Xem mẫu
- Đánh giá tác động môi
trường của dự án kèm theo
hồ sơ về dự án
1
- MỤC LỤC
I. Mở đầu........................................................................................................ 3
1. Lí do chọn đề tài:........................................................................................ 3
2. Mục đích nghiên cứu: ................................................................................. 4
II. Vận dụng bảng hỏi trong phương pháp định giá ngẫu nhiên – CVM: ........ 4
1.Phương pháp CVM: .................................................................................... 4
2.Vận dụng bảng hỏi trong nghiên cứu CVM: ................................................ 8
Câu hỏi tâm lí: .............................................................................................. 13
Câu hỏi lọc: .................................................................................................. 14
Câu hỏi kiểm tra: .......................................................................................... 15
Câu hỏi đóng: ............................................................................................... 16
Câu hỏi mở:.................................................................................................. 19
Câu hỏi hỗn hợp (câu hỏi nửa đóng) ............................................................. 20
Về hình thức:................................................................................................ 21
Về nội dung: ................................................................................................. 22
3. Vận dụng bảng hỏi trong định giá giá trị phi sử dụng của vườn quốc gia Ba
Bể - Bắc Kạn: ............................................................................................... 29
Về nội dung: ................................................................................................. 31
III. Kết luận: ................................................................................................. 33
Tài liệu tham khảo:....................................................................................... 34
2
- I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài:
Ngày nay, khi mà mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở tăng
trưởng kinh tế mà hướng tới phát triển bền vững thì vấn đề bảo vệ môi
trường được đặt lên ngang hàng với tăng trưởng. Dù ở tầm vĩ mô như
chiến lược, chính sách phát triển kinh tế hay ở tầm vi mô như dự án đầu tư,
dự án kinh doanh thì việc cân nhắc và đánh giá ảnh hưởng, tác động của nó
đến môi trường đều là cần thiết và vô cùng quan trọng. Những dự án chỉ
hướng tới lợi ích kinh tế mà bỏ qua các tác động môi trường không đem lại
sự phát triển bền vững và lâu dài cho địa phương và quốc gia. Chính vì vậy,
hiện nay, tại nhiều quốc gia trên thế giới đã có quy định bắt buộc về việc
cung cấp tài liệu về đánh giá tác động môi trường của dự án kèm theo hồ
sơ về dự án. Nhu cầu đánh giá tác động môi trường do đó cũng trở nên cần
thiết hơn. Tác động môi trường thường rất phức tạp trong việc đánh giá. Vì
tùy theo quan điểm của mỗi bên cũng như lợi ích về mặt môi trường họ
nhận được mà họ coi đó là tác động tích cực hay tiêu cực. Bên cạnh đó, tác
động môi trường thường không chỉ ảnh hưởng lên một mặt cuộc sống mà
thường có tác động tổng hợp, đồng thời và lâu dài lên nhiều khía cạnh như
sức khỏe, năng suất, tiện nghi,… Vì thế, để đánh giá chính xác được các tác
động này thì các nhà nghiên cứu phải sử dụng một loạt các phương pháp
đánh giá giá trị môi trường khác nhau. Hiện nay, trên thế giới hệ thống các
phương pháp này vẫn đang được nghiên cứu, mở rộng và hoàn thiện. Một
trong các phương pháp được nhiều nhà nghiên cứu ưa thích do phạm vi
3
- nghiên cứu linh hoạt của nó trong việc đánh giá nhiều loại tác động môi
trường và giá trị môi trường là phương pháp đánh giá ngẫu nhiên
(Contigent valuation method) – CVM hay còn gọi là phương pháp phát biểu
sự ưa thích. Nội dung chủ yếu của phương pháp này là thông qua việc sử
dụng những cuộc điều tra và bảng hỏi để thu thập thông tin và thăm dò về
mức giá sẵn lòng trả của các cá nhân cho những cải thiện môi trường.
Những câu hỏi được đưa ra dựa trên những điều kiện thị trường mà người
nghiên cứu nêu ra trong bảng hỏi. Do các câu trả lời là cơ sở của việc đánh
giá giá trị môi trường nhưng lại hoàn toàn dựa trên các điều kiện giả định
nên việc xây dựng bảng hỏi hợp lí, đảm bảo thu được thông tin chính xác
và đáng tin cậy là yêu cầu hàng đầu khi sử dụng phương pháp CVM. Nghiên
cứu việc vận dụng bảng hỏi trong phương pháp CVM vì thế có ý nghĩa trong
việc xây dựng và hoàn thiện bảng hỏi, đáp ứng được yêu cầu của người
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích chủ yếu của đề tài là phân tích việc vận dụng bảng hỏi trong
phương pháp CVM thông qua việc làm rõ các vấn đề sau:
- Tìm hiểu sơ lược về phương pháp CVM, từ đó chỉ ra những yêu cầu về
thông tin mà bảng hỏi cần thu được.
- Nghiên cứu về bảng hỏi, thiết kế bảng hỏi và đặc điểm vận dụng bảng
hỏi trong nghiên cứu CVM
- Chỉ ra những ưu điểm và những tồn tại khi sử dụng bảng hỏi trong
CVM và một vài gợi ý để khắc phục.
II. Vận dụng bảng hỏi trong phương pháp định giá ngẫu nhiên – CVM:
1.Phương pháp CVM:
1.1 Khái niệm CVM:
4
- Việc đánh giá giá trị môi trường thường rất khó khăn và phức tạp. Điều
này xuất phát từ đặc điểm mà các giá trị môi trường đem lại. Ngoài giá trị
sử dụng của môi trường có thể dễ dàng tiến hành đo đạc, lượng hóa và
đánh giá (như trữ lượng gỗ, trữ lượng cá,…) thì các giá trị khác mà môi
trường đem lại thường rất khó đo lường, lượng hóa và đánh giá. Ví dụ như
giá trị cảnh quan, lợi ích sinh thái, chất lượng môi trường nước, môi trường
không khí,… Bên cạnh đó, một đặc điểm khác của những giá trị này khiến
cho việc định giá càng khó khăn hơn. Đó là bản thân những lợi ích này
không phải là hàng hóa, dịch vụ được trao đổi, mua bán trên thị trường
như các loại hàng hóa, dịch vụ thông thường khác. Việc không tồn tại thị
trường, cung hay cầu của lợi ích môi trường khiến cho việc định giá hoàn
toàn mang tính chủ quan chứ không phải do cơ chế thị trường, cung, cầu
điều chỉnh và xác định. Vì vậy, nếu như với giá trị sử dụng của môi trường
có thể dùng phương pháp quan sát đơn giản hành vi người tiêu dùng trên
thị trường để xác định giá của giá trị sử dụng thì với những giá trị phi sử
dụng khác cần phải tiếp cận bằng nhiều phương pháp phức tạp hơn như:
suy luận từ hành vi của con người trên thị trường liên quan đến môi
trường, quan sát những thay đổi môi trường và ước tính sự chênh lệch giá
trị của tài sản môi trường do những thay đổi này gây ra,… Trong các
phương pháp trên, CVM là phương pháp được nhiều nhà nghiên cứu ưa
thích sử dụng. Phương pháp CVM được định nghĩa như sau:
“Phương pháp định giá ngẫu nhiên – CVM là phương pháp xác định giá
trị kinh tế của các hàng hóa và dịch vụ không mua bán trên thị trường.
Phương pháp này sử dụng bảng hỏi phỏng vấn để xác định giá trị của hàng
hóa, dịch vụ không trao đổi và do đó không có giá trên thị trường” (Theo
Katherine Bolt – Estimating the Cost of Environmental Degradation).
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là việc ước lượng các giá trị môi
trường trực tiếp theo cách tiếp cận hành vi, dựa trên các câu trả lời và
phản hồi của người được hỏi đối với những vấn đề liên quan đến chất
lượng môi trường. Điều đáng chú ý ở đây là những câu hỏi này hoàn toàn
5
- dựa trên những giả định mà người nghiên cứu đưa ra về việc đóng góp,
mức chi trả của người được hỏi cho các giá trị môi trường (vì bản thân các
giá trị này không hề được đưa ra trao đổi, mua bán). Số liệu điều tra được
về giá mà người được hỏi sẵn lòng trả cho các giá trị môi trường, các biện
pháp cải thiện môi trường hoặc đền bù thiệt hại môi trường sẽ là cơ sở để
đánh giá giá trị môi trường. Tổng mức sẵn lòng chi trả này chính là giá trị
của tài sản môi trường cần đánh giá.
Như vậy, thông qua việc tiếp cận hành vi của người trả lời dựa trên
những câu hỏi giả định nêu ra trong bảng hỏi, người nghiên cứu thu được
thông tin về “giá” của lợi ích môi trường.
1.2 Các bước tiến hành CVM:
Do thực tế các tác động môi trường thường xảy ra đồng thời và rất phức
tạp, khó tách rời nên việc thăm dò, tiếp cận hành vi của người được hỏi phải
được tiến hành qua nhiều bước, đảm bảo thu được những thông tin phản
hồi chính xác về những tác động môi trường cần đánh giá. Thông thường,
phương pháp CVM thường được tiến hành qua 4 bước sau đây:
- Xác định và mô tả những đặc điểm chất lượng môi trường cần đánh
giá
- Xác định đối tượng điều tra, xác định mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Thiết kế bảng hỏi phỏng vấn và tiến hành điều tra bằng các phương
pháp như phỏng vấn trực tiếp, phương pháp Anket, thảo luận nhóm.
- Phân tích và tổng hợp kết quả (phân tích kinh tế lượng, phân tích lợi
ích chi phí).
4 bước này liên quan đến một loạt các lý thuyết về kinh tế học môi
trường, kinh tế lượng và thiết kế điều tra. Trên thực tế, CVM thường được
tiến hành bởi những nhà nghiên cứu môi trường nên kĩ thuật về thiết kế
bảng hỏi, thiết kế điều tra không được họ nghiên cứu nhiều. Trong khi đó,
việc thiết kế bảng hỏi lại đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc mang lại
6
- thông tin đầy đủ và chính xác để định giá giá trị môi trường hợp lí. Chinh vì
thế, bước thứ 3 cần phải được chú trọng xem xét trong quá trình tiến hành
CVM.
1.3 Ưu điểm của phương pháp CVM:
Ưu điểm lớn nhất của CVM là có phạm vi ứng dụng rộng và linh họat. Do
phương pháp CVM dựa trên giá sẵn lòng chi trả cho các giá trị môi trường
của các cá nhân nên nó có thể áp dụng để định giá nhiều loại hàng hóa môi
trường khác nhau cũng như những giá trị khác nhau của môi trường. Ví dụ
như giá trị tồn tại của môi trường – được coi là một trong những yếu tố khó
lượng hóa nhất như lợi ích sinh thái, chất lượng môi trường nước,… Những
giá trị đôi khi được đánh giá rất cao nhưng thực tế lại không đòi hỏi người
tham gia phỏng vấn phải trực tiếp hưởng thụ giá trị này. Do đó, việc điều tra
được tiến hành dễ dàng và thuận tiện hơn, cũng như ít tốn kém hơn. Ví dụ
như khi nghiên cứu giá trị môi trường của Nam Cực. Trên thực tế, giá trị môi
trường của Nam Cực thường được trả rất cao nhưng rất ít người thực sự đến
tham quan địa điểm này. Nếu sử dụng các phương pháp khác như TCM
(phương pháp chi phí du lịch) đòi hỏi người được phỏng vấn phải là người đã
đến Nam Cực và thực sự chi trả cho các chi phí du lịch ở đây thì chi phí tiến
hành điều tra sẽ rất tốn kém. Nhưng nếu sử dụng phương pháp CVM, người
nghiên cứu chỉ cần đưa ra các giả định và nhận được thông tin về giá sẵn
sàng chi trả của người được phỏng vấn cho việc bảo vệ các giá trị của Nam
Cực trong khi thực tế họ không cần phải đến tận Nam Cực.
Một ưu điểm khác nữa của CVM là nó không đòi hỏi một số lượng lớn
thông tin như những phương pháp đánh giá môi trường khác.
Vì thế, trong các báo cáo đánh giá môi trường của các dự án, chính sách,
CVM thường được sử dụng rộng rãi.
7
- 2.Vận dụng bảng hỏi trong nghiên cứu CVM:
1.4 Bảng hỏi:
“Bảng hỏi (hay còn gọi là phiếu điều tra) là hệ thống các câu hỏi được sắp
xếp trên cơ sở các nguyên tắc, trình tự logic và theo nội dung nhất định nhằm
giúp cho người điều tra có thể thu được thông tin về hiện tượng nghiên cứu
một cách đầy đủ, đáp ứng mục tiêu nghiên cứu đã được thiết lập.” (Giáo
trình Lý thuyết thống kê – 2006).
Đối với các cuộc điều tra nói chung, cho dù là điều tra nghiên cứu thị
trường hay điều tra xã hội học thì bảng hỏi luôn là công cụ quan trọng nhất
để thu thập thông tin. Bảng hỏi cũng là biểu hiện cụ thể nội dung nghiên cứu,
là công cụ để người nghiên cứu truyền tải nội dung này đến người được hỏi
và thu nhận những phản hồi từ họ. Vì vậy, chỉ cần nhìn vào bảng hỏi cũng có
thể cho ta biết được những thông tin sơ lược nhất về cuộc điều tra như mục
đích điều tra, chương trình, tổ chức điều tra,…
Đối với phương pháp định giá ngẫu nhiên CVM, bảng hỏi cũng có vai trò
cầu nối giữa người nghiên cứu và người được hỏi. Đặc biệt, vai trò này càng
quan trọng hơn khi đặc điểm của phương pháp này là thu thập thông tin dựa
trên những giả định không có thật chỉ được nêu ra trong bảng hỏi. Bảng hỏi
được thiết kế nhằm mục đích làm đối tượng điều tra suy nghĩ về các đặc
điểm môi trường, từ đó phát biểu giá mà họ sẵn sàng trả tối đa cho các đặc
điểm môi trường đó.
Thông thường, bản hỏi trong CVM gồm 3 phần quan trọng:
- Các câu hỏi ngắn gọn và thích hợp nhằm thu thập thông tin cơ bản
nhất về đối tượng điều tra. Ví dụ như tuổi tác, nghề nghiệp, nơi sinh sống,
thu nhập, việc sử dụng, hưởng thụ các giá trị dịch vụ, hàng hóa môi trường
liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ đó có thể xem xét những yếu tố như
môi trường sống, trình độ học vấn, mức thu nhập,… có ảnh hưởng như thế
nào tới các câu trả lời của họ.
8
- - Phần mô tả những đặc điểm môi trường có liên quan. Từ đó, đối
tượng điều tra có hình dung về những giá trị môi trường mà họ đánh giá, từ
đó đưa ra mức giá sẵn sàng chi trả phù hợp.
- Phần câu hỏi được thiết kế để thu thập thông tin, phản hồi về giá sẵn
lòng trả của đối tượng điều tra.
Thông qua bảng hỏi, người nghiên cứu phải nhận được đánh giá của đối
tượng điều tra về đặc điểm môi trường đang nghiên cứu có giá trị như thế
nào đối với họ. Điều này được thể hiện qua giá mà đối tượng điều tra sẵn
lòng trả tối đa để được tiếp tục sử dụng tài sản môi trường này so với việc
mà họ không được sử dụng nữa. Con số mà đối tượng điều tra đưa ra chính
là giá trị lợi ích ròng của hàng hóa, dịch vụ môi trường đang cần đánh giá.
Đây chính là cách thức để lượng hóa được giá trị tài sản môi trường – yếu tố
vốn không có giá trị thị trường và không được trao đổi, mua bán. Có rất
nhiều cách để thu được những phản hồi này. Trên bảng hỏi, các mức giá có
thể được đưa ra trước và đề nghị đối tượng điều tra đánh dấu vào con số mà
họ cho là thích hợp và sẵn sàng trả cao nhất hoặc để họ hoàn toàn tự trả giá.
1.5 Các loại câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu CVM:
Cũng như các cuộc điều tra khác, các loại câu hỏi được sử dụng trong
nghiên cứu CVM cũng phân chia theo nhiều tiêu thức. Tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu, đặc điểm thông tin mà người nghiên cứu muốn thu thập
mà có thể sử dụng các loại câu hỏi cho phù hợp. Mỗi loại câu hỏi đều có tác
dụng, ưu điểm riêng, nên để đạt hiệu quả cao nhất khi thu thập thông tin,
người nghiên cứu nên sử dụng kết hợp linh hoạt, xen kẽ các loại câu hỏi
trong bảng hỏi, thậm chí cho cùng một thông tin cần thu thập. Bằng việc sử
dụng kết hợp các câu hỏi như vậy, người nghiên cứu có thể thu nhận được
những thông tin chính xác, phù hợp và dễ lượng hóa khi tổng hợp.
1.5.1 Câu hỏi theo nội dung:
9
- Câu hỏi theo nội dung thu thập thông tin về thực tế vấn đề môi trường
mà câu hỏi này đề cập đến . Có thể phân biệt cụ thể hơn 3 nhóm câu hỏi
theo nội dung:
Câu hỏi về sự kiện:
Câu hỏi sự kiện là câu hỏi về một sự kiện hiện thực nào đó đã và đang tồn
tại trong không gian. Những câu hỏi này nhằm thu thập thông tin về vấn đề
môi trường đã hoặc đang diễn ra hoặc chỉ đơn thuần là có hiểu biết về đối
tượng điều tra.
Câu hỏi sự kiện thường được sử dụng phổ biến trong hầu hết các bảng
hỏi, các phiếu điều tra do tính ứng dụng cao của nó. Nó mang lại thông tin về
những sự kiện liên quan đến vấn đề điều tra từ đơn giản đến phức tạp. Đối
với những sự kiện thông thường, câu hỏi sự kiện thường được sử dụng để
bắt đầu hỏi trong phỏng vấn nhằm giúp người được hỏi quen dần với cuộc
phỏng vấn. Hoặc khi đi chuyển sang một ý khác, câu hỏi sự kiện cũng được
sử dụng để gợi mở, dẫn dắt tới vấn đề mới.
Các câu hỏi sự kiện thường dễ trả lời vì thế thông tin thu được từ câu hỏi
có độ chính xác cao, thông thường có độ tin cậy cao nhất so với các loại câu
hỏi khác. Tuy vậy, cũng cần chú ý rằng đối với những sự kiện đã xảy ra khá
lâu trong quá khứ thì độ chính xác của câu hỏi cũng giảm xuống. Những câu
hỏi khai thác cụ thể, chi tiết về sự kiện đã xảy ra (như ngày tháng năm xảy ra
sự kiện, địa điểm xảy ra,…) cần kết hợp những câu hỏi sự kiện liền nhau để
dần tái hiện về sự kiện này bằng cách hỏi về các sự kiện quá khứ nổi bật xảy
ra gắn liền với sự kiện ta cần hỏi. Hoặc khi câu hỏi mang tính chất riêng tư,
nhạy cảm, kín đáo thì cần đặc biệt chú ý tới cách diễn đạt tế nhị, gián tiếp,
tránh gây bối rối, khó xử cho người được hỏi để thu được thông tin chính
xác.
Ứng dụng trong CVM, các câu hỏi về sự kiện có thể được sử dụng trong
phần đầu của bảng hỏi để thu thập thông tin về đối tượng điều tra như tên,
tuổi, nghề nghiệp, nơi ở, thu nhập,… Ngoài ra cũng có tác dụng dẫn dắt đối
10
- tượng vào vấn đề được hỏi bằng cách hỏi đối tượng điều tra về các sự kiện
có liên quan tới vấn đề môi trường nghiên cứu.
Ví dụ như hỏi đối tượng về việc sử dụng các hàng hóa dịch vụ môi trường
trước đây hoặc việc thay đổi về hiện trạng của hàng hóa dịch vụ môi trường
đang/đã xảy ra, cách thức người được hỏi đối xử với hàng hóa môi trường,…
Câu hỏi về tri thức:
Sau khi thu được thông tin về sự kiện, người nghiên cứu có thể muốn tìm
hiểu rõ hơn về nhận thức của người được hỏi về vấn đề này. Câu hỏi tri thức
nhằm giúp người nghiên cứu thu được thông tin về mức độ hiểu biết, trình
độ nhận thức của người được hỏi về vấn đề. Điều này là vô cùng cần thiết,
đặc biệt là trong nghiên cứu CVM. Do đặc điểm của hàng hóa môi trường là
việc phân định giữa ảnh hưởng tích cực và tiêu cực chỉ mang tính tương đối
nên trình độ nhận thức của người được hỏi có ảnh hưởng rất quan trọng tới
giá mà họ sẵn sàng chi trả cho hàng hóa môi trường này. Với những đối
tượng điều tra có nhận thức cao về vấn đề môi trường, họ thường có nhận
định, đánh giá chính xác hơn về giá trị của hàng hóa môi trường đang nghiên
cứu. Ví dụ như một người có nhận thức về vấn đề cân bằng sinh thái sẽ đánh
giá cao việc bảo vệ loài sếu đầu đỏ đang bị tuyệt chủng hơn là một người
không có hiều biết về vấn đề này.
Khi sử dụng câu hỏi tri thức nên hạn chế việc dùng câu hỏi lưỡng cực:
Có/Không, Đã biết/Chưa biết,… Do người được hỏi có thể bị ngộ nhận, ngại
ngùng về mục đích sử dụng câu hỏi là để đánh giá nhận thức của họ nên họ
có xu hướng chọn câu trả lời “Có” hoặc “Đã biết”,… làm sai lệch thông tin thu
thập. Trong trường hợp này, nên sử dụng các câu hỏi phụ để kiểm tra thêm
về mức độ hiểu biết thực sự của đối tượng về vấn đề đó như thế nào.
Câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ:
Loại câu hỏi cuối cùng trong nhóm câu hỏi theo nội dung là câu hỏi về
quan điểm, thái độ, động cơ. Có thể nói hai loại câu hỏi trên thường chỉ
11
- nhằm mục đích dẫn dắt đối tượng điều tra để thu được thông tin quan trọng
nhất từ câu hỏi này. Câu hỏi này nhằm tìm hiểu quan điểm, sự đánh giá, mức
độ quan tâm, phản ứng, thái độ, nguyên nhân và động cơ của đối tượng điều
tra về sự kiện đang nghiên cứu.
Trên thực tế, những đánh giá, mong muốn mà đối tượng điều tra bộc lộ
trong câu trả lời thường có tính ổn định thấp, dễ thay đổi, tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế xã hội khách quan hay tâm lí, nhận thức chủ quan của đối tượng
điều tra. Vì vậy, nếu như câu hỏi sự kiện thường cho câu trả lời có độ chính
xác cao, ổn định, không thay đổi theo thời gian, từ cuộc điều tra này tới cuộc
điều tra khác do nó gắn liền với hiện thực khách quan thì câu hỏi về quan
điểm, thái độ, động cơ lại dễ thay đổi và thiếu chính xác. Tùy thuộc vào thời
điểm điều tra mà câu trả lời này có thể biến động, nguồn dữ liệu từ câu hỏi
này vì thế không thể sử dụng nhiều lần ở những cuộc điều tra khác nhau.
Bên cạnh đó, khi sử dụng loại câu hỏi này về những vấn đề riêng tư, nhạy
cảm biểu hiện lập trường quan điểm cá nhân thì còn cần chú ý đến việc diễn
đạt tế nhị, khéo léo để người được hỏi dễ dàng hiểu câu hỏi và trả lời chính
xác, đầy đủ.
Trong nghiên cứu CVM, đây chính là câu hỏi để thu được mức giá sẵn
lòng trả của đối tượng điều tra về vấn đề môi trường đang nghiên cứu. Nói
cách khác, đây chính là đánh giá về giá trị môi trường đối với người được
hỏi. Từ đó, người nghiên cứu xác định được mức giá của hàng hóa, dịch vụ
môi trường.
Ba loại câu hỏi theo nội dung có nhiệm vụ khác nhau trong việc thu thập
thông tin nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, giúp người
được hỏi dần dần làm quen với bảng hỏi và vấn đề nghiên cứu, mang lại
những thông tin đầy đủ, chính xác và hoàn chỉnh. Trong nghiên cứu CVM,
cần kết hợp linh hoạt 3 loại câu hỏi này do bản thân tính phức tạp của vấn đề
môi trường và không phải lúc nào người được hỏi cũng đã biết và nhận thức
về môi trường. Cần sử dụng câu hỏi sự kiện và câu hỏi tri thức để dẫn dắt,
12
- giúp người được hỏi có những ý niệm chung về vấn đề môi trường rồi từ đó
mới tìm hiểu về đánh giá của họ về vấn đề này.
1.5.2 Câu hỏi theo chức năng:
Việc phân loại câu hỏi theo chức năng xuất phát từ yêu cầu về kĩ thuật
điều tra. Khi thực hiện phỏng vấn, truyền tải thông tin, đặc biệt là khi phỏng
vấn về những vấn đề nhạy cảm (trong CVM như đánh giá tác động chính sách
môi trường, thái độ của người được hỏi về chính sách của cơ quan quản lí
môi trường), độ chính xác của thông tin thấp thì việc sử dụng loại câu hỏi này
rất quan trọng. Có thể phân biệt 3 loại câu hỏi chức năng: câu hỏi tâm lí, câu
học lọc và câu hỏi kiểm tra.
Câu hỏi tâm lí:
Đây là thường là câu hỏi tiếp xúc ban đầu với người được hỏi, dùng để
bắt đầu bảng hỏi. Chức năng chủ yếu của câu hỏi này là để gạt bỏ nghi ngờ
có thể nảy sinh của người được hỏi, hoặc để chuyển tiếp giữa các chủ đề.
- Để tiếp xúc, làm quen, các câu hỏi tâm lí được sử dụng thường là
những câu hỏi đơn giản, dễ trả lời và mục đích không nhất thiết để thu thập
thông tin. Chức năng chủ yếu của câu hỏi tâm lí chỉ là để làm quen, tạo sự
thân thiện, thoải mái và lôi cuốn người được hỏi vào vấn đề nghiên cứu. Đối
với nhiều người, vấn đề môi trường thường không phải là vấn đề được họ
quan tâm. Bằng việc sử dụng câu hỏi tâm lí, người nghiên cứu có thể thu hút
sự chú ý của người được hỏi để họ hợp tác nhiệt tình hơn, đưa lại thông tin
cụ thể, chính xác hơn.
- Để giảm bớt sự căng thẳng, đặc biệt là khi nội dung bảng hỏi có liên
quan đến vấn đề chỉ đạo, chính sách,… nhạy cảm thì người nghiên cứu có thể
đan cài những câu hỏi tâm lí về cuộc sống hàng ngày, những vấn đề đơn
giản. Nội dung của những câu hỏi này có thể không liên quan tới vấn đề đang
nghiên cứu mà chỉ giúp tạo bầu không khí thoải mái, sau đó sẽ trở lại với nội
dung chính của bảng hỏi. Ví dụ như khi phỏng vấn về phản ứng của người
13
- dân về chủ trương cải tạo công viên Thống Nhất thành khu vui chơi hiện đại
của Thành phố Hà Nội, người nghiên cứu có thể đan cài các câu hỏi về việc
vui chơi của trẻ em trong gia đình tại công viên.
- Câu hỏi tâm lí còn được dùng để chuyển tiếp giữa các chủ đề trong
bảng hỏi một cách hợp lí, liền mạch nhằm duy trì sự tập trung nhưng vẫn tự
nhiên, thoải mái của người được hỏi. Việc chuyển vấn đề nhanh hoặc bất
ngờ có thể gây tâm lí nghi ngờ về logic của bảng hỏi hoặc sự hụt hẫng, đảo
lộn về tư duy từ người được hỏi. Trong bảng hỏi CVM, người nghiên cứu có
thể muốn đánh giá nhiều loại giá trị của cùng một loại hàng hóa dịch vụ môi
trường thì việc sử dụng câu hỏi tâm lí cũng vẫn cần thiết nhằm loại bỏ sự
nhàm chán, lặp lại của các câu hỏi và tạo ra sự uyển chuyển, hợp lí giữa các
nội dung.
Do các câu hỏi tâm lí không yêu cầu thu được thông tin hoặc phải liên
quan trực tiếp tới nội dung được hỏi nên việc sử dụng cần có mức độ. Việc
sử dụng quá nhiều câu hỏi vừa làm dài bảng hỏi, vừa gây loãng nội dung
bảng hỏi, gây nhiễu về thông tin. Trên thực tế, câu hỏi tâm lí thường sử dụng
trong phỏng vấn trực tiếp nhiều hơn, do người nghiên cứu tự đặt ra khi cảm
thấy cần thiết. Tuy vậy, vẫn có thể sử dụng một cách hợp lí trong bảng hỏi.
Nghiên cứu CVM cũng không thường liên quan tới những vấn đề quá nhạy
cảm, căng thẳng nên việc sử dụng câu hỏi tâm lí không rộng rãi như trong
các cuộc điều tra xã hội học thông thường.
Câu hỏi lọc:
Trong điều tra nói chung, câu hỏi lọc luôn được sử dụng rất rộng rãi. Tác
dụng của câu hỏi lọc là tìm hiểu xem người được hỏi có thuộc nhóm người
dành cho những câu hỏi tiếp theo hay không. Điều này là vô cùng quan trọng
vì nếu người được hỏi không thuộc nhóm này thì việc tiếp tục trả lời các câu
hỏi sau đó không chỉ gây lãng phí thời gian mà còn mang lại thông tin không
chính xác, không logic và không có giá trị. Bằng việc sử dụng đơn giản câu hỏi
lọc, người nghiên cứu có thể phân chia người được hỏi thành các nhóm khác
14
- nhau, đưa ra những câu hỏi riêng cho mỗi nhóm và thu được thông tin có giá
trị từ mỗi nhóm này.
Đặc biệt, câu hỏi lọc có ý nghĩa rất lớn trong việc tổng hợp thông tin sau
điều tra. Người nghiên cứu có thể dễ dàng chỉ ra những câu trả lời không
chính xác, không logic của người được hỏi bằng câu hỏi lọc. Trong thiết kế
bảng hỏi, câu hỏi lọc thường được sử dụng kèm theo kĩ thuật “bước nhảy”
để phân loại người được hỏi thành các nhóm và đưa họ đến thẳng tới nhóm
câu hỏi phù hợp cho mỗi nhóm. Như vậy họ không cần đi theo trình tự thông
thường từ trên xuống dưới của bảng hỏi hay phải trả lời các câu hỏi vô nghĩa.
Đối với nghiên cứu CVM nói riêng, bằng câu hỏi lọc, người nghiên cứu có
thể hạn chế sai lầm khi định giá hàng hóa môi trường khi người được hỏi có
thể trả giá rất cao cho hàng hóa đó trong khi thực tế họ hoàn toàn không
quan tâm đến vấn đề môi trường đang nghiên cứu.
Câu hỏi kiểm tra:
Câu hỏi kiểm tra được sử dụng để kiểm tra độ chính xác của các thông tin
đã thu thập được hoặc của các câu trả lời của các câu hỏi thường hay bị trả
lời sai, độ chính xác thấp. Câu hỏi kiểm tra có thể chỉ để xác định mức tin cậy
của từng câu hỏi hoặc của từng nội dung hay của toàn bộ bảng hỏi. Câu hỏi
kiểm tra còn có thể giúp người nghiên cứu tìm ra câu trả lời chính xác. Có
nhiều cách để xây dựng câu hỏi kiểm tra. Có thể nêu ra câu hỏi, sau đó đưa
ra các phương án trả lời mà có cả phương án đúng và sai hoặc gài một câu
trả lời chắc chắn đúng (hoặc chắc chắn sai) để thử. Đối với các câu hỏi nội
dung, có thể sử dụng cách dùng hai câu hỏi về cùng một vấn đề nhưng diễn
đạt dưới hình thức, sắc thái khác nhau. Cũng có thể đưa ra một tình tiết, một
vấn đề hư cấu nhưng về hình thức lại gần với thực tế để kiểm tra tính xác
thực của các thông tin từ các câu hỏi trước đó,… Ngoài ra còn một cách phổ
biến khác là kiểm tra mối liên hệ, tính logic giữa các câu hỏi để kiểm tra chéo
độ chính xác của các câu trả lời.
15
- Việc thiết kế câu hỏi kiểm tra và đưa câu hỏi kiểm tra vào bảng hỏi tuy
vậy cần chú ý tới những vấn đề sau:
- Các câu hỏi kiểm tra sẽ kéo dài độ dài bảng hỏi vì vậy cần sử dụng hợp
lí. Chỉ nên sử dụng câu hỏi kiểm tra với những nội dung nghiên cứu quan
trọng và những câu hỏi thường bị trả lời sai.
- Câu hỏi kiểm tra không nên đi liền ngay sau câu hỏi mà nó muốn kiểm
tra mà phải để cách xa khoảng từ 3 đến 4 câu hỏi khác để tránh sự nghi ngờ
của người được hỏi và đảm bảo thu được thông tin chính xác.
- Việc diễn đạt, thiết kế phải khéo léo để tránh việc người được hỏi nghi
ngờ, tự ái dẫn đến cung cấp thông tin sai lệch.
Như đã đề cập ở phần trên, một trong những hạn chế lớn nhất của
phương pháp CVM là đôi khi người được hỏi đưa ra mức giá rất cao cho
hàng hóa môi trường vì họ nhận định thực tế họ không phải trả khoản tiền
này. Vì vậy, việc sử dụng câu hỏi kiểm tra là cần thiết. Ví dụ so sánh giá sẵn
lòng chi trả với thu nhập hoặc mức giá họ đã thực tế chi trả cho các hàng hóa
môi trường thông thường như phí vệ sinh, vé vào công viên sinh thái,… để
kiểm tra tính hợp lí, logic trong câu trả lời.
1.5.3 Câu hỏi theo cách biểu hiện:
Dựa vào việc xây dựng câu hỏi và cách thu thập câu trả lời trong bảng hỏi
mà có thể phân chia câu hỏi thành 3 loại: câu hỏi đóng, câu hỏi mở và câu
hỏi hỗn hợp (câu hỏi nửa đóng).
Câu hỏi đóng:
Câu hỏi đóng là loại câu hỏi mà người nghiên cứu đưa kèm theo những
phương án trả lời cụ thể, người được hỏi chỉ cần chọn một hoặc một số
phương án họ cho là phù hợp nhất. Có thể phân biệt cụ thể 3 loại câu hỏi
đóng:
16
- - Câu hỏi đóng lựa chọn (câu hỏi loại trừ): Các phương án được lựa
chọn của câu trả lời có tính chất loại trừ nhau. Người được phỏng vấn chỉ có
thể chọn một đáp án cho câu trả lời của mình. Việc lựa chọn từ 2 đáp án trở
lên làm cho câu trả lời vô nghĩa, không hợp logic. Đối với loại câu hỏi này, có
thể có câu hỏi lưỡng cực hoặc câu hỏi cường độ. Câu hỏi lưỡng cực chỉ gồm
2 đáp án trái ngược nhau: Có/Không, Đúng/Sai,… và thường chịu ảnh hưởng
của tâm lí ưa thích “tích cực” của người được hỏi.
Ví dụ: Với câu hỏi “Bạn có phản đối việc cải tạo công viên Thống Nhất
không?” Thì câu trả lời có xu hướng chọn đáp án tích cực là Có. Trong khi đó,
nếu diễn đạt câu hỏi khác đi mà giữ nguyên nội dung câu hỏi: “Bạn có ủng hộ
việc hiện đại hóa công viên Thống Nhất không?” thì câu trả lời vẫn có thể là
“Có” do tâm lí ưa thích “tính tích cực” của người được hỏi.
Ngoài ra, khi sử dụng câu hỏi lưỡng cực cần chú ý tới việc sắp xếp thứ tự
câu hỏi. Việc sắp xếp một loạt các câu hỏi lưỡng cực đứng liền nhau rất dễ
gây ra “xu hướng đồng tình” của đối tượng điều tra. Đây là xu hướng khi
người được hỏi chọn một nhóm câu trả lời nhấ định mà không quan tâm
thực sự tới nội dung câu hỏi. Ví dụ, trong một loạt các câu hỏi “Đồng
ý/Không đồng ý”, “Có/Không”,… người được hỏi thường có xu hướng chọn
một đáp án chung cho tất cả các câu hỏi cho dù nội dung câu hỏi có thể hoàn
toàn trái ngược nhau. Việc thiết kế câu hỏi như vậy gây ra tâm lí nhàm chán
cho người được hỏi khiến họ trả lời một cách máy móc cho tất cả các câu hỏi
lưỡng cực.
Ngoài ra, loại câu hỏi đóng lựa chọn còn có câu hỏi cường độ gồm nhiều
mức độ (thang đánh giá) lựa chọn được phân chia theo thứ bậc từ thấp tới
cao (hoặc ngược lại). Vấn đề chủ yếu của loại câu hỏi này là việc nên đưa ra
bao nhiêu hạng mục là phù hợp. Trên thực tế không có một quy định nào về
số lượng hạng mục nên sử dụng trong phần trả lời nhưng nói chung, việc sử
dụng quá ít hạng mục sẽ làm cho tính phân loại của câu trả lời thấp trong khi
sử dụng quá nhiều hạng mục lại làm mức độ khác biệt giữa các đáp án giảm
xuống, việc xử lí thông tin kém ý nghĩa. Thông thường, số hạng mục nên sử
17
- dụng là từ 5-9 hạng mục. Đối với số hạng mục lẻ sẽ có một hạng mục trung
gian ở giữa. Trong trường hợp cần có một câu trả lời trung lập thì nên sử
dụng số hạng mục lẻ. Nếu người nghiên cứu muốn đối tượng điều tra cung
cấp câu trả lời có quan điểm rõ ràng thì số hạng mục chẵn có thể buộc đối
tượng không lựa chọn điểm giữa được. Tuy vậy, việc sử dụng số hạng mục
chắn yêu cầu tính cẩn trọng cao vì khi buộc đối tượng điều tra phải lựa chọn
những gì họ không chắc chắn có thể tạo ra dữ liệu sai lệch.
- Dạng câu hỏi đóng thứ hai là câu hỏi đóng tùy chọn (câu hỏi tuyển).
Các phương án trả lời của câu hỏi này không loại trừ nhau và người được hỏi
có thể chọn một số khả năng nào đó họ cho là phù hợp. Đối với loại câu hỏi
này, người nghiên cứu có khả năng gặp phải “xu hướng chọn theo vị trí”. Khi
người được hỏi gặp một danh sách những đáp án cho trước thì lựa chọn của
họ có thể chịu ảnh hưởng bởi thứ tự sắp xếp các đáp án này hơn là sự nội
dung thật sự của đáp án. Thông thường, những lựa chọn đầu tiên hoặc cuối
cùng thường được ưa thích lựa chọn hơn vì nó để lại ấn tượng nhiều hơn
những đáp án ở vị trí khác đối với người được hỏi. Xu hướng này đặc biệt
phổ biến với những câu hỏi có quá nhiều lựa chọn đáp án nên người nghiên
cứu phải chú ý tới việc thiết kế số lượng đáp án vừa phải mà vẫn bao quát
được các khả năng đáp án có thể. Điều này thường rất khó, vì vậy, người ta
thường sử dụng loại câu hỏi hỗn hợp (nửa đóng).
Đối với câu hỏi đóng tùy chọn, người nghiên cứu còn có thể kết hợp với
yêu cầu sắp xếp thứ tự quan trọng của các đáp án mà người được hỏi lựa
chọn. Từ đó đánh giá mức độ quan tâm của người được hỏi đối với vấn đề
nghiên cứu hoặc tầm quan trọng của các yếu tố thuộc vấn đề nghiên cứu.
Ưu điểm nổi bật của loại câu hỏi đóng là tạo điều kiện thuận lợi cho cả
người được hỏi và người xử lí thông tin. Người được hỏi chỉ cần lựa chọn
trong số các phương án có sẵn nên hạn chế tâm lí chán nản, mệt mỏi. Loại
câu hỏi này cũng giúp người được hỏi hiểu câu hỏi một cách thống nhất,
theo cùng một nghĩa. Đối với người xử lí thông tin, câu hỏi đóng rất thuận
tiện cho việc mã hóa, tổng hợp thông tin.
18
- Tuy nhiên, câu hỏi đóng vẫn có nhiều nhược điểm. Ngoài các xu hướng đã
phân tích ở trên có thể gây ra thông tin sai lệch, việc thiết kế câu hỏi đóng
cũng cần chú ý để tránh gặp phải các nhược điểm sau:
- Các phương án đưa ra chưa đầy đủ khiến người trả lời không chọn
được phương án phù hợp. Người thiết kế vì thế phải lường trước cá phương
án trả lời có thể có, bao quát được các khả năng đáp án có thể xảy ra.
- Các phương án không có mức độ đồng nhất tương đương (theo một
cách phân chia nào đó) làm người được hỏi có xu hướng chọn những đáp án
mà người thiết kế ưa thích, chú trọng hơn. Vì vậy các đáp án cần đảm bảo
đồng nhất với nhau và phải sắp xếp rõ ràng, phù hợp.
Câu hỏi mở:
Câu hỏi mở là loại câu hỏi không có sẵn các phương án trả lời mà hoàn
toàn do người được hỏi nghĩ ra và diễn đạt. Câu hỏi mở cho phép người trả
lời tự do tư duy, trình bày ý kiến quan điểm của mình về vấn đề được hỏi,
không bị gò ép vào những đáp án có sẵn như câu hỏi đóng. Cũng chính vì vậy
mà câu hỏi mở gặp phải một số nhược điểm sau đây:
- Người được hỏi rất dễ hiểu sai, hiểu nhầm, hiểu không chính xác ý của
câu hỏi, dẫn đến không thống nhất trong cách trả lời. Ví dụ: với câu hỏi “Bạn
đánh giá không khí nơi bạn đang sống như thế nào?” Có thể thu được câu trả
lời là: “Ô nhiễm”, “Khô, hanh”, “Ồn ào”,… Vì vậy, việc thiết kế câu hỏi đòi hỏi
sự rõ ràng, chính xác cả về từ ngữ, cách hiểu càng cao, càng khó khăn và
phức tạp.
- Việc tổng hợp, xử lí thông tin đòi hỏi nhiều thời gian và công sức hơn
do phải phân loại các nhóm câu trả lời có thể có.
Chính vì vậy mà câu hỏi mở chủ yếu sử dụng khi thu thập ý kiến, quan
điểm hoặc thăm dò ý kiến, tìm hiểu những vấn đề mới nảy sinh, tạo bước mở
đầu trong cuộc nghiên cứu hoặc trong điều tra thử. Thông thường, câu hỏi
mở được sử dụng để thu thập các thông tin định tính.
19
- Câu hỏi hỗn hợp (câu hỏi nửa đóng)
Do câu hỏi đóng và câu hỏi mở đều có những ưu nhược điểm riêng của
mình nên để khắc phục các nhược điểm của mỗi loại và thu thập thông tin
một cách đầy đủ, chính xác nhất thì các nhà nghiên cứu có thể sử dụng câu
hỏi hỗn hợp. Đây là loại câu hỏi kết hợp giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở.
Sau khi đưa ra những đáp án cho câu hỏi, người nghiên cứu có thể đưa thêm
lựa chọn “Ý kiến khác”. Người được hỏi khi không tìm được phương án trả
lời phù hợp với những đáp án có sẵn có thể điền câu trả lời của mình vào
phần mở này. Vì vậy, câu hỏi hỗn hợp có thể tìm được hết các phương án trả
lời có thể có và xử lí thông tin dễ dàng hơn, định hướng được cách hiểu câu
hỏi phù hợp.
Trong nghiên cứu CVM, thông thường, câu hỏi đóng và câu hỏi hỗn hợp
được sử dụng rộng rãi hơn. Do đặc điểm của nghiên cứu CVM là dựa trên các
giả định mà người nghiên cứu đưa ra về mức giá sẵn lòng chi trả của người
được hỏi cho hàng hóa dịch vụ môi trường nên người được hỏi thường
không có căn cứ nào cụ thể cho mức giá mà mình đưa ra chi trả. Cũng không
tồn tại một thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ môi trường nào tương tự
để người trả lời so sánh và đặt ra mức giá thích hợp cho hàng hóa môi
trường đang nghiên cứu. Chính vì vậy, bằng việc sử dụng câu hỏi đóng, người
nghiên cứu có thể đưa ra những mức giá phù hợp để người được hỏi có căn
cứ suy nghĩ và lựa chọn. Trong trường hợp dùng câu hỏi hỗn hợp, người
được hỏi vẫn có thể đặt ra một mức giá mà họ hài lòng dựa trên những mức
giá mà người nghiên cứu đã cho trước. Bên cạnh đó, việc sử dụng các câu hỏi
đóng lựa chọn, tùy chọn còn có thể thu thập các đánh giá định tính về thái
độ, quan điểm của người được hỏi về các chính sách, dự án môi trường hay
sắp xếp thứ tự quan trọng của lợi ích hàng hóa môi trường đem lại,… Nhìn
chung, câu hỏi đóng và câu hỏi hỗn hợp có ứng dụng lớn và linh hoạt trong
nghiên cứu CVM.
1.6 Yêu cầu về bảng hỏi trong nghiên cứu cvm:
20
nguon tai.lieu . vn