàng và xã hội. Người tiêu hỏi hàng hóa trên thị trường phải thỏa mãn dùng không ngần ngại nói rằng, họ ưu tiên các yêu cầu tốt, đẹp và rẻ. Thực tế cho thấy, những thương hiệu nào làm điều kiện nếu có một bộ phận không nhỏ người tiêu dung giá cả và chất lượng các thương hiệu như ít hiểu biết về hàng hóa mà mình mua để sử nhau. Các công ty có đạo đức luôn đối xử dụng, hoặc có tâm lý tham rẻ mà xem nhẹ công bằng với khách hàng và liên tục cải tiến yêu cầu về chất lượng hàng hóa. Đây chính là chất lượng sản phẩm cũng như cung cấp cho điều kiện, là đất sống của cách làm ăn “chụp khách hàng các thông tin dễ tiếp cận và dễ giật”, “lừa đảo”, “làm hàng nhái”; là lỗ hổng hiểu. Điều đó khiến họ có lợi thế cạnh tranh để những tiêu cực có thể phát sinh, tồn tại tốt hơn và giành được nhiều lợi nhuận hơn.
  3. ts. đinh công sơn - ths. võ thị dương 119 Người tiêu dùng là đối tượng dễ bị tổn như vậy, lợi ích doanh nghiệp có được sẽ tăng thương nhất vỡ việc khai thác và hoạt động gấp đôi, không chỉ tạo dựng một vị thế cạnh của các công ty không tôn trọng các quyền tranh vững chắc mà còn hướng tới một sự của con người. Sự công bằng trong dịch vụ phát triển toàn diện lâu dài. là quan điểm của người tiêu dùng về mức Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp xây độ công bằng trong hành vi của một công ty. dựng uy tín đảm bảo chất lượng cho sản phẩm Bởi vậy, khi nghe được thông tin tăng thêm như trên là chưa nhiều. Bên cạnh đó, không ít giá dịch vụ và không bảo hành thì người tiêu doanh nghiệp đánh lừa người tiêu dùng dưới dùng sẽ phản ứng tiêu cực đối với sự bất công nhãn mác đảm bảo chất lượng. Gần đây, các này. Phản ứng của người tiêu dùng đối với sự vụ việc tiêu cực về chất lượng sản phẩm thực bất công - ví dụ như phàn nàn hoặc từ chối phẩm ở Việt Nam đang xảy ra liên tiếp, đe không mua bán với doanh nghiệp đó nữa - có dọa sức khỏe người tiêu dùng. Nhiều doanh thể được thúc đẩy bởi nhu cầu trừng phạt và nghiệp cố tình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mong muốn hạn chế sự bất công trong tương kém chất lượng, như mũ bảo hiểm cho người lai. Nếu người tiêu dùng phải mua một mặt tham gia giao thông không hợp chuẩn (theo hàng đắt hơn hẳn thì cảm giác không công các phương tiện thông tin đại chúng, hiện nay bằng sẽ tăng lên và có thể bùng nổ thành một chỉ có 25% số người tham gia giao thông đội sự giận dữ. mũ hợp chuẩn); “kẹo bột đá”; sữa tươi tiệt Thực tế cho thấy, một bộ phận không trùng nhưng 78% là sữa bột; sữa siêu nghèo nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam luôn cố gắng đạm; nước tương có chứa chất 3-MCPD; hoàn thiện và phát triển chất lượng sản phẩm thực phẩm, hoa quả để cả tháng không hỏng của doanh nghiệp mình để thỏa mãn những vì được ngâm hóa chất; rau xanh đẹp vì vừa yêu cầu chính đáng của người tiêu dùng. Theo được phun thuốc trừ sâu; bánh chưng mau xu thế hiện nay, nhiều doanh nghiệp bắt đầu nhừ là nhờ luộc với pin; bánh cuốn, giò chả quan tâm đến một số hệ thống tiêu chuẩn có giòn, dai vì đã tẩm hàn the; nước giải khát = thể giúp cho hình ảnh của họ trong mắt người nước giếng khoan + hương liệu + phẩm màu tiêu dùng ngày một nâng cao và có uy tín + đường hóa học, v.v.. Việc tiêu thụ những vững chắc. Bên cạnh các tiêu chuẩn riêng biệt sản phẩm như vậy đa số không gây hại ngay về sản phẩm, hiện nay một số doanh nghiệp lập tức, mà có tác động từ từ và hậu quả sau đã áp dụng thành công các tiêu chuẩn quản này khó có thể tưởng tượng được. Đặc biệt lý, như ISO 9000, ISO 14000, ISO 18000, nguy hiểm là những sản phẩm sữa không đủ v.v.. Các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiêu chuẩn có thể đầu độc cả một thế hệ tương tiến và nhiều phương pháp, công cụ quản lý lai của đất nước. Điều này không chỉ đơn chất lượng hiện đại khác, như TQM, Q-base, thuần là sự vi phạm pháp luật kinh doanh, mà HACCP, GMP, 5S, QC, v.v. cũng được đưa còn là sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức vào áp dụng. Việc xây dựng và áp dụng hệ kinh doanh của doanh nghiệp và là một tội ác. thống quản lý tiêu chuẩn chất lượng đang trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh Trong kinh tế thị trường, giá cả hàng hóa nghiệp Việt Nam. Nó được coi như một giấy cũng là vấn đề rất được quan tâm. Nguyên thông hành giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn tắc đạo đức kinh doanh về giá cả hàng hóa khi xâm nhập vào thị trường, đặc biệt là các thường chỉ phụ thuộc vào tinh thần tự nguyện doanh nghiệp xuất khẩu cần phải đáp ứng yêu và tính thiện chí của doanh nghiệp đối với cầu về chất lượng hàng hóa của đối tác nước khách hàng. Hiện nay ở Việt Nam, văn bản ngoài. Khi áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn pháp luật có tính cưỡng chế cao nhất điều
  4. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 120 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chỉnh mối quan hệ này của doanh nghiệp là giảm. Đó là do giá cả trên thị trường thế giới Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giảm mạnh; các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 1999 và các nghị định hướng dẫn liên của Chính phủ đã phát huy tác dụng, trong đó quan. Ví dụ, điều 14 trong Pháp lệnh bảo vệ lãi suất ngân hàng đã giảm; nhu cầu và giá cả người tiêu dùng năm 1999 đã quy định rõ: nhiều mặt hàng, nhất là các hàng hóa vật tư Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng quan trọng, như xăng dầu, sắt thép, gạo đều hoá, dịch vụ có đăng ký kinh doanh phải đăng giảm, v.v.. Thế nhưng, thực tế giá cả các mặt ký, công bố tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, hàng thực phẩm, dịch vụ trong nước không dịch vụ theo quy định của pháp luật và thực những không giảm, mà còn gia tăng. Nhiều hiện đúng cam kết với người tiêu dùng; phải doanh nghiệp đã lợi dụng tình trạng bão lụt, thường xuyên kiểm tra về an toàn, chất lượng ngập úng, v.v. để tăng giá, hoặc chây ỳ không hàng hoá, dịch vụ, thực hiện việc cân, đong, chịu giảm giá. Nhu cầu sử dụng hàng hoá, đo, đếm chính xác. Chính phủ quy định cụ thể dịch vụ của người tiêu dùng luôn tồn tại, dù việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế có giảm trường hợp sản xuất, kinh doanh hàng hoá, nhưng chỉ ở mức độ nhất định chứ không thể dịch vụ không đăng ký, công bố tiêu chuẩn, giảm ở mức tối đa, nên những sản phẩm thiết chất lượng hàng hoá, dịch vụ. Điều 15: Tổ yếu thì ai cũng phải mua. Lợi dụng thực tế đó, chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, các nhà kinh doanh gồm cả người sản xuất và dịch vụ phải thông tin, quảng cáo chính xác người bán hàng đã làm giá để kiếm lời cao. và trung thực về hàng hoá, dịch vụ; niêm yết Đáng lo ngại là các nhà kinh doanh thậm chí giá hàng hoá, dịch vụ; công bố điều kiện, thời đã liên minh làm giá để trục lợi. Đây chính hạn, địa điểm bảo hành và hướng dẫn sử dụng là cơ sở hình thành “lợi ích nhóm” – vấn đề hàng hoá, dịch vụ của mình cho người tiêu mà Đảng và Nhà nước ta rất quan ngại và dùng. Điều 16: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kiên quyết đấu tranh phòng chống hiện nay. kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải giải quyết Những kẻ trong “nhóm lợi ích” không từ bất kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng kể thủ đoạn nào để thu lời bất chính. Họ sẵn về hàng hoá, dịch vụ của mình không đúng sàng lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã cho đối tác liên doanh, cho người tiêu dùng công bố hoặc hợp đồng đã giao kết; thực hiện và đất nước. Đáng ngại hơn, họ đang làm trách nhiệm bảo hành hàng hoá, dịch vụ đối giảm niềm tin và thiện cảm của bạn bè quốc với khách hàng. tế đối với dân tộc Việt Nam. Nói chung, do tính chất cạnh tranh ngày Cũng vì có sự liên minh trên mà không một tăng trong nền kinh tế thị trường mở cửa ít lần giá sữa bột dành cho trẻ em tăng liên của Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp tục, mặc dù người dân Việt Nam đang phải đều cố gắng cung cấp sản phẩm với mức giá đương đầu với cuộc khủng hoảng tài chính; hợp lý, giữ uy tín và thương hiệu với người bởi sữa cho trẻ là mặt hàng không thể thiếu tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn tồn tại việc ép giá với những gia đình có con nhỏ, cộng với tâm của một số doanh nghiệp và tập trung ở các lý người Việt Nam dù có tiết kiệm vẫn luôn doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng độc cố gắng dành những loại sữa tốt nhất cho con. quyền. Mặc dù tốc độ gia tăng lạm phát đã và Một ví dụ khác là việc giảm giá nhỏ giọt xăng đang chậm lại, song giá cả nhiều mặt hàng, dầu trong một thời gian dài vừa qua. Khi giá dịch vụ thiết yếu đối với người dân vẫn giữ xăng trên thế giới tăng thì doanh nghiệp luôn nguyên hoặc tăng cao hơn. Về nguyên tắc, có đòi hỏi phải tăng giá bán lẻ. Tăng thì luôn đột rất nhiều lý do giúp giá cả hàng hoá ở nước ta ngột và được thực hiện ngay lập tức; ngược
  5. ts. đinh công sơn - ths. võ thị dương 121 lại, khi giá xăng trên thế giới giảm thì doanh nhà kinh doanh "liên minh" làm giá và họ có nghiệp lại không giảm giá hoặc giảm nhỏ giọt đủ tiềm lực để thoả thuận trong khi nhu cầu với lý do bù lỗ. Liên quan tới giá xăng dầu là người tiêu dùng không thể giảm quá mức. Ở giá cước vận tải. Phải biết rằng, cước vận tải khía cạnh thứ hai, Nhà nước sẽ không cho nói chung và hành khách nói riêng, phụ thuộc phép các nhà kinh doanh vì siêu lợi nhuận vào giá xăng dầu. Khi giá xăng tăng, cước mà móc túi người tiêu dùng. Nhưng, một vận tải tăng, ngược lại, khi giá xăng giảm, mặt, các nhà kinh doanh tránh né sự điều tiết cước vận tải giảm. Thực tế những năm qua của Nhà nước với lý do quy luật thị trường tự cho thấy, khi giá xăng tăng thì doanh nhân điều chỉnh cung cầu. Mặt khác, việc các chế và doanh nghiệp vận tải luôn đòi hỏi phải tài còn chưa đủ mạnh cũng như các cơ quan tăng giá cước vận tải (số lần tăng và tiền tăng chức năng chưa kiên quyết điều tiết đã tạo “chóng mặt”). Nhưng nay, khi giá xăng giảm “cơ hội”cho họ vi phạm. Do đó, việc làm trái liên tục, thậm chí giảm sâu thì doanh nhân, đạo đức kinh doanh của các nhà kinh doanh doanh nghiệp vận tải không giảm giá hoặc vẫn ngang nhiên tồn tại. Trước tình trạng giá giảm nhỏ giọt với lí do có nhiều khoản… “chi cả tăng, cuộc sống của hầu hết những người phí”. Nhận xét về vấn đề này, nhiều nhà phân dân bình thường có thu nhập trung bình hoặc tích cho rằng đây là tình trạng lạm dụng độc thấp đều bị ảnh hưởng rất lớn. Ở nước ta, quyền doanh nghiệp để xâm phạm lợi ích xã những người như vậy lại chiếm đa số. Có thể hội, khi mà các doanh nghiệp vận tải cùng nói, trục lợi trên lưng người nghèo không chỉ liên minh giá. Rõ ràng điều này vi phạm các trái với đạo đức kinh doanh, mà còn là tội ác. nguyên tắc về đạo đức kinh doanh. Hay có Trong cơ chế thị trường, không phải lúc nào thể lấy một ví dụ khác cũng đang được đông cũng có sự can thiệp của Nhà nước. Nhưng đảo người tiêu dùng quan tâm là mặt hàng trong bối cảnh hiện nay, sự can thiệp của Nhà dược phẩm. Theo nhận định của các chuyên nước về giá cả với biện pháp mạnh là hết sức gia Cục Quản lý cạnh tranh thì các công ty cần thiết. Bởi lẽ, điều đó sẽ góp phần ngăn phân phối dược phẩm trong và ngoài nước chặn những tội ác trong kinh doanh nhằm đang cấu kết với nhau đẩy giá thuốc tại Việt đảm bảo sự hài hoà, ổn định của xã hội. Nam cao gấp 200%- 300% giá gốc. Trong hệ thống phân phối dược phẩm Việt Nam diễn ra Trong ba chủ thể chính của thị trường, Nhà một thực trạng là các đơn vị môi giới, nhập nước là người cầm lái đưa con thuyền kinh tế khẩu, v.v. đang liên kết với nhau để lách luật. đất nước đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, Thuốc trước khi nhập khẩu vào Việt Nam đã dân chủ, công bằng, văn minh”(1) mà Đảng được các nhà phân phối, công ty môi giới cấu ta luôn khẳng định. Nhà nước là người đại kết với văn phòng đại diện của công ty nước diện cho lợi ích xã hội, là người quyết định sự ngoài ấn định giá. Như vậy, rõ ràng, người thành công hay thất bại trong việc thực hiện tiêu dùng đang rất thiệt thòi khi phải chi trả số các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vì tiền gấp nhiều lần giá trị đích thực của lượng vậy, sự điều tiết của Nhà nước đối với nền dược phẩm mình mua. Giá cả hàng hoá, dịch kinh tế là không thể thiếu. Sự điều tiết, thông vụ mà các nhà kinh doanh làm giá không qua chủ trương, chính sách và luật lệ của Nhà đứng trên giá trị hàng hoá. nước có tác động tích cực hay tiêu cực đến Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó, mỗi trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ở khía biện pháp, mỗi chính sách trước khi ban hành cạnh thứ nhất, quy luật thị trường sẽ điều 1 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu chỉnh giá cả. Nhưng nguyên tắc mua bán theo toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - sự thật, thoả thuận đã không được tôn trọng khi các Hà Nội, 2011, tr35
  6. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 122 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần được phân tích và xây dựng trên luận cứ các doanh nghiệp đi vào con đường làm ăn khoa học chắc chắn, có tính đến mối quan hệ phi pháp, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Một chính kinh doanh, đối lập với lợi ích xã hội. Đồng sách đúng đắn sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt thời, người tiêu dùng cần phải trung thực để động của các doanh nghiệp và do đó, thúc tránh gây thiệt hại cho người sản xuất, buôn đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. bán, không nên tham rẻ để tránh tiếp tay cho Ngược lại, mộtchính sách không phù hợp bọn buôn lậu, trốn thuế, v.v.. sẽ dẫn đến những hậuquả khó lường. Trong Rõ ràng, để xây dựng và hoàn thiện đạo công cuộc đổi mới, những đường lối, chính đức kinh doanh không những cần đến sự nỗ sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã thúc lực của người kinh doanh, mà còn phải có sự đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. Nhờ hỗ trợ của những chủ thể khác của nền kinh vậy, chúng ta đã đạt được những thành tựu to tế thị trường, đặc biệt là của người tiêu dùng lớn trên lĩnh vực kinh tế từ khi chuyển sang – Thượng đế. Người tiêu dùng là mục đích cơ chế thị trường. Tuy nhiên, vẫn còn một số phục vụ cao cả của các doanh nghiệp. Họ là chính sách chưa thật hợp lý, hoặc chưa đầy nhân tố quyết định hàng đầu cho sự tồn tại đủ dẫn tới hạn chế hoạt động sản xuất, kinh và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Một sản doanh, như tình trạng thuế chồng thuế (một phẩm làm ra phải hướng tới mục đích phục vụ sản phẩm khi đưa ra được thị trường phải trải người tiêu dùng và mong muốn được người qua quá nhiều lần đánh thuế khác nhau trong tiêu dùng chấp nhận. Chính nhờ sự chấp nhận quá trình vận hành từ doanh nghiệp này đến của người tiêu dùng mà doanh nghiệp mới tồn doanh nghiệp khác, làm cho giá thành sản tại, làm ăn có lãi và phát triển. Ngược lại, khi phẩm cao), chưa có chính sách bảo hộ hàng người tiêu dùng quay lưng với sản phẩm hay nội địa một cách thật hiệu quả, luật bản quyền với doanh nghiệp nào đó thì cũng có nghĩa chưa thật chặt chẽ, v.v.. doanh nghiệp ấy cần phải kịp thời điều chỉnh theo hướng tích cực nếu không muốn đi tới Điều quan trọng hơn nữa là, Nhà nước sự phá sản. phải đóng vai trò đại biểu cho quyền lợi của người tiêu dùng trong xã hội. Nhà nước phải Tuy nhiên, người tiêu dùng cũng là những bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đảmbảo thành viên trong môi trường xã hội, chịu sự cho người tiêu dùng không bị “tiền mất tật tác động từ môi trường xã hội và nảy sinh mang”. Đặc biệt, Nhà nước cần quản lý chặt những nhu cầu tiêu dùng có thể tích cực hoặc chẽ thị trường, không để xảy ra tình trạng các tiêu cực, đúng hoặc sai, phù hợp hoặc không nhà kinh doanh lũng đoạn thị trường, không phù hợp, v.v.. Điều này cũng tác động không để cho họ đầu cơ, tích trữ gây khan hiếm hàng nhỏ tới việc sản xuất của doanh nghiệp. Sự hóa giả tạo, tùy tiện nâng giá hàng, “móc túi” tác động đó chỉ có thể làm cho doanh nghiệp người tiêu dùng một cách trắng trợn. biến đổi theo hai hướng, đó là tạo điều kiện làm ăn có lãi hoặc thua lỗ. Về phía mình, người tiêu dùng – trung tâm của thị trường – cũng cần phải thấy Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có những nhu cầu của mình phải chính đáng để thể lợi dụng những nhu cầu thái quá của thị có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh trường để trục lợi, làm giàu bất chính, theo tranh lành mạnh, đáp ứng được nhu cầu của kiểu “chụp giật”. mình, từ đó làm cho đời sống xã hội phát triển Để giảm thiểu những tiêu cực trong mối theo chiều hướng tốt đẹp. Ngược lại, những quan hệ giữa người tiêu dùng và nhà sản nhu cầu phi lý của người tiêu dùng có thể đẩy xuất,nên thường xuyên tổ chức các cuộc hội
  7. ts. đinh công sơn - ths. võ thị dương 123 thảo về đạo đức kinh doanh và quảng bá đạo sự phản ứng của một bộ phận không ít người đức kinh doanh. tiêu dùng tẩy chay, không mua sản phẩm Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước cần của Vedan. Lúc đó nhiều siêu thị không dám chú ý tạo điều kiện: bán hàng của Vedan nữa. Đó là một thiệt hại không nhỏ mà Vedan đã tự gây ra cho mình. - Phát huy vai trò của hiệp hội người tiêu dùng. Việc tạo ra dư luận xã hội đúng đắn là một trong những biện pháp quan trọng để - Trang bị cho người dân về kiến thức thị ngăn ngừa hành vi đi ngược lại lợi ích của trường để tránh bị “lừa”. cộng đồng, khuyến khích việc bảo vệ những - Tăng cường sự quản lý của Nhà nước giá trị chân chính. Để làm được điều đó, Nhà đối với hoạt động của doanh nghiệp. nước cần ngăn chặn những thủ đoạn tung tin đồn thất thiệt, đồng thời quản lý chặt chất Cần phải thấy rằng, sự tồn vong, phát lượng sản phẩm và kịp thời tôn vinh những triển của doanh nghiệp, của người kinh sản phẩm tốt, những doanh nghiệp luôn đặt doanh, suy cho cùng, chính là ở khách hàng. người tiêu dùng lên trên hết, biết tôn trọng lợi Vì vậy, người sản xuất, kinh doanh phải xác ích trước mắt và lợi ích lâu dài, kinh doanh định rõ thái độ phục vụ tất cả vì khách hàng. chân chính. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần Khách hàng là đối tượng cần chiếm lĩnh, phục tận dụng tối đa vai trò của các phương tiện vụ khách hàng phải đạt tới đỉnh cao là nghệ thông tin đại chúng, vì đây là hình thức hữu thuật chinh phục khách hàng. Chinh phục hiệu để hình thành và hướng dẫn dư luận xã khách hàng ở đây phải bằng chất lượng sản hội mang tính tích cực. Cũng thông qua kênh phẩm tốt, mẫu mã đẹp, giá cả rẻ, không gây này, quần chúng có thể bày tỏ tâm tư, nguyện độc hại cho người dùng và môi trường, đặc vọng, ý kiến, đề xuất của mình để góp phần biệt phải quan tâm tới việc chăm sóc khách hình thành các chuẩn mực và các định hướng, hàng chứ không phải trao tay là phủi trách giá trị đạo đức kinh doanh phù hợp với yêu nhiệm theo kiểu “sống chết mặc bay”, v.v.. cầu của các giai đoạn phát triển kinh tế đất Trong ngạn ngữ có câu: “tiếng lành đồn xa” nước. nhưng trong thực tế “tiếng dữ” cũng đồn xa. Chính vì vậy, một hành vi tốt, một sản phẩm Sức mạnh của dư luận xã hội là rất lớn. tốt sẽ được khách hàng ca ngợi, và vượt qua Nhiều trường hợp khi luật pháp không quy cả mong đợi của người kinh doanh, dư luận định chặt chẽ, và không thể buộc tội vi phạm xã hội sẽ “chắp cánh” cho sản phẩm bay cao, cho doanh nghiệp, nhưng chính luồng dư người người hưởng ứng và tuyên truyền nhau luận lại có sức mạnh khiến doanh nghiệp phải sử dụng sản phẩm đó, thương hiệu đó, doanh có hành động đền bù, hoặc có ý thức trách nghiệp đó, v v.. Ngược lại, với hành vi không nhiệm hơn. Để làm tốt điều này, Nhà nước chấp nhận được của người kinh doanh, của cần thường xuyên quan tâm việc phổ biến doanh nghiệp hay một sản phẩm không tốt sẽ thêm về kiến thức thị trường cho người dân, bị người tiêu dùng tránh xa và họ cũng tuyên để họ nhận thức được quyền lợi của mình truyền mọi người tẩy chay sản phẩm hay bằng cách thực hiện các chương trình truyền doanh nghiệp. Chúng ta còn nhớ khi Vedan thông, quảng cáo phi lợi nhuận. Đồng thời, xả thải độc xuống sông Thị Vải gây nguy hại Nhà nước nên quan tâm chỉ đạo các phương tới môi trường và cuộc sống của dân cư Đồng tiện thông tin đại chúng dành một thời lượng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu, TPHCM, v.v. nhất định quảng cáo miễn phí cho các mục đã có rất nhiều người căm phẫn và dấy lên tiêu công cộng.
  8. Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 124 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Để nâng cao tinh thần tự nguyện xây nhận sự vinh danh của xã hội. Thông qua đó, dựng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp càng Nhà nước cần kịp thời trao tặng các doanh được tăng thêm, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiệp điển hình các giải thưởng, cho phép việc phát triển các hoạt động sản xuất, kinh các doanh nghiệp làm ăn có lãi, thực hiện doanh. Nhận thức được điều này, các doanh tốt trách nhiệm xã hội, được khách hàng tín nhiệm, tích cực tham gia các công tác xã hội, nghiệp khác cũng sẽ cố gắng, tạo nên một v.v. được hưởng các chế độ ưu đãi. Đó là phong trào thi đua rộng rãi vì mục tiêu phát những doanh nghiệp thực sự xứng đáng được triển đất nước phồn thịnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2001 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2006 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011 4. Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên, “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003 5. Nguyễn Văn Phúc, “Khía cạnh đạo đức của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 1-1995 6. Nguyễn Văn Phúc, “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay” , Tạp chí Triết học số 11-2006 7. Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999
nguon tai.lieu . vn