Xem mẫu

  1. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM Trần Huy Cương Đoàn Văn Phụ Tóm tắt Trên cơ sở phân tích các số liệu thống kê về quá trình phát triển của ngành thủy sản, kế thừa  các kết quả nghiên cứu đã được công bố, bài viết này đã đề cập đến khái niệm PTBV trong  lĩnh vực khai thác hải sản. Từ hiện trạng khai thác hải sản, bài viết đã phân tích, lựa chọn các  tiêu chí quan trọng để đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động khai thác hải sản  đến phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản, đồng thời đánh giá  hệ thống chính sách liên quan đã được các cấp có thẩm quyền ban hành trong thời gian qua.   Những đánh giá trên quan điểm PTBV sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản  lý có cái nhìn toàn diện hơn trong việc đưa ra các quyết sách phù hợp, để vừa đạt mục tiêu  phát triển đất nước hôm nay, vừa cho sự phát triển của các thế hệ mai sau.Quan điểm PTBV  về  lĩnh  vực  khai  thác  hải  sản  muốn  thành  công,  cần  phải  có  sự  đồng  thuận  của  cả  trung  ương, của cả địa phương và đặc biệt là cộng đồng ngư dân ven biển.    Mở đầu Chính phủ Việt Nam đã cam kết với quốc tế thực hiện đầy đủ Chương trình Nghị sự 21 về  phát triển bền vững (PTBV). Sự cam kết này được thể hiện ở Chỉ thị số 36 ‐ CT/TW ngày 25‐ 06‐1998 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện  đại hóa đất nước. Quan điểm PTBV cũng được  khẳng định lại tại Đại hội Đảng lần thứ IX và  trong Chiến lược phát triển kinh tế‐ xã hội năm 2000 ‐ 2010 là: “ Phát triển nhanh, hiệu quả  và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ  môi trường”.    Ngành thủy sản là ngành kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn lợi tự nhiên tái tạo được. Việc sử  dụng các nguồn tài nguyên một cách bền vững không chỉ đảm bảo cho phát triển đất nước  ngày hôm nay mà còn để cho muôn đời con cháu sau này. Trước mắt, PTBV ngành thủy sản  tập trung vào 3 lĩnh vực khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản và bảo vệ môi trường, nguồn  lợi thủy sản. Ở mỗi lĩnh vực, PTBV được đánh giá theo các yếu tố: kinh tế ‐  xã hội, bảo vệ  môi trường nguồn lợi và thực hiện các thể chế chính sách đã được ban hành liên quan đến  hoạt động thủy sản. Bài viết này giới hạn trong đánh giá lĩnh vực khai thác hải sản.    PTBV  là  khái  niệm  còn  khá  mới  mẻ  ở  Việt  Nam  nói  chung  và  ngành  thủy  sản  nói  riêng.  Những nội dung trình bày sau đây mới chỉ là những nghiên cứu ban đầu.    1. Hiện trạng khai thác Tàu  thuyền  gắn  máy  tăng  mạnh,  từ  29.584  chiếc  (1981)  lên  90.880  chiếc  (2005),  tốc  độ  tăng  bình quân 4,79%/năm, tương ứng  2.554 chiếc / năm.  Tổng công suất tăng rất mạnh, từ 453.871 CV (1981) lên 5.314.447 CV (2005), tốc độ tăng bình  quân 10,80%/năm, tương ứng với mức tăng 202.524 CV/năm. Trong tổng số tàu thuyền, loại  32 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
  2. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản tàu  có  công  suất 
  3. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản Biểu đồ năng suất khai thác 1 3,50 0,9 3,00 0,8 0,7 2,50 Tấn /ngườ i/năm Tấn /CV/năm 0,6 2,00 0,5 0,4 1,50 0,3 1,00 0,2 0,50 0,1 0 0,00 9 0 91 92 9 3 94 95 96 9 7 98 99 0 0 0 1 02 03 0 4 05 19 1 9 19 19 1 9 1 9 19 19 19 19 20 20 2 0 20 20 20 Năng suất (tấn/cv/năm) Năng suất lao động (tấn/người/năm) Nhận xét chung: ‐  Theo số liệu thống kê, số lượng tàu thuyền khai thác và tổng công suất tăng khá nhanh,  nhưng trong thực tế còn có một số khá lớn tàu thuyền khai thác xa bờ, sản xuất không  hiệu quả nên nằm tại bờ không thống kê được cụ thể. Vì vậy số liệu trên còn thiếu sức  thuyết  phục.  Chính  do  số  liệu  thiếu  chính  xác  nên  chỉ  tiêu  hiệu  suất  khai  thác  (tấn/cv/năm) chưa phản ánh đúng thực tế sản xuất.   ‐  Xu hướng số lượng tàu gắn máy khai thác ngày càng giảm do triển khai Quyết định số  10/2006/QĐ‐  TTg,  theo  đó  sẽ  ổn  định  khoảng  50.000  chiếc  vào  năm  2010.  Tốc  độ  tăng  công suất cũng thấp hơn thời gian vừa qua một mặt do giảm số lượng tàu, mặt khác do  chí phí nhiên liệu tăng nên đầu tư để đóng mới các tàu  công suất lớn sẽ hạn chế.   ‐  Xu  hướng  tăng  sản  lượng  cũng  sẽ  hạn  chế  vì  theo  tính  toán  của  các  nhà  khoa  học,  sản  lượng khai thác đã đến giới hạn cho phép, và cũng phù hợp với tinh thần của Quyết định  số 10 nói trên.  ‐  Lao  động  khai  thác  sẽ  giảm  do  số  lượng  tàu  thuyền  khai  thác  giảm,  một  phần  do  tác  động của Quyết định số  10 sẽ ổn định số  lượng lao động vào năm 2010, phần khác do  nghề khai thác nhiều rủi ro nên một số con em ngư dân không muốn theo nghề.   ‐  Lực lượng sản xuất tăng mạnh gồm số lượng tàu thuyền máy, công suất, công suất bình  quân/tàu và lực lượng lao động tăng hàng năm nhưng quan hệ sản xuất chưa phù hợp,   khâu tổ chức sản xuất chưa được chú trọng, hiệu quả sản xuất thấp.    2. Đánh giá khai thác hải sản từ góc độ kinh tế Trong giai đoạn 1981‐2005, công suất khai thác tăng bình quân 202.524 CV/năm. Để đầu tư  cho 1 CV cần 4‐5 triệu đồng theo giá hiện hành  (tính toán của Viện Kinh tế và Quy hoạch  thủy sản), như vậy mỗi năm đã đầu tư từ 810‐ 1.012 tỷ đồng để đóng mới các tàu cá. Việc  đầu  tư  này  thể  hiện  mức  độ  công  nghiệp  hoá,  hiện  đại  hoá  ngành  thuỷ  sản,  từng  bước  chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu sản phẩm trong khai thác hải sản, vươn ra khai thác  xa bờ nhằm tăng sản lượng khai thác.      34 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
  4. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản Sản lượng hải sản tăng đã cung cấp nguồn nguyên liệu ngày càng nhiều cho các cơ sở chế  biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu để đầu tư lại cho  ngành và tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước, đồng thời đóng góp thêm lượng đạm động vật  từ thủy sản trong thành phần dinh dưỡng của người dân.  Giá  trị  sản xuất  là  một  chỉ  tiêu  quan  trọng  phản  ánh hoạt động  của  lĩnh  vực  khai  thác  hải  sản. Từ năm 1990 đến năm 2004,  trong khi tốc độ tăng sản lượng khai thác bình quân là 5,5‐6  %/năm, thì tốc độ tăng giá trị sản xuất là 7,4 %/năm. Như vậy giá bán sản phẩm (theo giá so  sánh năm 1990) đã có lợi cho người sản xuất, cơ cấu mặt hàng thay đổi theo hướng khai thác  nhiều hơn các loài hải sản có giá trị kinh tế cao.  Vốn đầu tư là chỉ tiêu quan trọng phản ánh lượng tiền cần bỏ ra để đầu tư cho tàu thuyền và  ngư lưới cụ để có thể tiến hành khai thác được ở một số nghề:  Nghề lưới kéo đơn xa bờ:, loại tàu công suất từ 151‐ 300 CV:  đầu tư cao nhất là vùng biển  vịnh Bắc Bộ (778 triệu đồng), Tây Nam Bộ ( 396 triệu đồng), Đông Nam Bộ (321 triệu đồng).  Loại tàu từ 90‐ 150 CV ở vùng biển miền Trung có mức đầu tư 164 triệu đồng.  Nghề kéo đôi xa bờ, loại tàu từ 151‐300 CV: đầu tư cao nhất là vùng biển miền Trung ( 2.228  tỷ đồng), vịnh Bắc Bộ (1,860 tỷ đồng), Đông Nam Bộ (1,032 tỷ đồng) và thấp nhất là khu vực  Tây Nam Bộ (1,008 tỷ đồng).  Nghề  lưới  vây,  loại  tàu  từ  151‐300CV:  đầu  tư  cao  nhất  là  vùng  biển  Đông–  Tây  Nam  Bộ  (809,5  triệu  đồng),  vịnh  Bắc  Bộ  (788  triệu)  và  thấp  nhất  là  vùng  biển  miền  Trung  (gần  640  triệu đồng).  Nghề lưới rê, loại tàu từ 141‐299 CV: đầu tư ở vùng biển Đông Nam Bộ (1,115 tỷ đồng) và ở  vùng biển miền Trung (713 triệu đồng).  Nghề câu vàng chỉ phát triển ở các tỉnh Nam Trung Bộ, loại tàu từ 141‐ 299 CV có mức đầu  tư 786 triệu đồng.  Nghề chụp mực chủ yếu có ở các tỉnh phía bắc, loại tàu từ 151‐ 300 CV có mức đầu tư  564  triệu đồng.  Hiệu quả kinh tế của một số nghề khai thác Chúng tôi chỉ sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận (lợi nhuận/tổng vốn đầu tư) phản ánh việc  đầu tư 1 đồng vốn thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.   Nghề lưới kéo đơn: loại tàu từ 90‐ 150 CV: tỷ suất lợi nhuận cao nhất là ở vùng biển miền  Trung  là 1,13.  Loại  tàu  từ  151‐  300  CV:  tỷ  suất  lợi  nhuận  ở  khu  vực  Tây  Nam  Bộ  (0,25),  Đông  Nam  Bộ             ( 0,155 ) và thấp nhất ở vùng biển vịnh Bắc Bộ (0,004 ).  Nghề lưới kéo đôi: loại tàu từ 151‐ 300 CV: tỷ suất lợi nhuận cao nhất là ở khu vực Tây Nam  Bộ (0,28), vùng biển Đông Nam Bộ (0,11), khu vực vịnh Bắc Bộ (0,045). Riêng vùng biển miền  Trung bị lỗ (‐ 0,009 ).    Nghề lưới vây: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ 151‐300 CV, cao nhất là khu vực biển Đông‐  Tây  Nam  Bộ  (0,35),  tiếp  đến  vịnh  Bắc  Bộ  (0,22)  và  thấp  nhất  là  khu  vực  biển  miền  Trung  (0,19).  Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận" 35
  5. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản Nghề lưới rê: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ 141‐ 299 CV, ở vùng biển miền Trung (0,13 ) và  vùng biển Đông Nam Bộ là (0,10 ).    Nghề câu vàng: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ 141‐ 299 CV ở vùng biển Nam Trung Bộ là  0,025 .      Nghề chụp mực: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ  151‐ 300 CV ở vùng biển vịnh Bắc Bộ  là  0,13.    3. Đánh giá khai thác hải sản từ góc độ xã hội Tổ chức sản xuất kém hiệu quả: Việc nghiên cứu, tìm ngư trường mới chưa thực sự có hiệu  quả, không chỉ ra được cho ngư dân địa điểm  khai thác; Các tổ hợp tác và hợp tác xã sản  xuất còn ít, hoặc nếu có cũng chỉ tồn tại một cách hình thức; Hệ thống cung ứng và dịch vụ  cho khai thác, nhất là các tàu xa bờ chưa được tổ chức tốt, còn mang tính tự phát; Công nghệ  bảo quản sản phẩm sau thu hoạch còn sơ sài; Thiếu sự tham gia quản lý của cộng đồng dẫn  đến việc khai thác quá mức cho phép ở vùng biển gần bờ.    Việc  thu  hút  được  lượng  lớn  lao  động  hàng  năm  (bình  quân  50.400  người  /năm)  đã  tạo  ra  nhiều việc làm cho người lao động,tăng thu nhập và nâng dần mức sống của ngư dân. Trình  độ lao động khai thác hải sản (trừ khối quốc doanh) còn thấp: số lao động có trình độ văn  hoá cấp 2 chỉ chiếm khoảng 20 %, còn lại là trình độ cấp 1 và chưa biết chữ. Hầu hết ngư dân  đi biển theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Số lao động ngoài quốc doanh (chiếm trên 90 %  tổng số lao động khai thác) đa số là những người nghèo không mua sắm được phương tiện  khai thác phải đi làm thuê (thợ bạn) cho các chủ tàu.    Nghề khai thác là một nghề nặng nhọc và đầy rủi ro, kể cả tính mạng con người và phương  tiện khai thác.    Đời sống của ngư dân còn thấp (thu nhập của 1 ngư dân năm 2003 chỉ đạt khoảng 2,4 triệu  đồng/ năm), khó có điều kiện chuyển sang các nghề  khác, con em  họ cũng khó có điều kiện  đi học ở cấp phổ thông trung học và  cao hơn.    Vấn đề cạnh tranh trong khai thác hải sản chưa được giải quyết:  Đó là cạnh tranh giữa tàu  cá trong và ngoài nước, cạnh tranh giữa tàu cá của các địa phương khác nhau và cạnh tranh  giữa nghề khai thác xa bờ và ven bờ.    Xây dựng nông thôn mới ven biển: Hệ thống các cơ sở dịch vụ được mở rộng, hệ thống cơ sở  hạ tầng xã hội như điện, nước, đường giao thông, trường học, bệnh xá …làm thay đổi bộ mặt  nông thôn ven biển. Lực lượng lao động khai thác thường xuyên bám biển để sản xuất cũng  đã góp phần cùng các lực lượng khác giữ gìn an ninh trên biển. Ngư dân ra biển khai thác  góp phần đảm bảo an ninh và quốc phòng.    4. Đánh giá khai thác hải sản từ góc độ môi trường và nguồn lợi thuỷ sản Tình trạng đánh bắt có tính tận diệt và huỷ diệt vẫn chưa chấm dứt: Từ năm 1998‐ 2000, các  cơ quan chuyên ngành đã bắt 843 trường hợp sử dụng chất nổ, 19.658 vụ sử dụng xung điện  và 106 trường hợp dùng hoá chất độc khai thác hải sản. Ngoài ra, hiện tượng khai thác rạn  36 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
  6. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản san hô để bán cho các nhà máy sản xuất xi măng và khách du lịch diễn ra khá thường xuyên  ở khu vực biển miền Trung. Hầu hết các ngư cụ sử dụng để khai thác hải sản đều  vi phạm  quy định về kích thước mắt lưới. Do vậy tỷ lệ cá tạp và cá nhỏ trong mẻ lưới cao:  chiếm 60‐  80% trong sản lượng của các mẻ lưới kéo tôm; 40 –80% đối với lưới kéo cá; 90% đối với lưới  đáy; 90‐ 93 % đối với lưới te, xiệp. Các ngư cụ bị cấm vì huỷ diệt nhiều cá con như đăng, đáy  cửa sông, te đẩy vẫn hoạt động.  Lượng  rác  thải  vẫn  xả  trực  tiếp  xuống  biển:  Các  đội  tàu  khai  thác  hải  sản  hàng  ngày  thải  xuống biển những chất rắn như chất thải sinh hoạt, các ngư cụ hỏng, các túi nylon bảo quản  cá…làm cho môi trường biển bị ô nhiễm. Trong số các chất thải, nguy hiểm nhất là lưới hỏng  vì  sau  khi  vứt  xuống  biển    sẽ  làm  cho  một  số  loài  hải  sản  bị  đóng  lưới  và  chết.  Ngư  dân  thường không ý thức được hậu quả của những hành động vô tình này.   Hiện tượng ô nhiễm dầu tăng: Theo đánh giá sơ bộ có khoảng 61,5‐ 86,5 % tổng lượng dầu rò  rỉ trong quá trình khai thác, sửa chữa của các tàu cá chảy ra biển. Hệ số ô nhiễm dầu ở các  cửa sông phía bắc đã tăng từ 0,8mg/l/ năm (1995) lên 2,2 mg/l (năm 2001). Tại 4 cảng cá miền  Bắc gồm Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Đồ Sơn và Diêm Điền đều có dấu hiệu ô nhiễm dầu, trong đó  cao nhất là cảng cá Cát Bà (0,28 mg/l) và thấp nhất là Bạch Long Vĩ (0,01 mg/l). Tháng 8/1998,  hàm lượng dầu đo được tại vùng giữa vịnh Bắc Bộ là 0,108 mg/l.  Nguồn  lợi  hải  sản  ven  bờ  có  dấu  hiệu  suy  giảm:  Hơn  80  %  tổng  sản  lượng  khai  thác  là  ở  vùng nước ven bờ, thành phần sản lượng và kích thước khai thác của các loài có giá trị kinh  tế cao ngày một giảm.    5. Đánh giá các thể chế chính sách liên quan đến khai thác hải sản Các văn bản pháp luật liên quan đến khai thác thuỷ sản đã được ban hành khá đầy đủ: 12  văn bản từ Luật Thủy sản, các nghị định, thông tư của Chính phủ và các quyết định của Bộ  Thủy sản...), 4 chính sách (chủ yếu là miễn giảm thuế, cho vay ưu đãi). Các văn bản này đã  đề cập đến  tính PTBV, nhưng khi đi vào cuộc sống ít đạt hiệu quả, chưa phát huy được tác  dụng trong thực tế.  Lực lượng giám sát và thực thi các văn bản liên quan đến khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy  sản (chủ yếu là lực lượng thanh tra thủy sản) chưa đủ mạnh, các vụ vi phạm chưa được ngăn  chặn có hiệu quả.    6 . Kết luận và kiến nghị Kết luận Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển , số lượng tàu thuyền, công suất và lực lượng lao  động đều tăng, nhưng quan hệ sản xuất (tổ chức sản xuất) chưa phù hợp đã làm giảm hiệu  quả khai thác.  Khai thác có tính tận diệt và hủy diệt chưa chấm dứt, mắt lưới quá nhỏ so với quy định, sử  dụng xung điện, thuốc nổ và hóa chất độc hại chưa được ngăn chặn đã làm cho nguồn lợi  ngày càng suy giảm.  Sản lượng khai thác hải sản ven bờ đã vượt quá ngưỡng khai thác cho phép, lượng cá con  trong các mẻ lưới ngày càng tăng.  Đời  sống  của  đại  bộ  phận  ngư  dân  còn  thấp,  khó  có  điều  kiện  để  đầu  tư  đóng  mới  tàu  thuyền khai thác và tạo sinh kế khác.  Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận" 37
  7. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản Kiến nghị Triển khai sớm Quyết định số 10/2006/QĐ_TTg  nhằm duy trì và giữ ổn định sản lượng khai  thác từ 1,5 ‐1,8 triệu tấn vào năm 2010 và các năm tiếp theo.    Giảm lượng tàu thuyền khai thác hải sản còn 50.000 chiếc vào năm 2010 và giữ ổn định ở các  năm tiếp theo.    Khẩn trương nghiên cứu và đề xuất các phương án tổ chức sản xuất khai thác phù hợp.  Cần rà soát lại các quy hoạch, nhất là quy hoạch khai thác hải sản để giảm sức ép khai thác  vùng ven bờ và vươn ra khai thác xa bờ.    Sớm xây dựng và áp dụng mô hình quản lý cộng đồng, trong đó có việc giao quản lý vùng  biển cho các cấp chính quyền địa phương.    Cần có sự phối hợp đồng bộ của các ban ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, có thể chỉ ra  nguyên nhân và đề xuất các giải pháp hợp lý trong thời gian tới nhằm đảm bảo cho lĩnh vực  khai thác hải sản ngày càng hiệu quả và bền vững.    Tài liệu tham khảo 1.  Quốc hội nước  CHXHCN  Việt  Nam 2003: Luật Thủy sản, NXB Chính  trị  quốc gia, Hà  Nội.  2.  Thủ tướng Chính phủ 2005: Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành  thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020‐ Hà Nội.  3.  Bộ Thủy sản: Các văn bản pháp luật liên quan đến khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy  sản.  4.  Viện nghiên cứu Hải sản 2005: Dự án ALMRV.  5.  Viện nghiên cứu Hải sản 2004: Dự án ven bờ.  6.  Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản 2005: Số liệu điều tra.  7.  Niên giám thống kê các năm từ 1995‐2004, NXB Thống kê, Hà Nội.  8.  Nguyễn Văn Chiêm và nhóm chuyên gia Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản:  Báo cáo chuyên đề 2006: Quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.   8.  Đào Mạnh Sơn‐ Viện nghiên cứu Hải sản 2004: Đề tài Cá nổi lớn.  10.  Phạm Huy Sơn ‐Viện nghiên cứu Hải sản 2003: Dự án xa bờ.  38 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
  8. Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản REVIEW THE STATUS OF SUSTAINABLE FISHERIES DEVELOPMENT IN VIET NAM Abstract This paper will focus on the concept of sustainable development in fishing field based on  statistic  data  analyzed  on  the  development  of  fisheries  sector  and  taking  over  relevant  published  results.  Considering  marine  fisheries  exploitation  status,  key  criteria  for  assessment  of  the  positive  and  negative  impacts  of  fishing  activities  on  the  socio‐ economic  development  and  protection  of  environment  and  natural  resources  as  well  as  assessment  of  relevant  legal  system  in  the  recent  time  will  be  analyzed  and  selected.  Assessment  based  on  sustainable  development  point  of  view  will  help  policies  makers  having  more  comprehensive  vision  in  putting  forward  appropriate  policies  in  order  to  achieve development objectives of the country for today as well as development of next  generation. Sustainable development in marine exploitation field is successfully achieved  only if getting consensus between national, provincial and especially coastal community  levels.  Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận" 39
nguon tai.lieu . vn