Xem mẫu

  1. The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018 ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NUÔI TÔM TẠI HUYỆN CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Thị Mai Phƣơng1, Nguyễn Thị Huyền1, Nguyễn Văn Sứng2, Lê Thị Phụng2 1 Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 227 Nguyến Văn Cừ, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh 2 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường, 236B Lê Văn Sỹ, Phường 1, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh *Email: ttmphuong@hcmus.edu.vn TÓM TẮT Nghề nuôi tôm tại Cần giờ, Thành phố Hồ Chí Minh góp một vai trò kinh tế - xã hội quan trọng nhưng cũng mang đến nhiều hệ lụy về môi trường và xã hội, vì vậy trong tương lai cần thiết phải có một kế hoạch phát triển bền vững nghề quan trọng này. Đề thực hiện nhiêm vụ này, một khảo sát 120 hộ nuôi tôm diễn ra từ tháng 5/2018 đến tháng 8/2018 tại 4 xã nuôi tôm trọng điểm Bình Khánh, Tam Thôn Hiệp, An Thới Đông, Lý Nhơn thuộc huyện Cần Giờ được thực hiện cùng với việc lấy mẫu nước ao nuôi tôm 16 hộ cũng được tiến hành để phân tích chất lượng. Theo kết quả khảo sát quy mô diện tích ao nuôi tôm mỗi hộ khoảng 2 hecta trở lên chiếm đa số (khoảng 60 %) còn những hộ có diện tích nuôi nhỏ hơn 1.5 hecta chiếm không đáng kể. Có tới 65 % số hộ được hỏi cho biết họ có kiểm tra môi trường định kỳ và thường xuyên để biết tình hình chất lượng nước ao nuôi và chỉ có 10 % là không giám sát chất lượng nước ao nuôi. Qua đánh giá phân tích chất lượng nước 16 ao nuôi tôm và so sánh với tiêu chuẩn QC10-BTNMT cho thấy hàm lượng các chỉ tiêu chất lượng đều nằm trong giới hạn cho phép. Nghiên cứu này thực sự là cần thiết cho thấy một cái nhìn toàn cảnh về thực trạng nuôi tôm của các nông hộ để chính quyền có được những giải pháp hỗ trợ người nuôi tôm nhằm phát triển nghề nuôi bền vững tại Cần Giờ. Từ khóa: chất lượng nước, ao nuôi tôm, hộ nuôi tôm, huyện Cần Giờ. 1. MỞ ĐẦU Cần Giờ là một huyện nằm ở phía đông nam của Thành phố Hồ Chí Minh có đường bờ biển dài 20km, được gọi là biển phù sa vì thành phần chủ yếu là đất bùn sét nên rất thích hợp cho sự phát triển nuôi trồng của các loài hải sản như tôm, nghêu, sò, hàu… Đã có nhiều nghiên cứu về hiện trạng nuôi trồng thủy sản ở Huyện Cần Giờ được triển khai nhằm mục đích phát triển nguồn lợi nhưng chỉ tập trung vào các loại hình mặt nước lớn và các khu nuôi tập trung [1]. Xuất phát từ thực trạng đó, đề tài đánh giá hiện trạng nuôi tôm trên địa bàn huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh được tiến hành nhằm mục tiêu điều tra khảo sát hiện trạng hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng như chất lượng môi trường các ao nuôi tôm của địa phương để chính quyền có được những giải pháp hỗ trợ người nuôi tôm nhằm phát triển nghề nuôi bền vững tại Cần Giờ. 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu tập trung phân tích làm rõ các vấn đề về hiện trạng hoạt động nuôi tôm và chất lượng môi trường ao nuôi tôm thông qua các dữ liệu phỏng vấn thực tế người dân nuôi tôm tại 4 xã trọng điểm: xã Bình Khánh, xã Tam Thôn Hiệp, xã An Thới Đông và xã Lý Nhơn với thời gian 120
  2. Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018 thực hiện khảo sát từ tháng 5/2018 đến tháng 8/2018. Hiện trạng nuôi tôm trên địa bàn nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp điều tra phỏng vấn các hộ dân nuôi tôm bằng bộ câu hỏi được chuẩn hóa [2] cùng với việc lấy mẫu nước các ao nuôi tôm cùng phương pháp phân tích và xử lý số liệu phù hợp tiêu chuẩn QC10-BTNMT[3]. 2.1. Phƣơng pháp điều tra phỏng vấn các hộ nuôi tôm Để thực hiện đánh giá hiện trạng hoạt động nuôi tôm trên địa bàn huyện Cần Giờ, nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp điều tra phỏng vấn. Chúng tôi tiến hành làm các bảng khảo sát và đi phỏng vấn ngẫu nhiên với số hộ định trước trên các xã nuôi trồng thủy sản trọng điểm của huyện Cần Giờ. Chúng tôi thực hiện các phiếu khảo sát tương ứng với hoạt động nuôi tôm chính của huyện, cụ thể là điều tra 120 hộ nuôi tôm ở 4 xã: xã Bình Khánh, xã An Thới Đông, xã Tam Thôn Hiệp và xã Lý Nhơn. Nội dung điều tra thu thập được sẽ được tổng hợp lại và được phân tích bằng phần mềm Microsoft Excel 2010 và SPSS 21. Xử lý số liệu thông qua phương pháp thống kê mô tả để tiến hành lập các đồ thị biểu diễn dữ liệu thu thập được dưới dạng hình ảnh cho dễ dàng trong việc phân tích và đánh giá cho các thông tin thu nhập được. Đối tượng phỏng vấn là người nông dân nuôi tôm trên địa bàn huyện Cần Giờ với số lượng mỗi hộ một mẫu khảo sát và số mẫu được tính theo công thức tính quy mô mẫu. Trong đó, n: tổng số mẫu N: số hộ dân được khảo sát e: phạm vi sai số chọn mẫu. Quy mô mẫu được tính với độ tin cậy 90 %, sai số cho phép nằm trong khoảng 0-0,1. Căn cứ vào số hộ dân nuôi tôm sau khi khảo sát, quy mô mẫu dân cư được khảo sát là 120 mẫu tương ứng 120 hộ hoạt động nuôi tôm thuộc vùng nghiên cứu. 2.2. Phƣơng pháp lấy mẫu và phân tích mẫu nƣớc ao nuôi tôm Công tác lấy mẫu được thực hiện do nhóm nghiên cứu và phân tích mẫu nước ao nuôi tôm do Trung tâm Quan trắc và Phân Tích Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện với các chỉ tiêu gồm: chỉ tiêu nước mặt (độ mặn, độ cứng, đô đục, NH3, PO43-, NO2-, H2S) và chỉ tiêu vi sinh gây bệnh (Tổng số Vibrio sp). Riêng các chỉ tiêu nhiệt độ, pH, DO được đo trực tiếp tại ao nuôi khi lấy mẫu nước. Các phương tiện sử dụng chủ yếu phục vụ công tác thu mẫu gồm: phương tiện di chuyển trên mặt ao để thu mẫu, bình nhựa 2L thu mẫu nước phân tích các chỉ tiêu hóa lý, chai thủy tinh thu mẫu nước phân tích chỉ tiêu vi sinh vật. Thùng trữ mẫu ở 4oC để vận chuyển về phòng thí nghiệm. Kết quả đo đạc và phân tích của các mẫu nước mặt được tổng hợp bằng MS Excel 2010 và được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 21. Các số liệu về chất lượng nước mặt ao nuôi tôm sau khi xử lý được so sánh và đánh giá với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện nuôi trồng thủy sản trong ao QCVN 02-15:2009/BNNPTNT [4] và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt QCVN 08-MT:2015/BTNMT[5]. 121
  3. The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Hiện trạng nuôi tôm tại Cần Giờ Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 120 hộ dân nuôi tôm trên 4 xã Bình Khánh, xã Tam Thôn Hiệp, xã An Thới Đông và xã Lý Nhơn là 4 xã nuôi tôm nhiều nhất của huyện Cần Giờ. Dưới Hình 1 thể hiện kết quả điều tra khảo sát. Hình 1. Biểu đồ thể hiện diện tích ao nuôi tôm, số ao nuôi tôm và số năm nuôi tôm. 3.1.1. Diện tích ao nuôi tôm của các hộ dân Theo khảo sát 120 hộ nuôi tôm tại Cần Giờ thì thấy quy mô diện tích ao nuôi tôm các hộ lớn hơn 2 hecta là chiếm đa số, chiếm tới khoảng 60 % số hộ nuôi tôm tương ứng với 72 hộ. Có tới 36 hộ nuôi có diện tích nhỏ hơn 1.5 hecta ứng với 30 % số hộ nuôi tôm 4 xã. Một phần nhỏ khoảng 10 % số hộ nuôi có diện tích trung bình 2 hecta với 12 hộ còn lại. Theo tổng số mẫu khảo sát về diện tích ao nuôi tôm cho thấy không có hộ dân nào có diện tích ao nuôi dưới 1,5 hecta. Đối với các hộ dân có diện tích ao nuôi hơn 2 hecta thì số diện tích ao nuôi dao động từ 3 hecta đến 7 hecta diện tích mặt nước ao nuôi tôm. 3.1.2. Số ao nuôi tôm của các hộ dân Theo khảo sát trên 120 hộ nuôi tôm tại Cần Giờ thì thấy quy mô số lượng ao nuôi tôm của mỗi hộ từ 3 đến 4 ao chiếm đa số (khoảng 60 %). Khoảng 20 % số hộ nuôi có số lượng ao nuôi nhỏ hơn 3 ao và số hộ nuôi tôm hơn 4 ao nuôi là 20 %. Theo tổng số mẫu khảo sát về số lượng ao nuôi tôm của nông hộ cho thấy không có số lượng ao nuôi dưới 2 ao. Đối với các hộ dân có số lượng ao nuôi lớn hơn 4 ao thì số lượng ao nuôi của họ dao động trong khoảng từ 4 đến 12 ao nuôi (tùy theo diện tích ao). 3.1.3. Số năm đã nuôi tôm Từ biểu đồ Hình 1 thấy rằng số năm đã nuôi tôm của các hộ dân dao động trong khoảng từ 2 năm đến hơn 20 năm. Theo khảo sát về số năm đã nuôi tôm của chủ hộ thì thấy nông hộ có kinh nghiệm nuôi hơn 10 năm chiếm đa số, chiếm tới 50 % ứng với 60 hộ. Khoảng 10 % số hộ (12 hộ) nuôi đã được 10 năm. Có khoảng 30 % số hộ (36 hộ) nuôi chỉ có kinh nghiệm 5 năm nuôi tôm. Một phần nhỏ 10 % số hộ nuôi mới nuôi tôm được 2 năm. Theo tổng số mẫu được khảo sát cho thấy không có hộ dân nào có thời gian nuôi tôm dưới 2 năm. Đối với các hộ đã có kinh nghiệm nuôi tôm hơn 10 năm thì theo số liệu khảo sát cho thấy họ đã nuôi tôm được từ 14 đến 24 năm. 3.1.4. Số vụ nuôi và thời gian nuôi mỗi vụ Ở Hình 2a, thì số vụ nuôi mồi năm của các hộ dao động trong khoảng từ 2 đến 4 vụ. Theo khảo sát thì tổng số hộ nuôi 2 vụ/năm chiếm đa số và chiếm tới 50 % (60 hộ), số hộ nuôi 3 vụ/năm chiếm 25 % (30 hộ), số hộ nuôi 4 vụ/năm chiếm 14 % (17 hộ) và một phần nhỏ số hộ nuôi hơn 4 vụ/năm chiếm 7 % (9 hộ). Hình 2a cho thấy rằng đa số các hộ nuôi tôm thường nuôi 1 năm là 2 vụ, ít hộ nuôi 3 hay 4 vụ/năm. Riêng có hộ nuôi được hơn 4 vụ mà cụ thể là 5 vụ do hộ nuôi diện tích 122
  4. Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018 lớn, có nhiều ao nuôi và nuôi theo hình thức cuốn chiếu có nghĩa là nuôi luân phiên các vụ với nhau hoặc có nơi gọi là nuôi tôm 2 giai đoạn. Ở Hình 2b, số tháng nuôi/vụ thì chủ yếu người dân nuôi 3 tháng/vụ chiếm tới 64 % (77 hộ) và số hộ nuôi 4 tháng/năm chiếm 24 % (29 hộ). Theo Hình 2b, đa phần các hộ dân nuôi tôm có thời gian nuôi chủ yếu là 3 tháng và một số hộ có thời gian nuôi là 4 tháng. (a) (b) Hình 2. Biểu đồ thể hiện số vụ nuôi/năm và số tháng nuôi/vụ. 3.1.5. Kết quả khảo sát việc thực hiện giám sát chất lượng nước ao nuôi Theo khảo sát chỉ có 15 % số hộ (18 hộ) được hỏi là không có hoạt động giám sát chất lượng ao nuôi tôm và những hộ này thuộc những hộ nuôi tôm tự phát và mới chỉ nuôi tôm vào những khoảng thời gian gần đây cùng với hoạt động nuôi tôm có quy mô nhỏ và còn sơ sài. Có khoảng 25 % số hộ (30 hộ) được hỏi có hoạt động quan trắc môi trường ao nuôi tôm nhưng với tần số ít và không thường xuyên do kiến thức chưa đủ nên chưa biết cách làm và điều kiện kinh tế chưa cho phép. Có tới 65 % số hộ (78 hộ) được hỏi cho biết họ có kiểm tra môi trường định kỳ và thường xuyên để biết tình hình chất lượng nước ao nuôi để thay đổi cho phù hợp nhằm hạn chế tối đa tình trạng sức khỏe cho tôm và phòng khi có bệnh dịch xảy ra. Về các chỉ tiêu kiểm tra là độ pH, độ mặn, chỉ số DO, NH3 và vi sinh. Theo như dữ liệu phỏng vấn cho thấy đa phần các hộ đều có quan trắc chất lượng nước đặc biệt hơn cả là họ quan tâm đến độ kiềm trong nước điển hình có 60/120 hộ (chiếm 50 %). Có 108/120 (chiếm 90 %) hộ quan tâm tới chỉ số pH của nước, họ cho biết chỉ quan trắc độ pH. Theo sau đó là mức độ quan tâm khác dành cho các chỉ tiêu về độ mặn, DO, NH3, vi sinh… thì có 24/120 (chiếm 20 %) hộ nuôi tôm theo dõi toàn bộ các chỉ tiêu được hỏi. 3.1.6. Hiện trạng xử lý bùn đáy nuôi tôm Theo khảo sát trên 120 hộ dân nuôi tôm tại Cần Giờ cho thấy rằng có khoảng 14 % (17 hộ) trong đó có 3 hộ được hỏi cho biết họ không xử lý bùn đáy ao nuôi mà họ chỉ phơi đáy ao, xử lý bằng hóa chất sau đó tiếp tục nuôi. Có tới 75 % số hộ (90 hộ) được hỏi cho biết họ không xử lý bùn đáy và dùng một số biện pháp sử dụng bùn như: bán cho đơn vị đến để lấy đi để làm phân hữa cơ, làm phân bón trồng cây tại chỗ hay đắp làm bờ cho các ao nuôi tôm. Chỉ có 5 % số hộ (6 hộ) được hỏi thì họ cho biết họ có áp dụng các biện pháp để xử lý triệt để bùn đáy sau mỗi vụ thu hoạch. 3.2. Chất lƣợng môi trƣờng nƣớc ao nuôi tôm huyện Cần Giờ 3.2.1. Chất lượng môi trường nước nuôi tôm Chúng tôi tiến hành lấy 16 mẫu nước ao nuôi tôm đang hoạt động tại 4 xã. Mỗi xã 4 mẫu với tọa độ điểm lấy mẫu như Bảng 1 dưới đây. 123
  5. The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018 Bảng 1. Tọa độ các điểm lấy mẫu chất lượng môi trường ao nuôi tôm huyện Cần Giờ. Vị trí Tọa độ Vị trí Tọa độ Xã Bình Khánh X Y An Thới đông X Y NT 01 695157E 1179630N NT 05 694340E 1164269N NT 02 693666E 1178591N NT 06 694567E 1164761N NT 03 696032E 1178340N NT 07 694343E 1165095N NT 04 695529E 1177930N NT 08 694192E 1165630N Xã Lý Nhơn X Y Tam Thôn Hiệp X Y NT 09 698871E 1158169N NT 13 705034E 1171012N NT 10 697009E 1157486N NT 14 705686E 1170682N NT 11 696204E 1155500N NT 15 704660E 1171101N NT 12 696654E 1154944N NT 16 705454E 1170786N Chất lượng nước ao nuôi tôm được so sánh với tiêu chuẩn QC10-BTNMT cho thấy môi trường nước trong các ao nuôi tương đối ổn định tại 4 vùng nuôi tôm của huyện. Kết quả phân tích mẫu nước ao nuôi tôm tại 4 xã nuôi tôm vùng nghiên cứu được thể hiện dưới Bảng 2 như sau: Bảng 2. Kết quả chất lượng môi trường nước ao nuôi tôm tại 4 xã huyện Cần Giờ. STT Các chỉ tiêu Xã Bình Xã An Xã Tam Xã Lý Nhơn Khánh Thới Đông Thôn Hiệp 1 pH 6,8 - 6,9 6,9 - 7,0 7,2 7,0-7,2 2 Độ mặn (‰) 1-2 1-2 5-6 6-10 3 Độ đục (cm) 15 20-25 30 25-30 4 Độ kiềm (mg/L) 26,5 - 32,0 33 44 - 50,5 35,5 - 65 5 Nhiệt độ (℃) 30,0 - 30,3 30,1 - 30,5 29 - 30 30,0 - 30,1 6 NH4-N (mg/L) 0,15 - 0,30 0,08 - 0,10 0,07 - 0,11 0,05 - 0,11 7 DO (mg/L) 4,85 - 5,05 4,0 - 4,58 4,5 - 4,80 4,70 - 5,50 8 COD (mg/L) 3,00 - 8,65 3,00 - 3,50 3,30 - 10,25 3,12 - 6,50 9 BOD (mg/L) 2,52 - 3,85 2,65 - 3,15 1,65 - 2,40 3,10 - 5,42 10 T.số Vibrio.spp phát sáng (CFU/mL) 0,06 x 103 < 10 < 10 4 mg/l; NH4-N(mg/l) < 0,5 mg/l và độ kiềm thấp hơn ngưỡng cho phép (80-120 mg/l). 4. KẾT LUẬN Theo khảo sát 120 hộ nuôi tôm thuộc 4 xã huyện Cần Giờ thì thấy hơn 50 % các hộ có kinh nghiệm nuôi tôm trên 10 năm (phổ biến từ 14 đến 24 năm). Về quy mô diện tích ao nuôi tôm mỗi hộ khoảng 2 hecta trở lên chiếm đa số (khoảng 60 %) và số lượng ao nuôi tôm trung bình mỗi hộ từ 3 đến 4 ao là phổ biến. Các hộ nuôi tôm 2 vụ/năm chiếm đa số và các hộ dân nuôi tôm có thời gian nuôi chủ yếu 3 tháng mỗi vụ. 124
  6. Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018 Có tới 65 % số hộ (78 hộ) được hỏi cho biết họ có kiểm tra môi trường định kỳ và thường xuyên để biết tình hình chất lượng nước ao nuôi. Đặc biệt hơn cả là họ chỉ quan tâm đến độ kiềm trong nước (chiếm 50 %) và 90 % số hộ nuôi tôm quan tâm tới chỉ số pH của nước. Chỉ có 24/120 (chiếm 20 %) hộ nuôi tôm theo dõi toàn bộ các chỉ tiêu chỉ tiêu về độ mặn, DO, NH3, vi sinh. Qua khảo sát nhận thấy mức độ quan tâm của người dân trong việc xử lý bùn đáy chưa được quan tâm đúng mức. Qua đánh giá phân tích chất lượng nước ao nuôi tôm tại 4 xã thuộc huyện Cần Giờ và so sánh với tiêu chuẩn QC10-BTNMT cho thấy hàm lượng các chỉ tiêu chất lượng nằm trong giới hạn cho phép và độ kiềm thấp hơn ngưỡng cho phép. Hàm lượng oxy trong nước phù hợp cho môi trường nuôi tôm. Lời cảm ơn: Công trình này hoàn thành với sự hỗ trợ về kinh phí từ Đề tài cấp Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM “Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm sinh học phòng chống dịch bệnh hoại tử gan tuỵ cấp (AHPND) trong nuôi tôm nước tại Cần Giờ”. CNĐT. TS Trần Thị Mai Phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phòng kinh tế huyện Cần Giờ, 2017 - Hiện trạng nuôi tôm huyện Cần Giờ. 2. Trần Thị Mai Phương, Võ Minh Chí, 2017 - Luận văn đại học: Đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường vùng nuôi tôm và dịch bệnh của tôm huyện Cần Giờ và đề xuất giải pháp kiểm soát ô nhiễm. 3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014 - Tiêu chuẩn QC10-BTNMT ban hành Theo quyết định 16/2008/QĐ-BTNMT. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2009 - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện nuôi trồng thủy sản trong ao QCVN 02-15:2009/BNNPTNT. 5. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2015 - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt QCVN 08-MT:2015/BTNMT. AN ASSESSMENT OF SHRIMP CULTURE SITUATION IN CAN GIO, HO CHI MINH CITY Tran Thi Mai Phuong1, Nguyen Thi Huyen1, Nguyen Van Sung2, Le Thi Phung2 1 University of Science, Vietnam National University HCMC, 227 Nguyen Van Cu Str., Dist 5, HCMC 2 Ho Chi Minh University for Natural Resouces and Environment, 236B Le Van Sy Str., dist Tân Bình, HCMC * Email: ttmaiphuong@hcmus.edu.vn ABSTRACT Shrimps aquaculture in Can Gio, Ho Chi Minh City plays an important economic and social role but also has a number of accompanying environmental and social issues, that must be addressed in order to provide an improved and sustainable sector in to the future. To support this process, the survey was from may 2018 to august 2018, which aims to investigate the shrimp aquaculture activities as well as the environmental quality of the aquaculture areas. Data were collected through questionnaire interview and discussion with about 120 shrimp‟s farmers in 4 125
  7. The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018 communes: Binh Khanh, Tam Thon Hiep, An Thoi Dong and Ly Nhon in Can Gio district to assess the situation of shrimp‟s aquaculture. Also 16 water samples were collected in shrimp ponds by physicochemical analysis. Research results showed that 60 % of farms of the Can Gio district were more than 2 hectares and family operated small scale farms of 1.5 hecteres were not common. Pond water pH, alkalinity was checked once a week by the households but only 10 % farmers reported that this service was not available to them. Results measured dissolved oxygen, turbidity, pH, and salinity routinely, ammonia and bacteria on 16 farms was not exceded to QC10-BTNMT. This research is needed to better understand the culture scenario caused by shrimp farming to make shrimp aquaculture production more sustainable. In this there is an important role for government in formulating appropriate policy and monitoring. Keyword: Water quality, shrimp aquaculture, shrimp‟s farmers, Can Gio distric. 126
nguon tai.lieu . vn