Xem mẫu

  1. ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI VÀ GIẢM PHÁT THẢI CARBON (CO2) TẠI VIỆT NAM BẰNG MÔ HÌNH VECTOR TỤ HỒI QUY (VAR) TS. Trần Việt Thảo, TS. Phan Hương Thảo Trường Đại học Thương mại TS. Trần Mai Trang Viện Kinh tế Việt Nam Tóm tắt: Độ mở thương mại là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hội nhập của một nền kinh tế, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tốc độ tăng trưởng GDP của quốc gia đó. Tuy nhiên thời gian gần đây, mức độ ô nhiễm môi trường trầm trọng đã thúc đẩy các quốc gia thực hiện các cam kết về cắt giảm lượng khí thải CO2. Thực tế cho thấy, việc gia tăng lượng khí CO2 làm giảm tốc độ tăng trưởng và bị ảnh hưởng bởi độ mở thương mại. Bài viết sau đây sử dụng mô hình vector tụ hồi quy VAR để đánh giá mối quan hệ tuyến tính giữa độ mở thương mại, tăng trưởng kinh tế và lượng phát thải CO2. Kếtt quả nghiên cứu cho thấy, sự gia tăng của độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế có quan hệ thuận chiều với độ tăng của lượng phát thải CO2. Dựa trên những kết quả nghiên cứu, bài viết cũng đưa ra những gợi ý chính sách nhằm giảm lượng khí thải CO2 nhưng vẫn đảm bảo sự phát triển kinh tế và sự gia tăng độ mở thương mại. Từ khóa: Độ mở thương mại, phát triển kinh tế, giảm phát thải CO2, VAR ASSESSMENT THE RELATIONSHIP BETWEEN TRADE OPENNESS AND CARBON (CO2) EMISSIONS REDUCTION IN VIETNAM BY VAR MODEL Abstract: Trade openness is one of the criteria for assessing the level of integration of an economy, it has a strong influence on the GDP growth rate of that country. However, recently, the serious level of environmental pollution has prompted countries to make commitments to cut CO2 emissions. The fact shows that the increase in CO2 reduces the growth rate and is affected by the openness of trade. The following article uses the VAR model to evaluate the linear relationship between trade openness, economic growth and CO2 emissions, thereby providing policy suggestions to reduce CO2 emissions while still maintaining the environment. ensure economic development and increase trade openness. Keywords: Trade openness, economic development, CO2 emission reduction, VAR. 1. Giới thiệu chung Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, tự do hóa thương mại có những tác động trực tiếp và gián tiếp tới ô nhiễm môi trường của một ngành và một quốc gia. Nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều nước trên thế giới như Hettige và cộng sự (1996), Mani và Wheeler (1999), Dean (2002), Ederington (2004), Mani và Jha (2005), Guminlang (2011) đã cho thấy, không phải mọi tác động là như nhau mà có sự khác nhau xuất phát từ đặc thù 205
  2. riêng của từng ngành và từng quốc gia. Nhưng tổng hợp lại thì tác động tiềm tàng của tự do hóa thương mại đến môi trường gồm: (i) tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường; (ii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua sự chuyên môn hóa, chuyển dịch cơ cấu trong ngành; (iii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua kênh đầu tư, chuyển giao công nghệ; (iv) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường bằng hiệu ứng trực tiếp. Việt Nam bắt đầu thực hiện tự do hóa thương mại và mở cửa thị trường từ năm 1986. Sự tự do hóa thương mại đã giúp mở rộng thương mại của Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới. Những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bao gồm cả những mặt hàng sản xuất. Ngoài ra, mở cửa thương mại ngày càng tăng cũng thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, tự do hóa thương mại còn có những tác động vô hình khác như làm gia tăng nhận thức của xã hội về nhu cầu hội nhập, đổi mới mạnh mẽ thể chế nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ. Tuy nhiên, mở cửa thương mại được cho là sẽ có những tác động tiêu cực đến môi trường nếu hiệu ứng quy mô mở cửa thương mại được cho là chiếm ưu thế hơn so với nhưng tác động về kỹ thuật, thành phần. Đã có những nghiên cứu thực địa chứng minh rằng, có mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Ederington và cộng sự, 2004; Nguyen Duy Loi, 2012). Ở Việt Nam, các nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại với ô nhiễm môi trường từ các ngành công nghiệp và cho rằng đó là mối quan hệ thuận chiều (Nani và Jha.S, 2005) (Pham Thai Hung và cộng sự, 2018). Hơn thế nữa, mở cửa thương mại có thể tác động không cân xứng với phát thải ô nhiễm. Theo Keynes [1] thì xu hướng gia tăng của bất kỳ biến số kinh tế vĩ mô nào đều có thể biến thành xu hướng tiêu cực. Hơn nữa lượng thương mai gia tăng làm tăng tiêu thụ năng lượng và tạo ra một hiệu ứng khác còn gọi là hiệu ứng “chốt hãm ngược”. Hiệu ứng “chốt hãm ngược” cho rằng khi mức thu nhập giảm, tiêu dùng không giảm theo cùng một cách. Theo những lập luận này thì độ mở thương mại đối với tiêu thụ năng lượng và lượng phát thải ô nhiễm có cùng xu hướng phát triển. Hình 1 và hình 2 cho thấy xu hướng mở cửa thương mại ngày càng tăng tương ứng với xu hướng tăng phát thải CO2 trong phần lớn các năm qua. 206
  3. Nguồn: World Bank [2] Hình 1: Độ mở thương mại của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2020 Nguồn: World Bank [2] Hình 2: Lượng phát thải CO2 của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2020 Theo các chỉ số của Ngân hàng Thế giới năm 2020, cường độ phát thải CO 2 tại Việt Nam năm 1990 là 0,315 (tấn) thì đến năm 2020, con số này đã là 2.714 (tấn). Sự gia tăng lượng khí thải này đi kèm với sự gia tăng của tăng trưởng kinh tế và thương mại. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn vào những con số trên thì rất khó dự đoán những tác động qua lại và xu hướng tác động giữa độ mở thương mại và CO2 hiện trạng cũng như trong tương lai. Chính vì thế, nghiên cứu này sẽ sử dụng mô hình VAR và phân rã phương sai để từ đó xác định mối quan hệ tuyến tính giữa độ mở thương mại và khí thải CO2 trong giai đoạn 1990 - 2020. 207
  4. 2. Tổng quan nghiên cứu Có nhiều chỉ tiêu đo lường sự phát triển thương mại quốc tế của một quốc gia. Tuy nhiên, chỉ tiêu quan trọng và thường được sử dụng nhất là độ mở thương mại của nền kinh tế (Trade Openness). Chỉ tiêu độ mở thương mại được tính bằng cách lấy giá trị tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (Export and Import) của một thời kỳ chia cho giá trị của tổng sản phẩm trong nước cũng trong thời kỳ đó: Openness = (Export + Import)/ GDP. Độ mở thương mại có khả năng tác động tiêu cực hoặc tích cực đến môi trường do những tác động của quy mô, kỹ thuật và sản xuất. Hơn nữa, thương mại cũng ảnh hưởng đến môi trường thông qua tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đã được chứng minh là có tác động tiêu cực đến môi trường, nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển do hiệu ứng quy mô của việc tiêu thụ năng lượng. Tuy nhiên, bên cạnh nhưng tác động tiêu cực vẫn có những tác động tích cực của thương mại tự do đối với môi trường. Những tác động tích cực thường ở giai đoạn sau của quá trình phát triển. Hiệu ứng quy mô cho thấy rằng lượng phát thải ô nhiễm ngày càng tăng do các hoạt động kinh tế và tiêu thụ năng lượng cao hơn là do tập trung nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế hơn là kiểm soát ô nhiễm. Sau đó trong quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế thúc đẩy sự gia tăng nhu cầu về môi trường sạch hơn để đạt mức sống cao hơn. Đến giai đoạn này thì các quy trình sản xuất sạch được ưu tiên hơn. Kết quả là hiệu ứng của các kỹ thuật hỗ trợ tác động tích cực đến môi trường. Sự liên kết giữa các quốc gia về hoạt động kinh tế và thương mại đã thúc đẩy những nghiên cứu điều tra giả thuyết về ô nhiễm và tăng trưởng kinh tế cũng như hội nhập thương mại. Nghiên cứu đầu tiên về tác động của chỉ số Carbon đến tăng trưởng kinh tế là nghiên cứu của Grossman và Krugger (1991)[3]. Hai tác giả đã cho rằng việc giảm bớt các rào cản thương mại và mở rộng các hoạt động kinh tế sẽ ảnh hưởng đến môi trường. Nghiên cứu này cũng đã đưa ra những bằng chứng thực nghiệm để đánh giá mức độ tương đối của ba tác động này áp dụng quá trình tự do hóa thương mại tại Mexico. Kemfert và Trường (2012) sử dụng một phiên bản mở rộng của mô hình GTAP gọi GTAP-E, trong đó bao gồm mô hình GTAP tiêu chuẩn và kết hợp lượng khí thải carbon. Từ kết quả phân tích cho thấy, lượng khí thải carbon trên toàn cầu đã giảm thông qua thuế carbon. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: kết hợp thay thế năng lượng vào mô hình GTAP là cần thiết. Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới đang thực hiện các chiến dịch giảm phát thải khí nhà kính để thích ứng với biến đổi khí hậu thì mô hình GTAP-E được sử dụng rộng rãi [4]. Tiếp đó, World Bank (2010) cũng có nghiên cứu “Xem xét và phân tích ảnh hưởng của ô nhiễm từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam” sử dụng bộ dữ liệu từ IPPS. Tuy nhiên trong nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc xếp hạng các ngành, vùng gây ô nhiễm nhiều nhất ở Việt Nam nhưng không lý giải tại sao các ngành, vùng đó lại gây ra ô nhiễm nhiều nhất. Naranpanawa (2011)[5] đã sử dụng mô hình tự hồi quy phân phối trễ (ARDL) và kỹ thuật đồng liên kết Johansen để điều tra mối quan hệ dài hạn giữa phát triển kinh tế với môi trường thương mại. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng chỉ có một mối quan hệ ngắn hạn giữa thương mại và lượng khí thải carbon. Keho (2015) cũng sử dụng mô hình ARDL nhưng với số liệu mảng để phân tích tác động lâu dài của thương mại quốc tế đối với môi trường và kết luận rằng thương mại quốc tế dẫn đến suy thoái môi trường ở 11 208
  5. quốc gia ECOWAS trong giai đoạn 1970 đến 2010 [6]. Rahman & Kashem (2017) đã sử dụng mô hình ARDL và nhân quả Granger của Toda và Yamamoto (1995) để xem xét các mối quan hệ giữa lượng khí thải carbon, sử dụng năng lượng và phát triển công nghiệp ở Bangladesh từ năm 1972 đến năm 2011[7]. Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy mối liên hệ dài hạn và mối quan hệ nhân quả giữa các biến. Ngoài ra, các nghiên cứu còn chỉ ra mối liên hệ tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng lượng CO2 trong giai đoạn nghiên cứu. Nghiên cứu của Esso và Keho (2016) đã cho cho thấy mối liên hệ nhân quả và dài hạn giữa tiêu thụ năng lượng, phát thải CO2 và tăng trưởng kinh tế ở một số nước châu Phi[8]. Shahbaz và cộng sự (2017) [9] đã điều tra tác động của mở cửa thương mại đối với lượng phát thải CO2 của 105 quốc gia từ năm 1980 đến năm 2014. Trong phân tích chuỗi thời gian, họ phát hiện ra rằng mở cửa thương mại góp phần làm gia tăng lượng phát thải CO2 của phần lớn các quốc gia được điều tra. Tuy nhiên, độ mở thương mại có ảnh hưởng không đáng kể đến lượng phát thải CO2 trong trường hợp của Tunisia. Nghiên cứu cũng tìm thấy những tác động tích cực của mở cửa thương mại và thu nhập đối với phát thải CO2. Mahmood và Alkhateeb (2017)[10] đã kiểm tra giả thuyết EKC ở Ả Rập Saudi trong giai đoạn 1970 - 2016. Họ phát hiện ra sự tồn tại của giả thuyết về đường cong môi trường của Kuznets EKC (Environmental Kuznets curve) và tác động tiêu cực của thương mại đối với lượng khí thải CO2. Nghiên cứu cũng đã kiểm tra các yếu tố quyết định lượng phát thải CO2 trên đầu người và giả thuyết EKC ở Ai Cập trong giai đoạn 1990-2014. Họ đã tìm thấy giả thuyết EKC ở Ai Cập và ảnh hưởng không đáng kể của việc mở cửa thương mại trong trường hợp này. Hơn nữa, họ đã tìm thấy tác động tích cực và tiêu cực của tiêu thụ năng lượng và FDI đối với lượng phát thải CO2 trên đầu người, tương ứng. Balsalobre-Lorente, lvarez-Herranz, & Shahbaz (2019)[11] đã sử dụng đường cong Kuznets để kiểm tra mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm carbon trong một nhóm gồm 16 quốc gia thuộc tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD) trong giai đoạn 1995 - 2016 và thấy rằng trong quá trình phát triển năng lượng, tính bền vững của môi trường bị cản trở khi các nền kinh tế đối phó với sự mất cân bằng thể chế. Các tác giả đã chứng minh giả thuyết của đường cong Kuznet và cho thấy tăng trưởng kinh tế rộng rãi và sử dụng điện tái tạo ở 17 quốc gia OECD đã làm giảm ô nhiễm môi trường từ năm 1990 - 2012. Michieka và Fletcher (2002) [12] đã sử dụng mẫu khoảng 20 quốc gia đang phát triển và cho thấy sự suy giảm rõ rệt về cường độ năng lượng khi đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên. Lý do cho sự suy giảm trên có thể là do việc sử dụng các công nghệ hiện đại đi kèm với đầu tư trực tiếp nước ngoài, tức là một bước nhảy vọt so với các công nghệ truyền thống lỗi thời đang được sử dụng ở những nước này và do đó giảm lượng phát thải gây ô nhiễm môi trường. 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 3.1. Dữ liệu Số liệu phân tích trong nghiên cứu này của nhóm tác giả dựa trên thống kê dữ liệu của Tổng cục Thống kê Việt nam và Ngân hàng Thế giới (World bank) giai đoạn từ 1991 - 2020. Các số liệu được trích xuất bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, độ mở thương mại của Việt Nam và lượng khí thải CO2 trong giai đoạn từ 1991 đến 2020. 209
  6. 3.2. Các biến nghiên cứu Để làm rõ mối quan hệ giữa lượng phát thải CO2, tăng trưởng kinh tế và độ mở thương mại, nghiên cứu này sẽ cấu trúc gồm 3 biến bao gồm: tăng trưởng kinh tế (GDP), độ mở thương mại (TOP) và lượng khí thải CO2 (CO2). Để khắc phục tình trạng phương sai sai lệch trong dữ liệu và sự biến động mạnh dữ liệu, các giá trị trong mỗi ba biến đều được chuyển sang Logarit. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Mô hình nghiên cứu Vector tụ hồi qui (VAR) là một mô hình quy trình ngẫu nhiên được sử dụng để nắm bắt các phụ thuộc tuyến tính giữa các biến chuỗi thời gian. Các mô hình VAR tổng quát hóa mô hình tự phát đơn biến (mô hình AR) bằng cách cho phép nhiều hơn một biến phát triển. Tất cả các biến trong VAR nhập mô hình theo cùng một cách: mỗi biến có một phương trình giải thích sự tiến hóa của nó dựa trên các giá trị bị trễ của chính nó. Phương pháp nghiên cứu dự báo đa biến này được sử dụng khi hai hay nhiều chuỗi thời gian ảnh hưởng lẫn nhau. Mô hình VAR chuẩn có dạng như sau: Xt = A0 + A1Xt-1+…+ ApXt-p + et với t = 1,2…t Trong đó Xt là biến vecto nội sinh k chiều và p là bậc trễ. Ap là ma trận hệ số k chiều, et là sai số ngẫu nhiên. Mô hình VAR có thể được sử dụng để đánh giá mối quan hệ động giữa các biến nội sinh chung và sự tương tác giữa chúng với các giả định kinh tế tối thiểu. Mô hình VAR và phân rã phương sai để kiểm định tác động giữa 3 biến tăng trưởng kinh tế (GDP), độ mở thương mại (TOP) và lượng khí thải CO2 (CO2) được cụ thể lại thành ba phương trình như sau: LNGDPt =  + iLNGDPit-1 + jLNTOPt-j + mLNCO2t-m + u1t LNTOPt =  + iLNGDPit-1 + jLNTOPt-j + mLNCO2t-m + u2t LNCO2t = d + iLNGDPit-1 + jLNTOPt-j + mLNCO2t-m + u3t 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Kiểm định tính dừng Kiểm định tính dừng sẽ tránh được tình trạng chuỗi hồi quy giả. Tuy nhiên, nếu một tổ hợp tuyến tính giữa các chuỗi không dừng là một chuỗi dừng thì hồi quy là hồi quy thực và các chuỗi thời gian không dừng đó được cho là đồng liên kết. Nói cách khác, nếu phần dư trong mô hình giữa các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi quy là thực và thể hiện mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến trong mô hình. Kết quả kiểm định cho thấy cả ba biến đều dừng ở sai phân bậc 1 (bảng 1). Bảng 1: Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu Tên biến Kiểm định t-Statistic P value Bậc sai phân ADF LNCO2 -4.808585 -3.699871 0.0007 1 -2.976263 -2.627420 LNTOP -3.699871 1 210
  7. -4.524879 -2.976263 0.0014 -2.627420 LNGDP -4.828096 -3.689194 0.0006 1 -2.971853 -2.625121 Nguồn: Trích kết quả xử lý dữ liệu nghiên cứu của nhóm tác giả 4.2. Xác định độ trễ tối ưu cho mô hình Kiểm tra độ trễ trong mô hình VAR là một yêu cầu rất quan trọng. Việc đánh giá chính xác độ trễ của mô hình sẽ giúp việc xác định mô hình VAR được tối ưu hơn (Bảng 2). Bảng 2: Kiểm định độ trễ cho các biến trong mô hình Lag LogL LR FPE AIC SC HQ 0 32.60030 NA 2.06e-05 -2.276946 -2.131781 -2.235144 1 104.2681 121.2840* 1.67e-07* -7.097547* -6.516887* -6.930338* 2 111.8518 11.08388 1.93e-07 -6.988601 -5.972447 -6.695986 3 120.2268 10.30770 2.20e-07 -6.940525 -5.488875 -6.522502 4 126.0133 5.786484 3.34e-07 -6.693331 -4.806187 -6.149902 Dấu * thể hiện độ trễ gợi ý của mỗi tiêu chí Nguồn: Trích kết quả xử lý dữ liệu nghiên cứu của nhóm tác giả Tiêu chuẩn SC và HQ chỉ ra độ trễ là 2, trong khi FPE và AIC đưa ra độ trễ là 2, và cuối cùng LR đưa ra độ trễ là 1 (bảng 2). Khi sử dụng độ trễ là 1 có thể dẫn đến thứ tự tương quan trong các phần dư và không thể khái quát mô hình một cách thỏa đáng. Nếu sử dụng quá nhiều bậc trễ trong mô hình thì có thể dẫn đến nhiều phản ứng đẩy, có đường dao động mạnh theo thời gian, bởi vì nó có thể không thỏa mãn điều kiện ổn định cho mô hình VAR. Vì vậy, nhóm tác giả nhận định độ trễ tối ưu 2 là phù hợp. Bên cạnh đó, độ trễ 2 cũng thỏa mãn các điều kiện cần tốt hơn. 4.3. Kiểm định độ ổn định của mô hình Việc kiểm định sự ổn định của mô hình là bước rất quan trọng trong việc đánh giá mô hình và đưa ra kết quả đánh giá chính xác hơn. Một mô hình được cho là ổn định nếu tất cả các đơn vị gốc của đa thức dặc trưng AR đều nằm trong vòng trong đơn vị. 211
  8. Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial 1.5 1.0 0.5 0.0 -0.5 -1.0 -1.5 -1.5 -1.0 -0.5 0.0 0.5 1.0 1.5 Hình 3: Kiểm định độ ổn định của mô hình Nguồn: Trích kết quả xử lý dữ liệu nghiên cứu của nhóm tác giả Hình 3 cho thấy tất cả các giá trị của đơn vị gốc đều nằm trong vòng tròn đơn vị, điều đó chứng tỏ mô hình ước lượng có tính ổn định. 4.4. Ước lượng mô hình VAR Với độ trễ bằng 2, ta có kết quả của mô hình VAR thể hiện trong bảng 3 như sau: Bảng 3: Kết quả ước lượng mô hình VAR LNCO2 LNGDP LNTOP LNCO2(-1) 0.976035 -0.116800 0.220281 (0.26844) (0.51728) (0.25299) [ 3.63597] [-0.22580] [ 0.87070] LNCO2(-2) -0.230798 0.251799 0.168597 (0.22813) (0.43961) (0.21500) [-1.01170] [ 0.57278] [ 0.78416] LNGDP(-1) 0.028293 0.797621 0.016240 (0.11516) (0.22191) (0.10853) [ 0.24569] [ 3.59429] [ 0.14963] LNGDP(-2) 0.001558 -0.324609 0.047598 (0.09106) (0.17548) (0.08582) [ 0.01711] [-1.84987] [ 0.55462] 212
  9. LNTOP(-1) 0.432011 -0.667435 0.156920 (0.26440) (0.50950) (0.24919) [ 1.63393] [-1.30998] [ 0.62973] LNTOP(-2) 0.047627 0.257035 0.055222 (0.25882) (0.49874) (0.24393) [ 0.18402] [ 0.51537] [ 0.22639] C -2.317749 3.018108 3.747352 (1.95653) (3.77023) (1.84395) [-1.18462] [ 0.80051] [ 2.03224] R-squared 0.992011 0.585167 0.971663 Nguồn: Trích kết quả xử lý dữ liệu nghiên cứu của nhóm tác giả Kết quả mô hình VAR cho thấy với sự gia tăng của GDP và độ mở thương mại (TOP) thì tác động cùng chiều đến mức độ gia tăng của lượng khí thải CO2 Nếu độ mở thương mại (TOP) gia tăng 1 đơn vị thì tại độ trễ 2 năm với các biến khác không đổi thì lượng CO2 sẽ gia tăng ở mức 4,7%. Nếu tăng trưởng kinh tế (GDP) gia tăng 1 đơn vị thì ở độ trễ 2 năm với các biến khác không đổi thì lượng CO2 sẽ gia tăng ở mức 2.8%. 5. Kết luận và gợi ý chính sách Bài viết sử dụng phương pháp kiểm định mô hình VAR nhằm kiểm định quan hệ hồi quy tuyến tính giữa các biến nhưng có tính đến độ trễ thời gian giữa các biến. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số phát hiện đáng lưu ý về quan hệ giữa độ mở thương mại, tăng trưởng kinh tế và giảm phát thải CO2 của Việt Nam trong giai đoạn 1990 -2020. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy có một mối quan hệ tuyến tính giữa độ mở thương mại, phát triển tế và giảm phát thải ở độ trễ 2 năm. Mối quan hệ giữa độ mở thương mại và CO2 là mối quan hệ tương quan dương nghĩa là nếu độ mở thương mại tăng thì sẽ làm gia tăng lượng khí thải CO2 và ngược lại. Trên cơ sở các kết quả đạt được, nghiên cứu đã cho thấy rằng, tự do hóa thương mại đóng vai trò rất lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên tự do hóa thương mại cũng tác động lớn tới môi trường, vì vậy Chính phủ Việt Nam cần có các chiến lược để thay đổi môi trường quốc gia một cách toàn diện. Các hệ thống quản trị đang được thay đổi liên tục thông qua quá trình cải cách hành chính công. Trở thành thành viên của các tổ chức thương mại quốc tế và thỏa thuận ký kết các hiệp định thương mại cũng là những yếu tố bổ sung vào quy mô và động lực cho sự thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam. Mỗi điều luật mới được Quốc hội thông qua chính là sự cải cách mạnh mẽ của Chính phủ và các ngành nhằm thúc đẩy sự tiến bộ trong nước, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, như việc sửa đổi: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Quản lý tài nguyên. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng đã được điều chỉnh. 213
  10. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của Chính phủ trong cải cách hành chính thì vấn đề môi trường đang có dấu hiệu suy giảm. Dựa trên nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy trong thời gian tới Chính phủ cần đưa ra những chính sách phù hợp nhằm tăng trưởng kinh tế, tăng cường độ mở thương mại nhưng vẫn phải giảm lượng khí thải theo các cam kết của chính phủ về việc giảm lượng phát thải. Để thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu là giảm khí thải CO2 và tăng trưởng kinh tế cũng như gia tăng độ mở thương mại cần thực hiện những chiến lược tăng trưởng bền vững gắn chặt với các chính sách bảo vệ môi trường. Với chiến lược thu hút FDI ngày càng lớn cũng như việc kết hợp các chiến lược xuất nhập khẩu thì độ mở thương mại của nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Độ mở thương mại tăng phản ánh xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng nhưng cũng có những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam. Do đó, cần có các chính sách tăng cường quản lý môi trường trong chính sách thu hút vốn đầu tư cũng như các doanh nghiệp FDI. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, Việt Nam đang là quốc gia “chứa ô nhiễm” thông qua các dự án FDI. Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2025, vì vậy, các chính sách khuyến khích kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài chưa thực sự chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường. Chính phủ Việt Nam cần hạn chế những dự án FDI gây ô nhiễm môi trường sâu. Vị trí địa lý để thực hiện những dự án FDI cũng là điều rất quan trọng, quy hoạch tổng để phòng ngừa các sự cố môi trường xảy ra. Bên cạnh đó, cần thẩm định công nghệ trước quá trình thực hiện dự án, tránh những công nghệ lạc hậu đội lốt dự án đầu tư. Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách kích thích, khơi thông nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong nước nhằm tăng mức đóng góp của khu vực doanh nghiệp trong tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một quốc gia không thể phát triển bền vững trong dài hạn nếu khu vực kinh tế tư nhân không phát triển. Tài liệu tham khảo 1. J. M. Keynes, The general theory of employment, interest, and money. 2018. 2. WorldBank, “Data,” 2021. 3. G. Grossman and A. Krueger, “Environmental Impacts of a North American Free Trade Agreement,” Natl. Bur. Econ. Res., 1991. 4. T. P. Truong and C. Kemfert, “WIATEC: A World Integrated Assessment Model of Global Trade Environment and Climate Change,” SSRN Electron. J., 2012. 5. A. Naranpanawa, “Does Trade Openness Promote Carbon Emissions? Empirical Evidence from Sri Lanka,” Empir. Econ. Lett., vol. 10, no. 10, 2011. 6. Y. Keho, “Foreign Direct Investment, Exports and Economic Growth: Some African Evidence,” J. Appl. Econ. Bus. Res. JAEBR, vol. 5, no. 4, 2015. 7. M. M. Rahman and M. A. Kashem, “Carbon emissions, energy consumption and industrial growth in Bangladesh: Empirical evidence from ARDL cointegration and Granger causality analysis,” Energy Policy, vol. 110, 2017. 214
  11. 8. L. J. Esso and Y. Keho, “Energy consumption, economic growth and carbon emissions: Cointegration and causality evidence from selected African countries,” Energy, vol. 114, 2016. 9. M. Shahbaz, S. Nasreen, K. Ahmed, and S. Hammoudeh, “Trade openness-carbon emissions nexus: The importance of turning points of trade openness for country panels,” Energy Econ., vol. 61, 2017. 10. H. Mahmood and T. T. Y. Alkhateeb, “Trade and environment nexus in Saudi Arabia: An environmental Kuznets curve hypothesis,” Int. J. Energy Econ. Policy, vol. 7, no. 5, 2017. 11. D. Balsalobre-Lorente, A. Álvarez-Herranz, and M. Shahbaz, “The Long- Term Effect of Economic Growth, Energy Innovation, Energy Use on Environmental Quality,” in Green Energy and Technology, 2019. 12. N. M. Michieka, J. Fletcher, and W. Burnett, “An empirical analysis of the role of China’s exports on CO2 emissions,” Appl. Energy, vol. 104, 2013. 13. Nguyen Duy Loi (2010), The impact of trade liberalization on the environment in some East Asian countries, Vietnam, University of Rouen Institute of World Economics and Politics, Vietnam Academy of Social Sciences. 14. Pham Thai Hung Bui Anh Tuan and Nguyen The Chinh (2018), 'The Impact of Trade Liberalization on Industrial Pollution: Empirical Evidence from Vietnam', Economy and Environment Program for Southeast Asia. 215
nguon tai.lieu . vn