- Trang Chủ
- Ngân hàng - Tín dụng
- Đánh giá việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam giai đoạn từ 2011 đến nay
Xem mẫu
- 52
ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ HẠN MỨC TÍN DỤNG TRONG
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 2011 ĐẾN NAY
Vũ Thị Kim Xuyến, K14 – NHTMI
Nguyễn Thị Thu Hương, K14 – NHTMK
Hạn mức tín dụng (HMTD) được định nghĩa là việc Ngân Hàng Trung Ương
(NHTW) quy định tổng mức dư nợ tối đa mà các tổ chức tín dụng (TCTD) buộc phải tuân
thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế 1. Trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng nóng, tín dụng
F
0
tăng trưởng quá nhanh những năm 2007 – 2008, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã sử
dụng nó như một trong những công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ (CSTT). Tuy
nhiên, HMTD lại là một công cụ trực tiếp và mang tính hành chính, nó tác động trực tiếp
đến lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, vì vậy, không thấy được hiệu quả của cơ chế
truyền tải, đồng thời, mang tính áp đặt và bó buộc cho các ngân hàng thương mại
(NHTM), làm giảm đi tính chủ động, cạnh tranh trong kinh doanh, làm giảm hiệu quả
phân bổ nguồn vốn, thậm chí, dễ dẫn đến những tiêu cực nằm ngoài tầm kiểm soát của
NHNN. Chính vì vậy, việc NHNN có nên sử dụng HMTD trong điều hành CSTT tại Việt
Nam hay không luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà điều hành thời
gian qua. Bài viết sẽ tập trung làm rõ thực trạng sử dụng công cụ HMTD của NHNN giai
đoạn 2011 – 2014, phân tích những hiệu quả và hạn chế mà công cụ này đem lại, từ đó
có những khuyến nghị trong việc sử dụng HMTD trong điều hành CSTT của NHNN.
1. Bối cảnh kinh tế từ năm 2011 đến nay
1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 với khởi đầu là chấn động mạnh trên thị
trường bất động sản và chứng khoán Mỹ đã dẫn đến một cuộc suy thoái kinh tế nặng nề
trên phạm vi toàn cầu. GDP năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD so với năm 2008, và là năm
đầu tiên GDP toàn cầu tăng trưởng âm trong vòng 20 năm trở lại. Tốc độ tăng trưởng
bình quân giảm từ 4,04%/năm giai đoạn 2001-2007 bị kéo xuống còn 3,2% tính chung
1
TheoThs. Đặng Thị Việt Đức - Ths. Phan Anh Tuấn
- 53
cho cả giai đoạn 2001-2010. Thời kì này, hầu hết các nước đều có tốc độ tăng trưởng thấp
hơn so với giai đoạn trước khủng hoảng. Đặc biệt, kinh tế Nhật Bản được xem là một
mảng tối trong nền kinh tế chung của thế giới với sự thiếu hiệu quả của chính sách kinh
tế Abenomics. Kế đến là sự trì trệ của khu vực Đồng tiền chung Châu Âu, hay sự cấm
vận của Mĩ với Nga liên quan đến vấn đề Crimea…. Điểm sáng kinh tế thời kì này phải
kể đến khu vực Châu Á, khu vực năng động nhất thế giới khi mà tốc độ tăng trưởng tuy
có giảm, nhưng vẫn ở mức cao (khoảng 6 – 8%).
Trước tình trạng đó, Mỹ đã tung ra các gói QE thông qua nghiệp vụ thị trường mở
với việc mua vào và hoán đổi kỳ hạn trái phiếu nhằm duy trì mức lãi suất siêu thấp 0-
0,25% để kích thích nền kinh tế. Cũng trong thời gian trên, vấn đề nợ công Châu Âu với
xuất phát điểm là Hy Lạp, sau đó là Cộng Hòa Síp, Tây Ban Nha….đã dẫn đến khủng
hoảng niềm tin, rồi sau đó là suy giảm kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao… Trước tình trạng
đó, hàng loạt các gói cứu trợ được tung ra kèm theo điều kiện thắt chặt chi tiêu đã giúp
các nước Châu Âu thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ. Tuy nhiên, nền kinh tế về tổng thể vẫn chưa
có nhiều khởi sắc.
Bước sang năm 2011, kinh tế Thế Giới đã cho thấy những dấu hiệu lạc quan về
phục hồi và phát triển, tuy nhiên vẫn còn lại nhiều hệ lụy tiêu cực. Trong đó, có ba vấn đề
chính nổi lên là: (i) rủi ro khủng hoảng nợ công; (ii) rủi ro rủi ro trở lại vòng luẩn quẩn
“thất nghiệp cao – tiêu dùng thấp – đầu tư ít – thất nghiệp cao”; (iii) rủi ro giảm sút sự
phối hợp chính sách phục hồi kinh tế các quốc gia 2. F
1
Cùng với đó là những tác động từ sự bất ổn về chính trị của nhiều nước trên thế
giới đã đẩy kinh tế Việt Nam đứng trước những khó khăn và thách thức không hề nhỏ.
Giai đoạn 2013-2014, lạm phát và thất nghiệp đã giảm thiểu một cách đáng kể, kinh tế
thế giới cũng đã có những dấu hiệu phục hồi tích cực, tạo cơ sở cho sự phục hồi nền kinh
tế Việt Nam.
1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước
2
Theo Hoàng Thị Tư, 2010. “Kinh tế Thế giới sau khủng hoảng, tình hình nợ công và tái cấu trúc nền kinh tế”.
- 54
Trước những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu năm 2008, kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2014 suy giảm đáng kể so với
giai đoạn từ đầu thập kỉ đến năm 2010 (trung bình 5.58% so với 7.25%).
Trước thực trạng đó, Chính phủ, cùng với các cơ quan chức năng, trong đó, đặc
biệt là NHNN đã thực hiện những giải pháp nhằm kích thích tăng trưởng, ổn định kinh tế
vĩ mô, ổn định tỷ giá và giá trị đồng tiền bằng các công cụ như lãi suất, tỷ giá, hạn mức
tín dụng hay nghiệp vụ thị trường mở,... Nhờ vậy, chỉ số lạm phát đã được kiểm soát ở
mức một con số. Trung bình giai đoạn 2011 – 2014, CPI hàng năm duy trì tương đối ổn
định ở mức 8.32% trong khi giai đoạn 2008 – 2010 là 13.01% (Hình 1.1).
Hình 1.1: Diễn biến tăng trưởng tín dụng, GDP và CPI của Việt Nam 2000-2014
Nguồn: IMF, Tổng cục thống kê
Cùng với việc ổn định giá trị đồng tiền thông qua chỉ số lạm phát, tăng trưởng tín
dụng nền kinh tế giai đoạn này cũng đã chững lại. Năm 2014, tăng trưởng tín dụng đạt
cao nhất so với các năm trong giai đoạn, nhưng cũng duy trì ở mức 12.62%, nếu so với
mức 51.39% năm 2007 (Hình 1.1). Tuy nhiên, cần nhìn nhận một điều là, tăng trưởng tín
dụng tuy giảm, nhưng không đồng nghĩa với việc suy giảm chất lượng do đã hạn chế
được những ảnh hưởng của việc tăng trưởng nóng, mở rộng tín dụng quá mức, tạo ra tình
trạng bong bóng như thời kì trước khủng hoảng.
Bên cạnh đó, tỷ giá được duy trì ổn định với những cam kết của NHNN đã tạo
điều kiện cho sự gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia cũng như tình trạng thặng dư cán cân
- 55
thương mại (Hình 1.2). Tất cả những yếu tố đó đã tạo thành điểm sáng trong kinh tế Việt
Nam thời kì phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.
Hình 1.2: Tỷ giá năm 2014 (VND/USD)
Nguồn: HSC
Thực trạng trên đã đặt ra những yêu cầu trong điều hành CSTT của NHNN trong
thời gian tới là cần tiếp tục ổn định lạm phát, tỷ giá, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế
vĩ mô, đưa đất nước bước thoát khỏi suy thoái.
2. Thực trạng sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền
tệ từ năm 2011 đến nay
2.1. Mục tiêu điều hành CSTT của NHNN
CSTT là một trong những chính sách quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó NHTW sử
dụng các công cụ, biện pháp nhằm đạt được những mục tiêu của mình, bao gồm mục tiêu
hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu cuối cùng của CSTT là mục tiêu dài hạn mà NHTW muốn đạt được
trong việc điều hành chính sách. Ở Việt Nam, giai đoạn 1997-2009, NHNN theo đuổi
CSTT đa mục tiêu như được thể hiện rõ trong luật NHNN 1997: “Chính sách tiền tệ quốc
gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân”. Tuy nhiên, việc điều hành CSTT
gặp rất nhiều khó khăn do các mục tiêu đều là dài hạn, khó định lượng, đặc biệt, tăng
trưởng kinh tế và lạm phát là hai mục tiêu khó có thể đạt được đồng thời trong ngắn hạn.
- 56
Từ năm 2010 trở đi, CSTT đã chuyển hướng sang điều hành đơn mục tiêu là “ổn định giá
trị đồng tiền bằng chỉ tiêu lạm phát” (luật NHNN 2010).
Mục tiêu trung gian mà NHNN lựa chọn nhằm đánh giá và kiểm soát việc thực
hiện CSTT là chỉ tiêu mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (M2) và chỉ tiêu tăng
trưởng tín dụng. Thực tế cho thấy hai chỉ tiêu trên đã có tác dụng phản ánh chính xác diễn
biến của tỷ lệ lạm phát.
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát, tăng trưởng cung tiền và tín dụng giai đoạn 2005-2014
Đơn vị %
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Lạm phát 8.4 6.6 12.6 19.9 6.5 11.8 18.13 6.81 6.04 1.85
Tăng trưởng 29.7 33.6 46.1 20.3 29.0 33.3 12.5 22.38 18.5 15.99
cung tiền (M2)
Tăng trưởng 31.7 25.4 53.9 25.4 39.6 32.4 14.5 8.9 12.5 12.6
dư nợ tín dụng
Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân Hàng Nhà Nước
Giai đoạn 2011-2014, trước những diễn biến bất lợi của kinh tế Thế giới và khó
khăn của nền kinh tế trong nước, NHNN đã sử dụng một cách chủ động, linh hoạt các
công cụ của CSTT nhằm đạt được mục tiêu của mình, trong đó có việc áp dụng trở lại rất
nhiều các công cụ trực tiếp sau một thời kỳ dài tự do hóa nhằm tác động nhanh, mạnh lên
nền kinh tế như HMTD, trần lãi suất huy động,… bên cạnh những công cụ gián tiếp
truyền thống như nghiệp vụ thị trường mở. Trong đó, HMTD được điều hành rất mạnh
mẽ và quyết liệt, thể hiện tham vọng của các nhà hoạch định chính sách trong việc bình
ổn kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
HMTD là công cụ mang tính áp đặt, hành chính của NHTW sử dụng để khống chế
mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống TCTD ra nền kinh tế, điều chỉnh khả năng tạo tiền
của các TCTD phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. HMTD thường được sử
dụng trong trường hợp lạm phát cao, trong khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu
quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển, do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến
động của lãi suất, hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến
- 57
động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống NHTM nhằm khống chế trực tiếp và nhanh
chóng lượng tín dụng cung ứng. Vì vậy, đây được xem là công cụ quan trọng trong điều
hành CSTT tại Việt Nam thời kì hậu khủng hoảng. Bài viết sẽ tập trung làm rõ quá trình
điều hành HMTD, hiệu quả và hạn chế của công cụ này đối với nền kinh tế nước ta giai
đoạn 2011 – 2014.
2.2. Thực trạng sử dụng HMTD trong điều hành CSTT tại Việt Nam
Giai đoạn 2004 - 2011, tỷ lệ lạm phát thực tế vượt xa so với định hướng điều hành
của Chính phủ do sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế. Mức độ chênh lệch lớn nhất là
khoảng thời gian 2007-2008 với cột mốc Việt Nam gia nhập WTO và đầu năm 2011, khi
tăng trưởng kinh tế giảm dần, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm lại, hàng loạt doanh
nghiệp phá sản, giải thế. Tỷ lệ thất nghiệp cao; tổng cầu yếu; tình trạng thâm hụt ngân
sách,… thực sự đã đặt ra bài toán khó cho NHNN trong việc đưa nền kinh tế chuyển sang
quỹ đạo tăng trưởng ổn định, bền vững.
Hình 2.1: Lạm phát: Mục tiêu và kết quả thực hiện giai đoạn 2004-2012
Nguồn: Ngân Hàng Nhà Nước
Năm 2011, mức lạm phát mục tiêu được đặt ra là dưới 7%, thấp hơn nhiều so với
mức bình quân của 3 năm trước đó (12.73%), cho thấy kỳ vọng lớn của Chính Phủ trong
việc nhanh chóng ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này gây áp lực rất lớn cho điều hành
CSTT. Vì vậy, NHNN đã buộc phải sử dụng các công cụ, biện pháp mang tính hành
chính, ngắn hạn, gây sốc cho nền kinh tế nhằm can thiệp nhanh, mạnh và kịp thời. Trong
đó, công cụ HMTD đã được sử dụng trở lại sau 13 năm bị NHNN dỡ bỏ, với những điểm
nhấn nổi bật sau:
- 58
HMTD được quy định theo từng năm
Hàng năm, NHNN đều ban hành các chỉ thị và Nghị quyết nhằm xác định mục
tiêu cũng như các biện pháp điều hành CSTT, và vì vậy, HMTD cũng được quy định theo
từng năm, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và thực trạng lạm phát của nền kinh tế. Cụ
thể:
Năm 2011, Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011 và Nghị quyết 11 ngày
24/2/2011 đặt mục tiêu kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20%, mức rất
thấp so với mức trung bình 32% của 10 năm trước đó. Tuy nhiên, kết quả thực hiện cả
nền kinh tế chỉ đạt 12%, thấp hơn nhiều so với kế hoạch đặt ra. HMTD đối với lĩnh vực
phi sản suất được nghiêm túc thực hiện.
Năm 2012, mục tiêu TTTD được đặt ra là 15-17% và tiến hành phân nhóm giao
chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các NHTM nhằm đảm bảo mức tăng trưởng chung của
nền kinh tế. Kết thúc năm 2012, TTTD thực tế chỉ đạt 8.91%, nguyên nhân là so tổng cầu
thấp, nền kinh tế không hấp thụ được tín dụng, do đó công cụ HMTD không phát huy
được hiệu quả.
Bước sang năm 2013, nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
HMTD được giảm xuống không quá 12%. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng thực tế cả
năm 2013 chỉ đạt 5.03%, thấp hơn rất nhiều hạn mức đã đặt ra. Như vậy, trong vòng 3
năm, từ năm 2011 đến 2013, việc áp dụng HMTD tỏ ra không phát huy được tác dụng do
không phù hợp với sức khỏe của nền kinh tế.
Năm 2014, tăng trưởng tín dụng hoàn thành kế hoạch đặt ra 12-14% với mức
12.62%. Tăng trưởng tín dụng tăng mạnh thể hiện sự tăng lên của tổng cầu và sự chỉ đạo
đúng hướng của NHNN.
Đến năm 2015, NHNN vẫn tiếp tục sử dụng HMTD với định hướng tăng trưởng
tín dụng trong khoảng 13-15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế.
Tín dụng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên
Nhằm hạn chế tăng trưởng tín dụng ồ ạt, đặc biệt vào các lĩnh vực phi sản xuất
như giai đoạn 2006 – 2010, từ 2012 đến nay, NHNN đã yêu cầu các TCTD thực hiện
chuyển hướng tập trung cơ cấu tín dụng và tiến hành cho vay với lãi suất ưu đãi đối với
- 59
các lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ
trợ, DNVVN, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Ngoài ra, các ngân hàng cũng đã
triển khai nhiều chương trình tín dụng với lãi suất ưu đãi, như chương trình kết nối ngân
hàng – doanh nghiệp, chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp,
nông thôn, cho vay phát triển nhà ở xã hội…. Đây là những lĩnh vực quan trọng, tạo động
lực lớn, bền vững cho sự phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, trong năm 2011, NHNN thắt chặt tín dụng đối với lĩnh vực phi sản
xuất, như: bất động sản, chứng khoán, vay tiêu dùng khác... đến ngày 31/12/2011 còn tối
đa 16%. Đây là một quyết định rất đúng đắn nhằm hạn chế dòng vốn vào khu vực phi sản
xuất không hiệu quả, mức độ rủi ro cao, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn vĩ mô cho nền kinh tế.
HMTD được quy định cho các NHTM theo từng nhóm
Một trong những cách sử dụng HMTD của NHNN là áp mức tăng trưởng theo
từng nhóm ngân hàng. Từ năm 2012 đến nay, hàng năm, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng
tín dụng toàn hệ thống, sau đó kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng thông qua phân
nhóm các TCTD và theo đó giao chỉ tiêu tăng trưởng sao cho phù hợp với mức tăng
trưởng toàn ngành. Việc đánh giá phân loại dựa trên các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ,
tài sản có, quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực
và tuân thủ các quy định. Theo đó, các TCTD được chia thành 4 nhóm, 1,2,3,4, tương
ứng với các mức tăng trưởng tín dụng tối đa 17%, 15%, 8% và không tăng trưởng. Tuy
nhiên, các giới hạn tăng trưởng này không hoàn toàn cứng nhắc, NHNN có thể xem xét
nới rộng room tín dụng nếu các NHTM thực sự có nhu cầu, khả năng và phù hợp với diễn
biến tiền tệ, tín dụng. Thực tế đã có một số ngân hàng được chấp nhận mức tăng trưởng
tín dụng tối đa lên tới 17-30%, thể hiện mức độ linh hoạt nhất định của chính sách.
Việc giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD thay vì việc cào bằng cho
toàn ngành trước đó đã giúp các TCTD có định hướng rõ ràng trong hoạt động của mình.
Việc điều hành của NHNN cũng theo đó được thực hiện nghiêm túc và nhất quán, nâng
cao hiệu quả cơ chế giám sát, kiểm tra rất chặt chẽ, tránh để các NH bắt tay nhau, lách
luật, dưới nhiều hình thức gây rối loạn hệ thống, đảm bảo tuân thủ hạn mức tín dụng đã
cấp.
- 60
Bên cạnh đó, việc giao chỉ tiêu tín dụng có thể xem như một quá trình đánh giá,
sàng lọc trong hệ thống TCTD, phân cấp các TCTD để tiến hành tái cơ cấu hệ thống
TCTD hiệu quả. Nhóm 1 gồm các TCTD tương đối lành mạnh, ổn định, hiệu quả, trong
khi nhóm 2 và 3 ở mức độ tương đối thấp hơn và nhóm 4 là các TCTD yếu kém, cần phải
cơ cấu lại. Do vậy, cần khuyến khích mở rộng tín dụng đối với những TCTD lành mạnh,
trong khi những TCTD yếu kém hơn do không được tăng trưởng tín dụng nên phải tập
trung giải quyết các khoản nợ trước đó, thu hồi nợ, giảm tỷ lệ nợ xấu, nâng cao chất
lượng tín dụng thì mới có thể tiến hành cho vay mới. Điều này khuyến khích các NHTM
định hướng kinh doanh, thận trọng trong quy trình tín dụng và tạo động lực cho các
NHTM nâng hạng.
Hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ
Các chính sách quản lý ngoại hối rất quan trọng trong việc ổn định hóa môi trường
vĩ mô, lành mạnh hóa hệ thống tiền tệ ngân hàng, thực hiện các mục tiêu của CSTT.
Chính sách tín dụng ngoại tệ cũng cần phải tiếp tục được điều chỉnh theo hướng hạn chế
khoảng cách lợi ích của tín dụng ngoại tệ với tín dụng VND, xem đây là một trong hệ
thống các giải pháp xử lý vấn đề đô la hóa nền kinh tế.
Tín dụng ngoại tệ giúp thúc đẩy tăng trưởng của thương mại và tài chính quốc tế,
giúp cho vốn di chuyển một cách dễ dàng giữa các quốc gia, góp phần thúc đẩy quá trình
hội nhập và quốc tế hóa của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc sử dụng một lượng lớn ngoại tệ
trong hoạt động tín dụng đồng thời gây trở ngại trong điều hành CSTT như: tăng tình
trạng Đô-la hóa, tăng áp lực và chi phí can thiệp của NHNN, tăng rủi ro (rủi ro ngoại hối)
đối với doanh nghiệp và ngân hàng, thị trường chợ đen…
Chính vì vậy, nhằm hạn chế những tác động tiêu cực từ việc tăng trưởng quá mạnh
tín dụng ngoại tệ, năm 2010, NHNN đã thực hiện thắt chặt quy định về tín dụng ngoại tệ
ở Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 6/4/2010. Nghị quyết quy định rõ: (i) số dư nợ cho vay
bằng ngoại tệ thấp hơn số dư vốn huy động bằng ngoại tệ từ các tổ chức kinh tế và dân
cư, đảm bảo khả năng an toàn thanh toán; (ii) Kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụng, thời
hạn cho vay tương ứng với thời hạn huy động vốn bằng ngoại tệ, không để xảy rủi ro kỳ
hạn và thanh khoản; (iii) các biện pháp đảm bảo khả năng thu hồi nợ bằng ngoại tệ từ
- 61
nguồn thu xuất khẩu; (iv) đảm bảo khả năng thu hồi nợ bằng ngoại tệ (v) Thực hiện đúng
theo chỉ đạo của NHNN; (vi) Đầu tư, nâng cấp công nghệ quản trị kinh doanh (Core
Banking) để quản trị có hiệu quả kỳ hạn, lãi suất, tỷ giá và thanh khoản bằng ngoại tệ.
Cùng với đó, NHNN thực hiện tăng dự trữ bắt buộc và giảm lãi suất huy động
USD nhằm hạn chế nhu cầu vay ngoại tệ của nền kinh tế.
Nhờ vậy, tín dụng bằng ngoại tệ thời gian qua đã giảm đáng kể nếu đặt trong mối
tương quan với tín dụng nội tệ (Hình 2.2, 2.3)
Hình 2.2: Tăng trưởng tín dụng Hình 2.3: Tăng trưởng tín dụng
nội tệ NHTM và toàn ngành ngoại tệ NHTM và toàn ngành
giai đoạn 2011 – Q2/2014 giai đoạn 2011 – Q2/2014
Nguồn: NHNN Nguồn: NHNN
Ngoại trừ năm 2014, tín dụng ngoại tệ lại tăng mạnh trở lại do xuất phát từ thực tế
lãi suất vay ngoại tệ (USD) chỉ bằng ½ lãi suất vay nội tệ trong khi doanh nghiệp có kỳ
vọng về tỷ giá được duy trì ổn định nhờ sự ổn định của các yếu tố vĩ mô và cam kết từ
phía NHNN. Ngoài ra, đối tượng được vay tín dụng ngoại tệ theo quy định tại Thông tư
29/2013/TT-NHNN ngày 6/12/2013 được mở rộng hơn so với quy định tại Thông tư
25/2009/TT-NHNN, bao gồm cả cho vay để nhập khẩu xăng dầu và đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Như vậy, khi lãi suất VND giảm nhanh và cân bằng với lãi suất USD cộng
với phần bù rủi ro tỷ giá thì tình hình tăng trưởng tín dụng ngoại tệ có thể sẽ trầm lắng
hơn.
- 62
Tín dụng tăng mạnh vào cuối năm
Với HMTD đặt ra từ đầu năm, mặc dù kết quả tăng trưởng tín dụng thường xoay
quanh mức mục tiêu đề ra nhưng thực tiễn cho thấy trong các năm 2012, 2013, 2014 tín
dụng thường tăng trưởng rất khó khăn trong giai đoạn đầu năm 3 (thường xuyên tăngF
2
trưởng âm) và chỉ tăng trở lại từ quý thứ 2, trong khi tăng mạnh vào thời điểm quý thứ 4
(Hình 2.4)
Hình 2.4: Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống giai đoạn 2012 – 2014 (%)
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Trong khi tăng trưởng tín dụng nền kinh tế tăng mạnh vào cuối năm thì tăng
trưởng tín dụng khu vực Chính phủ lại tăng khá tốt trong giai đoạn đầu năm và có tốc độ
tăng trưởng tương đối ổn định trong cả năm, cho thấy nguyên nhân không phải xuất phát
từ việc thiếu hụt vốn của TCTD. Điều này làm gia tăng quan ngại về thực trạng các
TCTD tăng trưởng tín dụng ảo vào cuối năm để đón trước chính sách giao chỉ tiêu tăng
trưởng tín dụng của NHNN.
2.3. Kết quả điều hành CSTT
2.3.1. Những mặt tích cực
3
Đơn cử như trường hợp của Ngân hàng Công thương (tính tới thời điểm 20/03/2014) tín dụng giảm 25,8% so với
cuối năm trước, Ngân hàng Phát triển thành phố Hồ Chí Minh giảm 10,9%, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn giảm 6,2%… Tỷ lệ này của năm 2013 là Ngân hàng Công thương giảm 11,8%, Ngân hàng Ngoại thương
giảm 5,4%, Ngân hàng Xuất nhập khẩu giảm 4,6%.
- 63
Việc sử dụng HMTD trong điều hành CSTT trong thời gian qua thực sự đã đem lại
những kết quả đáng kể:
Thứ nhất, giúp đạt được mục tiêu cuối cùng trong điều hành CSTT là ổn định giá
trị đồng tiền thông qua chỉ tiêu lạm phát đề ra, giúp bình ổn kinh tế vĩ mô, tác động mạnh
mẽ và có hiệu quả trong công cuộc tái cơ cấu ngành ngân hàng, sáp nhập các ngân hàng
yếu kém, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng.
Thứ hai, giúp các NHTM tập trung phấn đấu nâng cao hiệu quả đầu tư, phân bổ
vốn tín dụng của nền kinh tế, chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, tập
trung nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất và các lĩnh vực ưu tiên- động lực cho sự phát
triển bền vững của đất nước. Trước năm 2011, đặc biệt là giai đoạn 2007-2008, tín dụng
tăng chóng mặt ở mức 40%, thậm chí 50% đã bơm một lượng vốn khổng lồ ra nền kinh tế
trong điều kiện năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng còn hạn chế đã khuyến khích
hành vi chấp nhận rủi ro, cho vay ồ ạt, đặc biệt là trong lĩnh vực chứng khoán và bất động
sản, do vậy tích tụ bất ổn kinh tế vĩ mô như nợ xấu, sở hữu chéo… làm méo mó hoạt
động ngân hàng, thanh khoản khó khăn, là nguyên nhân sâu sa dẫn đến khủng hoảng.
Thứ ba, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động vốn,
góp phần cải thiện tình hình thanh khoản của từng ngân hàng, ngăn chặn tình trạng chạy
đua lãi suất, góp phần ổn định tiền tệ, giảm áp lực lạm phát. Đây là sự điều chỉnh đúng
hướng, phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giúp
ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, giám sát hoạt động huy động - cho vay ngoại tệ, từng bước hạn chế và
chấm dứt tín dụng ngoại tệ, giúp hạn chế tình trạng đô la hóa, giảm áp lực lên tỷ giá và
lạm phát.
Thứ năm, nâng cao vai trò quản lý, giám sát của NHNN trong hoạch định, thực
thi CSTT linh hoạt, theo sát biến động thị trường trong nước và trên Thế giới.
2.3.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những điểm tích cực mà HMTD mang lại, việc sử dụng HMTD trong
điều hành CSTT cũng phải đối mặt với không ít những hạn chế, đó là:
- 64
Thứ nhất, thời điểm sử dụng HMTD chưa thực sự phù hợp. Năm 2011 kinh tế
đang trong giai đoạn khó khăn, việc cắt giảm cung tiền và cung tín dụng đột ngột có phần
kìm hãm sự tăng trưởng và gây ra nhiều hệ quả tiêu cực. Minh chứng là dư nợ tín dụng
tăng trưởng 14%, bằng 70% mục tiêu đề ra; bước sang năm 2012, lạm phát giảm, tổng
phương tiện thanh toán tăng xấp xỉ 22% so với cuối năm 2011, tổng dư nợ cho vay nền
kinh tế cũng tăng rất thấp, chỉ đạt hơn 30% mục tiêu đề ra do tổng cầu suy giảm, nền kinh
tế không hấp thụ được tín dụng. Mục tiêu giới hạn HMTD do đó không thực sự cần thiết,
ngược lại các NHTM nên được giao quyền chủ động cho vay dựa trên khả năng huy động
vốn, xử lý nợ xấu, hay mục tiêu quản trị của mình.
Thứ hai, chưa xây dựng được bộ tiêu chí phân loại các TCTD và phương pháp
tính toán các tiêu chí phân loại để làm căn cứ phân bổ HMTD cho từng ngân hàng. Năm
2012, NHNN phân chia các TCTD thành 4 nhóm tăng trưởng tín dụng, tuy nhiên không
công khai các tiêu chí, phương pháp và bảng xếp hạng được sử dụng, do đó không có tính
thuyết phục đối với các TCTD và có hiện tượng nhiều ngân hàng phải kiến nghị và xin
nới rộng HMTD như trường hợp của MB hay VCB thời gian qua.
Thứ ba, việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng dẫn đến một số tác động tiêu cực.
Không thể phủ nhận những hiệu quả tích cực mà công cụ HMTD đem lại trong việc ổn
định kinh tế vĩ mô, ổn định tỷ giá và kiểm soát lạm phát, song trong bối cảnh mà thị
trường đang hướng đến sự hoàn hảo, tính cạnh tranh lành mạnh được khuyến khích thì
việc sử dụng HMTD lại tỏ ra không phù hợp. Bởi lẽ: (i) HMTD có thể làm cho lãi suất
tăng lên khi cung vốn bị giới hạn, không thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế; (ii) HMTD
có thể làm sai lệch cơ cấu vốn đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế;
(iii) HMTD có thể kìm hãm sự phát triển của các ngân hàng tốt, làm giảm tính cạnh tranh
giữa các NHTM trong trường hợp thị trường tiền tệ hoạt động đúng theo quy luật; (iv)
HMTD có thể khiến các TCTD vi phạm quy định do lách luật để tăng trưởng tín dụng
cao hơn mức cho phép. Việc kéo dài thời gian áp dụng HMTD có thể làm méo mó sự
phát triển của thị trường tiền tệ, tín dụng và ảnh hưởng tiêu cực tới cả nền kinh tế.
3. Một số khuyến nghị về sử dụng hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách
tiền tệ tại Việt Nam
- 65
Sử dụng HMTD trong điều hành CSTT là một việc không hề đơn giản, bởi NHNN
vừa phải đảm bảo sao cho nó phù hợp với thực trạng tăng trưởng tín dụng của nền kinh
tế, không làm triệt tiêu động lực tăng trưởng, vừa phải đảm bảo các hạn mức phù hợp với
tình trạng của mỗi NHTM, lại vừa phải cân đối tác động với những công cụ khác. Do đó,
liên quan đến sử dụng HMTD trong thời gian tới, NHNN cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, sử dụng HMTD một cách linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường
và khả năng tăng trưởng của các NHTM. Áp HMTD vào các thời điểm thích hợp khi tín
dụng tăng trưởng quá nóng, cầu ảo tăng mạnh. Ngược lại, trong bối cảnh tổng cầu yếu,
tăng trưởng kinh tế khó khăn thì nên hạn chế sử dụng công cụ này.
Thứ hai, xây dựng bộ tiêu chí phân loại và phương pháp tính toán làm căn cứ
phân bổ HMTD cho từng ngân hàng. NHNN cần xây dựng rõ ràng, khoa học và công
khai các tiêu chí và và phương pháp đánh giá, xếp hạng tín nhiệm các TCTD, hạn chế
tình trạng không đánh giá đúng năng lực của từng ngân hàng.
Thứ ba, phối hợp nhuần nhuyễn công cụ HMTD với các công cụ khác, đồng thời
đẩy mạnh việc sử dụng các công cụ gián tiếp, giảm dần việc sử dụng các công cụ trực
tiếp, mang tính hành chính, phù hợp với mục tiêu và hiệu quả truyền tải CSTT. Theo đó
NHNN nên điều hành CSTT theo hướng:
- Kiểm soát đầy đủ các hình thức của tín dụng ngân hàng, đặc biệt là các loại hình
phái sinh tín dụng nhằm đảm bảo sự kiểm soát về tăng trưởng cũng như tính hiệu quả của
việc truyền dẫn CSTT qua kênh tín dụng.
- Trong quá trình mở rộng tín dụng, nguyên tắc đảm bảo chất lượng tín dụng vẫn
cần được ưu tiên nhằm tránh nợ xấu phát sinh. Sử dụng HMTD như là một công cụ kiểm
soát lạm phát và bong bóng thị trường, tránh việc kìm hãm tăng trưởng trong trường hợp
thị trường cần vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh.
- Dựa trên cơ sở về dự báo lạm phát để điều chỉnh các mức lãi suất điều hành cho
phù hợp, đảm bảo hỗ trợ cho nền kinh tế và duy trì trật tự thị trường.
- Kết hợp giữa lãi suất điều hành và mua bán giấy tờ có giá, điều tiết lãi suất và hỗ
trợ thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng, từ đó, tác động tới lãi suất đầu ra cho nền
kinh tế, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- 66
- Duy trì sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, đóng góp vào mục tiêu
kiểm soát lạm phát, tránh tạo cú sốc bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô
Thứ tư, hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao hiệu quả cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
theo đó NHNN điều hành theo hướng:
- Minh bạch hóa trong vấn đề công bố thông tin tài chính, thực hiện nghiêm túc
các chuẩn mực kế toán và báo cáo. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một thực tế là hiện
nay, chuẩn mực kế toán Việt Nam còn nhiều khác biệt với các chuẩn mực kế toán thế
giới. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến độ tin cậy của các báo cáo và xếp hạng tín
nhiệm của các NHTM. Do đó, muốn minh bạch hóa thông tin, trước hết, NHNN cần
nghiên cứu ban hành bộ chuẩn mực kế toán, kiểm toán mới tiến sát với điều kiện thế giới,
đồng thời, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
- Đầu tư ứng dụng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phép dự báo những rủi ro tiềm ẩn
đối với sự an toàn hệ thống. Nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát các
TCTD.
- Đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc để lành mạnh hóa các TCTD.
- Phối hợp cùng các bộ, ban ngành khác thực hiện các giải pháp nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động một cách nhịp nhàng theo đúng quy
luật vốn có của nó.
Có thể thấy, trong bối cảnh tài chính, tiền tệ có nhiều biến động và cơ sở hạ tầng
cho việc áp dụng các công cụ gián tiếp của CSTT chưa thực sự hoàn thiện thì việc sử
dụng công cụ trực tiếp, mà tiêu biểu là HMTD là một giải pháp hiệu quả. Song, về mặt
bản chất, công cụ mang tính hành chính, áp đặt này vốn tồn tại rất nhiều hạn chế, nó
không những làm giảm tính cạnh tranh của các NHTM, mà còn kìm hãm sự phát triển
của thị trường. Chính vì vậy,thời gian tới, NHNN cần xây dựng một lộ trình nhằm giảm
thiểu việc sử dụng HMTD, tiến tới loại bỏ chúng, thay vào đó là sử dụng các công cụ
gián tiếp trong việc thực hiện các mục tiêu của CSTT quốc gia.
- 67
Tài liệu tham khảo
1. Hà Thành, 2015. Chưa phải lúc bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng.
http://thoibaonganhang.vn/
2. NGND., PGS., TS Tô Ngọc Hưng, 2012, Tăng trưởng tín dụng năm 2012 và một số
khuyến nghị chính sách cho năm 2013
3. Ths. Chu Khánh Lân, 2013. Nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn chính sách tiền
tệ qua kênh tín dụng tại Việt Nam. Bài đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 5, tháng
3/2013.
4. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, 2015. Chính sách tiền tệ năm 2014 và những vấn đề
đặt ra trong năm 2015. Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 1 – 2015.
5. TS. Nguyễn Văn Hà, 2013. Khống chế hạn mức tín dụng: Nên hay không?
http://kinhtevadubao.vn/
nguon tai.lieu . vn