- Trang Chủ
- Ngư nghiệp
- Đánh giá hiện trạng các loài cá thuộc họ Pangasiidae khu vực hạ lưu sông Mekong giai đoạn 2017-2019
Xem mẫu
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CÁC LOÀI CÁ THUỘC HỌ PANGASIIDAE
KHU VỰC HẠ LƯU SÔNG MEKONG GIAI ĐOẠN 2017-2019
Đinh Trang Điểm1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Trần Thúy Vy1 và Huỳnh Hoàng Huy1
TÓM TẮT
Đánh giá hiện trạng các loài cá thuộc họ Pangasiidae khu vực hạ lưu sông Mekong giai đoạn 2017 -
2019 được thực hiện tại 8 huyện (An Phú, Phú Tân, Chợ Mới, Thoại Sơn, Phong Điền, Vũng Liêm,
Tp. Trà Vinh và Tiểu Cần) thuộc 4 tỉnh thành (An Giang, Cần Thơ, Trà Vinh và Vĩnh Long) với 5
vùng sinh cảnh chính (ruộng ngập lụt, kênh rạch, sông nhánh, sông chính và ven biển). Số liệu thu
thập từ tháng 01/2017 đến tháng 12/2019 thông qua nhật ký khai thác của 21 hộ dân, sử dụng 2 loại
ngư cụ khai thác chính (lưới rê và lưới rê 3 màng). Kết quả khảo sát cho thấy sản lượng khai thác
và kích cỡ của các loài cá thuộc họ Pangasiidae có xu hướng giảm theo thời gian. Trong 3 năm khai
thác được 13 loài cá thuộc họ Pangasiidae, cụ thể vào năm 2017 với 10 loài đạt 30.287 cá thể, năm
2018 với 11 loài đạt 25.183 cá thể và năm 2019 với 12 loài nhưng chỉ còn 3.861 cá thể. Hầu hết
các loài cá khai thác được tập trung chủ yếu ở dòng chính của sông với kích cỡ lớn, trong khi đó ở
ruộng ngập lụt sản lượng khai thác ít hơn với kích cỡ nhỏ hơn. Trong đó, loài Pangasius krempfi,
Pangasius conchophilus và Pangasius elongates tập trung chủ yếu tại vùng sinh cảnh ven biển; loài
Pangasianodon hypophthalmus và Pangasius larnaudiei tập trung tại vùng sinh cảnh ruộng ngập
lụt. Việc xây dựng các công trình thủy điện trên sông chính ở thượng nguồn tác động đến lưu lượng
nước và mức nước, làm ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lợi cá di cư trên sông chính ở hạ lưu, đặc biệt
là các loài thuộc họ Pangasiidae.
Từ khóa: Hạ lưu sông Mekong, khai thác, kích cỡ, Pangasiidae, sản lượng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ bố và sinh thái họ Pangasiidae ở hạ lưu sông
Sông Mekong chứa đựng một trong những Mekong, nêu rõ Helicophagus waandersii (cá
khu hệ cá phong phú và đa dạng nhất trên thế Tra chuột) và Pangasius mekongensis (cá Tra
giới (SverdrupJensen, 2002). Quỹ môi trường ku-nit/ cá Tra bần) phân bố rộng rãi ở hạ lưu
thiên nhiên Nagao (NEF) và Trường Đại học sông Mekong nhưng số lượng tương đối ít. Loài
Cần Thơ (CTU) nghiên cứu khu hệ cá sông Pangasius krempfi (cá Bông lau) thuộc đàn hạ
Mekong từ 10/2006–3/2013 đã xác định và lưu trải qua giai đoạn sống đầu tiên ở khu vực
mô tả 77 họ với 322 loài, bao gồm cả những cửa sông, thường đi sâu vào vùng nước mặn.
loài cá kinh tế và những loài có giá trị kinh tế Người ta đã khẳng định nó di cư vượt thác
thấp; trong đó 312 loài thuộc vùng nước ngọt và Khone vào thời gian đầu mùa mưa (tháng 5-6)
nước lợ, 10 loài cá biển thuộc vùng cửa sông ở để sinh sản (Roberts, 1993b; Roberts và Baird,
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) (Trần Đắc 1995). Loài Pangasius conchophilus (cá Hú)
Định và ctv., 2013). Năm 1993 theo Trương Thủ đẻ trứng vào đầu mùa mưa ở dòng chính sông
Khoa và Trần Thị Thu Hương cho rằng có 11 Mekong đoạn giữa Kompong Chàm và thác
loài cá thuộc họ Pangasiidae tại ĐBSCL nhưng Khone. Ấu trùng sau khi nở trôi theo dòng nước
chỉ có 9 loài được định tên. đến vùng ngập ở Cam-pu-chia và ĐBSCL. Loài
Theo Poulsen và ctv., (2005) về phân Pangasius elongatus (cá Dứa nước ngọt) phân
1
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email: *trangdiemdinh@gmail.com
70 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
bố từ ĐBSCL đến Xayabury ở Lào. Thường nhằm phân tích, đánh giá biến động về thành
gặp ở hạ lưu của các sông lớn (Rainboth, 1996). phần loài, kích cỡ và sản lượng các loài cá họ
Khi thành thục, đầu mùa lũ là tín hiệu cho cá Pangasiidae khu vực hạ lưu sông Mekong trong
di cư ngược dòng đến bãi đẻ và đẻ trứng. Sau 3 năm 2017 - 2019.
khi đẻ ở dòng chính sông Mekong, ấu trùng trôi II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
về vùng ngập phía hạ lưu. Loài Pangasianodon 2.1. Thời gian và địa điểm
hypophthalmus (cá Tra sông) thường ở các sông Số liệu được thu thập từ tháng 01/2017 đến
lớn (Rainboth 1996), nhưng cũng có thể sống cả tháng 12/2019 thông qua nhật ký khai thác của
ở vùng nước tĩnh lẫn nước chảy. Kết thúc mùa lũ 21 hộ dân sử dụng 2 loại ngư cụ khai thác chính
(tháng 10) mức nước hạ xuống cá di cư ra khỏi (lưới rê và lưới rê 3 màng) tại 8 huyện (An Phú,
nơi cư trú vùng ngập vào sông chính. Mùa mưa Phú Tân, Chợ Mới, Thoại Sơn, Phong Điền,
(sau tháng 5-6) các cá thể thành thục di cư ngược Vũng Liêm, Tp. Trà Vinh và Tiểu Cần) thuộc
dòng sinh sản. Ấu trùng trôi theo dòng nước từ 4 tỉnh thành (An Giang, Cần Thơ, Trà Vinh và
bãi đẻ ở đoạn giữa Kra-chiê và thác Khone vào Vĩnh Long) với 5 ngư trường khai thác chính
các vùng ngập. Loài Pangasius macronema (cá (ruộng ngập lụt, kênh rạch, sông nhánh, sông
Sát sọc) phân bố khắp lưu vực sông Mekong. Ở chính và ven biển) được chọn để quan trắc biến
hạ lưu chúng phân bố từ Stung Treng ở Cam- động thành phần loài, kích cỡ và sản lượng cá
pu-chia, xuống đến các sông vùng ĐBSCL. thể trên một đơn vị đánh bắt của các loài thuộc
Loài Pangasius pleurotaenia (cá Sắc bầu/ Sát họ Pangasiidae.
bay) phân bố rộng ở hạ lưu sông Mekong nhưng 2.2. Phương pháp nghiên cứu
phổ biến nhất ở trung lưu (Rainboth, 1996). Số liệu được cập nhật từ phiếu nhật ký của
Loài Pangasius larnaudii (cá Vồ đém) phân bố ngư dân (đã tập huấn trong việc ghi chép số
rộng rãi ở sông và vùng ngập trong lưu vực sông liệu) được quan trắc để phân tích, đánh giá biến
Mekong. Khi đến tuổi thành thục, từ nơi ẩn náu động thành phần loài, kích cỡ khai thác và sản
mùa khô chúng tiến hành di cư sinh sản ngược lượng các cá thể trên một đơn vị đánh bắt của
dòng vào thời gian bắt đầu mùa mưa (tháng các loài thuộc họ Pangasiidae.
5-7) (Baird, 1998; Singanouvong et al., 1996). 2.3. Phân tích số liệu
Ấu trùng trôi vào vùng ngập và sinh sống ở đó Số liệu nhật ký khai thác hàng ngày của 21
trong suốt mùa lũ. Loài Pangasius bocourti (cá hộ được cập nhật từ 1/2017 - 12/2019 trên MS
Basa) phân bố trong toàn lưu vực sông Mekong, Access 2016. Trích xuất dữ liệu sang Excel 2016
sống ở chỗ có ghềnh và sông sâu nước chảy xử lý và phân tích, kết hợp phần mềm Tableau
chậm. Vào mùa mưa, cá di cư ngược dòng lên Public 10.4. Do công ty của 2 phần mềm có trụ
thượng nguồn tìm các bãi đẻ, ấu trùng trôi dạt sở chính tại hoa kỳ nên số liệu hình ảnh trong
xuống sông Tiền và sông Hậu. Loài Pangasius bài, dấu “,” được hiểu là dấu phân cách hàng
sanitwongsei (cá Vồ cờ) hiện nay ngày càng nghìn và dấu “.” được hiểu là dấu thập phân(#).
hiếm và loài Pangasianodon gigas (cá Tra dầu) 2.4. Xử lý dữ liệu
đặc biệt hiếm. Hai đối tượng này đã từng là đối Số liệu mức nước được trích xuất từ
tượng khai thác quan trọng nhưng hiện không webside (http://ffw.mrcmekong.org/) vào Excel
còn giữ được vị trí đó nữa là vì khai thác quá 2016.
mức, thay đổi nơi cư trú, điều kiện thủy văn Sản lượng các cá thể trên 1 đơn vị đánh
hoặc suy thoái quần đàn ngoài tự nhiên. bắt, dựa theo phương pháp tính của Chheng
Chính vì vậy khảo sát này được thực hiện Phen & Eric Baran (2005).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 71
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 1: Vị trí các điểm quan trắc.
+ Tính theo số lượng CPUEn= TN(tổng cá sản lượng cá đánh bắt/mẻ: gam)/(S*t)
thể bắt được/mẻ: con)/(S*t) Trong đó: S là tiết diện lưới (m2) và t là thời
+ Tính theo khối lượng CPUEw=TW(tổng gian thả lưới (giờ).
Bảng 1: Mã hộ khai thác tương ứng huyện, tỉnh và vùng sinh cảnh.
Tỉnh Vùng sinh cảnh Huyện Mã hộ
Kênh rạch Thoại Sơn 7, 8 và 9
Ruộng ngập lụt An Phú 10, 11 và 12
An Giang
Chợ Mới 5 và 6
Sông chính
Phú Tân 4
Cần Thơ Sông nhánh Phong Điền 1, 2 và 3
Ven biển Tiểu Cần 16, 17 và 18
Trà Vinh
Sông chính TP. Trà Vinh 19, 20 và 21
Vĩnh Long Sông chính Vũng Liêm 13, 14 và 15
III. KẾT QUẢ
3.1. Thành phần loài và số lượng cá thể (con) krempfi (cá Bông lau) có số lượng cá thể cao nhất
họ Pangasiidae theo không gian và thời gian trong các loài khai thác được, tuy nhiên đến năm
Kết quả khảo sát trong 3 năm cho thấy có 13 2019 chỉ còn 31 cá thể. Ngoài ra, loài Pangasius
loài thuộc họ Pangasiidae, cụ thể vào năm 2017 mekongensis (cá Tra bần) chỉ khai thác được 1 cá
với 10 loài đạt 30.287 cá thể, năm 2018 với 11 thể vào năm 2017, và tương tự loài Helicophagus
loài đạt 25.183 cá thể và 2019 với 12 loài chỉ còn waandersi (cá Sát chuột) chỉ khai thác được 3 cá
3.861 cá thể. Năm 2017 và 2018 loài Pangasius thể vào năm 2019 (Bảng 2).
72 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 2: Thành phần loài và số lượng cá thể (họ Pangasiidae) khai thác từ năm 2017 đến 2019.
Code Tên khoa học Tên địa phương 2017 2018 2019 Tổng
101 Helicophagus waandersi Cá Sát chuột 3 3
102 Pangasius conchophilus Cá Hú 1.365 5.387 50 6.802
103 Pangasius bocourti Cá Basa 48 39 49 136
104 Pangasianodon hypophthalmus Cá Tra nuôi 59 321 818 1.198
105 Pangasius krempfi Cá Bông lau 26.476 16.879 31 43.386
107 Pangasius larnaudiei Cá Vồ đém 108 117 67 292
110 Pangasius macronema Cá Sát sọc 100 459 559
111 Pangasius pleurotaenia Cá Sát bay 97 136 215 448
112 Pangasius siamensis Cá Sát xiêm 148 392 1.222 1.762
179 Pangasius micronemus Cá Tra sông 38 49 87
1480 Pangasius mekongensis Cá Tra bần 1 1
1706 Helicophagus leptorhynchus Cá Sát ốc 62 19 2 83
5018 Pangasius elongatus Cá Dứa nước ngọt 1.923 1.755 896 4.574
Tổng 30.287 25.183 3.861 59.331
Từ năm 2017 đến năm 2019 loài Pangasius đến 2019 tăng gần 1.000 cá thể (Bảng 2).
krempfi, Pangasius elongates và Helicophagus Kết quả cho thấy loài Pangasius krempfi,
leptorhynchus có tổng số lượng cá thể giảm Pangasius conchophilus và Pangasius
qua các năm. Tuy nhiên, loài Pangasianodon elongates tập trung chủ yếu ở ven biển. Loài
hypophthalmus, Pangasius macronema, Pangasianodon hypophthalmus và Pangasius
Pangasius pleurotaenia và Pangasius larnaudiei phần lớn ở ruộng ngập lụt. Ở sông
micronemus có tổng số lượng cá thể tăng từ chính tập trung các loài Pangasius siamensis,
2017 đến 2019 nhưng không đáng kể, ngoại trừ Pangasius macronema, Pangasius pleurotaenia
loài Pangasius siamensis (cá Sát xiêm) từ 2018 và Pangasius bocourti (Hình 2).
Hình 2: Số lượng cá thể (con) họ Pangasiidae theo vùng sinh cảnh 2017-2019(#).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 73
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Cụ thể ở ven biển số lượng cá thể Pangasius 3.2. Sản lượng (kg) và kích cỡ khai thác
krempfi (cá Bông lau) năm 2017 là 26.462 cá họ Pangasiidae theo không gian và thời gian
thể đến năm 2018 giảm còn 16.827 cá thể, đáng Sản lượng khai thác họ Pangasiidae giảm
chú ý là đến năm 2019 chỉ còn 2 cá thể. Loài đáng kể theo thời gian từ năm 2017 đến năm
Pangasius conchophilus (cá Hú) với 1.228 cá 2019 lần lượt là 2.036,36 kg, 1.589,41 kg và
thể năm 2017, năm 2018 tăng lên với 5.362 cá 313,57 kg. Bên cạnh đó, chiều dài trung bình
thể nhưng đến năm 2019 không còn cá thể nào. của họ Pangasiidae cũng giảm lần lượt là 22,9
Loài Pangasius elongates (cá Dứa nước ngọt) ± 11,9 cm, 19,9 ± 7,5 cm và 19,6 ± 5,4 cm
năm 2017 với 1.681 cá thể, giảm nhẹ vào 2018 (Bảng 3). Trong đó nổi bật nhất là cá Bông lau
với 1.447 cá thể và đến năm 2019 chỉ còn 309 cá (P.krempfi) chỉ khai thác được ở vùng ven biển
thể. Ngược lại, ở sông chính (Vĩnh Long) loài và sông chính, loài cá này có kích thước nhỏ
Pangasius siamensis (cá Sát xiêm) với 148 cá ở vùng ven biển (trung bình 18,2 ± 6,8 cm) và
thể năm 2017, đến năm 2018 tăng lên với 392 lớn dần ở dòng sông chính (trung bình 51,0 ±
cá thể và tăng mạnh vào năm 2019 với 1.222 cá 32,0 cm). Đây là loài cá di cư chính của sông
thể (Hình 2). Mekong, cá con trưởng thành từ vùng ven biển
sau đó di cư ngược dòng chính của sông lên
thượng nguồn để tìm nơi sinh sản (Baird, 1998).
Bảng 3: Sản lượng (kg) và kích cỡ (cm) cá (họ Pangasiidae) khai thác được 2017-2019.
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
Sản lượng (kg) 2.036,36 1.589,41 313,57
Chiều dài (cm) 22,9 ± 11,9 19,9 ± 7,5 19,6 ± 5,4
Hình 3: Kích cỡ (con/kg) họ Pangasiidae 2017-2019(#).
74 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Sự phân bố kích cỡ các loài cá không đồng đánh bắt theo vùng sinh cảnh (2017-2019)
đều theo từng vùng sinh cảnh khác nhau. 3.3.1. Số lượng cá thể trên một đơn vị
Phần lớn các cá thể ở sông nhánh đạt kích đánh bắt (CPUEn) theo vùng sinh cảnh
cỡ lớn từ 0,223 kg/con đến 0,822 kg/con. Kết quả khảo sát cho thấy năm 2017 và
Ngược lại, ở ruộng ngập lụt tập trung các cá 2018 số lượng cá thể khai thác hiệu quả nhất
thể có kích cỡ nhỏ 0,008 kg/con đến 0,193 ở vùng ven biển, đến năm 2019 hiệu quả nhất
kg/con (Hình 3). ở sông nhánh. Từ năm 2017 đến năm 2019
3.3. Sản lượng cá thể trên một đơn vị CPUEn ở ruộng ngập lụt là thấp nhất (Hình 4).
Biến động CPUEn (con/m2 giờ) của họ Pangasiidae theo sinh cảnh
0.05 0.0479
2017 2018 2019
0.04
0.03 0.0272
0.0206
0.02
0.01 0.0078 0.0079 0.0088
0.0048 0.0058 0.0054
0.0028 0.0035
0.0003 0.0014
0.0002
0.00
Kênh rạch Ven biển Ruộng ngập lụt Sông chính Sông nhánh
Hình 4: Số lượng cá thể trên một đơn vị đánh bắt (CPUEn) theo vùng sinh cảnh(#).
Nhìn chung, ở vùng ven biển có CPUEn bắt tăng không đáng kể trong 3 năm, ở kênh
giảm qua 3 năm và giảm mạnh vào năm 2019. rạch đạt hiệu quả nhất vào năm 2018 (Hình 4).
Ngược lại ở ruộng ngập lụt, sông chính và sông 3.3.2. Sản lượng cá thể trên một đơn vị
nhánh số lượng các cá thể trên một đơn vị đánh đánh bắt (CPUEw) theo vùng sinh cảnh
Biến động CPUEw (gam/m2 giờ) của họ Pangasiidae theo sinh cảnh 4.72
5
2017 2018 2019 4.03
4 3.81
3.21
3 2.77
2 1.84
1.62
1.27
1.08
1 0.56
0.26 0.33
0.01 0.02 0.02
0
Kênh rạch Ven biển Ruộng ngập lụt Sông chính Sông nhánh
Hình 5: Sản lượng các cá thể trên một đơn vị đánh bắt CPUEw theo vùng sinh cảnh(#).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 75
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Vùng ven biển có sản lượng cá thể trên một 3.4.1. Số lượng cá thể trên một đơn vị
đơn vị đánh bắt CPUEw nhìn chung giảm qua đánh bắt (CPUEn) theo mùa
3 năm. Tuy nhiên, ở ruộng ngập lụt, sông chính Số lượng cá thể trên một đơn vị đánh bắt
và sông nhánh có CPUEw tăng nhẹ, trong đó ở (CPUEn) theo mùa của họ Pangasiidae không
kênh rạch khai thác hiệu quả nhất vào năm 2018 có sự biến động lớn qua 3 năm. Trong đó, năm
(Hình 5). 2017 và 2018 có CPUEn vào mùa khô cao hơn
3.4. Sản lượng cá thể trên một đơn vị mùa mưa, ngược lại năm 2019 có CPUEn mùa
đánh bắt theo mùa mưa cao hơn mùa khô (Hình 6).
0.07
CPUEn (con/m2 giờ) theo mùa của các loài thuộc họ Pangasiidae
0.0644
Mùa mưa 2017 Mùa khô 2017
0.06 0.0594
Mùa mưa 2018 Mùa khô 2018
0.0541
Mùa mưa 2019 Mùa khô 2019
0.05
0.04 0.0387
0.03 0.03
0.02
0.02 0.0159
0.0140
0.0120
0.01 0.0084 0.0079
0.0072 0.0076 0.0077
0.0037 0.0028
0
101 102 103 104 105 107 110 111 112 179 1480 1706 5018 Họ
Pangasiidae
Hình 6: Số lượng cá thể trên một đơn vị đánh bắt (CPUEn) theo mùa trong năm 2017-2019(#).
Phần lớn loài Pangasius krempfi, Pangasius hypophthalmus khai thác hiệu quả vào mùa
conchophilus, Pangasius macronema, mưa hơn vào mùa khô (Hình 6).
Pangasius siamensis và Pangasius elongates 3.4.2. Sản lượng cá thể trên một đơn vị
đánh bắt hiệu quả. Trong năm 2018 loài đánh bắt (CPUEw) theo mùa
Pangasius conchophilus và Pangasianodon
CPUEw (gam/m2 giờ) theo mùa của các loài thuộc họ Pangasiidae
8
7,43 Mùa mưa 2017 Mùa khô 2017
7
Mùa mưa 2018 Mùa khô 2018
6 Mùa mưa 2019 Mùa khô 2019
5
4,55
4,00
4
3,58
3,49
3,30
3
2,35
2,08
2 1,98
1,73
1,60
1,42 1,47 1,34
1,02
1
0,77 0,70
0,57 0,51
0,44 0,53 0,40
0,13
0,15
0
101 102 103 104 105 107 110 111 112 179 1480 1706 5018 Họ Pangasiidae
Hình 7: Sản lượng cá thể trên một đơn vị đánh bắt (CPUEw) theo mùa trong năm 2017-2019(#).
76 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Tương tự, sản lượng cá thể trên một đơn vị Pangasius krempfi và Pangasius mekongensis
đánh bắt (CPUEw) theo mùa của họ Pangasiidae tập trung vào tháng 2 đến tháng 4 (50,0; 83,3
không có sự biến động lớn và không thể hiện xu và 66,7%) khác biệt như vậy là do trong khảo
hướng rõ ràng qua 3 năm. Trong đó, CPUEw sát này vùng sinh cảnh sông chính tỉnh Trà Vinh
mùa khô của năm 2017 và 2019 cao hơn mùa gần cửa Cổ Chiên - cửa Cung Hầu nhưng năm
mưa, và ngược lại CPUEw mùa mưa năm 2018 2018 tại đây không khai thác được Pangasius
cao hơn mùa khô (Hình 7). krempfi và Pangasius mekongensis.
IV. THẢO LUẬN Ở khu vực thượng nguồn sông Tiền và
Kết quả quan trắc trong 3 năm từ 2017 đến sông Hậu (An Giang), cá Bông lau được khai
2019 đã xác định có 13 loài thuộc họ Pangasiidae. thác nhiều nhất vào tháng 2 – 3 (Võ Thành
Theo khảo sát thành phần loài cá da trơn họ Toàn, 2018). Trong khảo sát này, năm 2018
Pangasiidae của Nguyễn Văn Thường và ctv., vùng sinh cảnh kênh rạch (An Giang) không
(2009), tại sông Tiền và sông Hậu thu được 10 xuất hiện Pangasius krempfi, tại vùng sinh cảnh
loài. Tài liệu thống kê “Cá nước ngọt Việt Nam” ruộng ngập lụt (An Giang) chỉ khai thác được
của Nguyễn Văn Hảo, 2005 đã miêu tả 18 loài vào tháng 1 (1 cá thể) và tháng 2 (2 cáthể) còn
cá thuộc họ Pangasiidae đại diện cho tất cả các tại vùng sinh cảnh sông chính tỉnh An Giang chỉ
loại hình thủy vực ở vùng ĐBSCL. Hướng dẫn có vào tháng 1 (1 cá thể) và tháng 4 (1 cáthể).
thực địa (Vidthayanon, Chavalit, 2008) các loài Baird (2004) trình bày một phân tích trong
cá ở ĐBSCL của MRC năm 2008 cũng chỉ ra bốn năm (1994, 1995, 1998 và 1999) ở mũi phía
12 loài thường xuyên hiện diện ở lưu vực sông nam của đảo Nok Kasoum, huyện Khong, tỉnh
Mekong. Gần đây, mô tả định loại cá ĐBSCL Champasak, miền nam CHDCND Lào. Mặc
(Tran, D.D và ctv., 2013), Việt Nam cũng chỉ thể dù hơn 100 loài khác bị đánh bắt, Pangasius
hiện 8 loài cá họ Pangasiidae sống trong vùng conchophilus (cá Hú) là loài chiếm ưu thế. Bài
nước ngọt. Kết quả quan trắc của nghiên cứu đã viết cho rằng Pangasius krempfi (cá Bông lau) là
thể hiện hầu hết các loài cá thường gặp trong họ một trong các loài vô tính di cư từ ĐBSCL ở Việt
Pangasiidae, cho thấy không có sự mất đi hay Nam đến Thác Khone và xa hơn. Trong khảo
có sự xuất hiện loài mới trong họ Pangasiidae, sát này từ năm 2017 đến năm 2019 chiếm ưu
ngoại trừ 2 loài cá Tra dầu (Pangasianodon thế cao nhất trong họ Pangasiidae là Pangasius
gigas) và cá Vồ cờ (Pangasius sanitwongsei) krempfi tiếp đến Pangasius conchophilus và
chưa có tài liệu nào đề cập về việc chúng xuất Pangasius elongatus (cá Dứa nước ngọt).
hiện ở các thủy vực tự nhiên vùng ĐBSCL trong Loài Pangasius krempfi (cá Bông lau)
thời gian khá lâu. chiếm số lượng lớn tại vùng sinh cảnh ven biển
Trong khảo sát này chủ yếu khai thác được do giai đoạn sống đầu tiên chúng sống tại khu
Pangasius krempfi (cá Bông lau) tại Tiểu Cần từ vực cửa sông. Năm 2019 số lượng giảm đáng
tháng 3/2017 đến tháng 5/2018 và tại Phú Tân kể một phần do hộ 16 khai thác quá ít ngày vào
từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2017. Nghiên cứu tháng 8 (2/30 ngày) và 9 (6/31 ngày) so với 2
của Lê Dương Ngọc Quyền và Dương Thúy năm trước đó, ảnh hưởng của cơn bão số 4 và
Yên năm 2018 phỏng vấn trực tiếp 45 hộ dân tại hạn hán.
cửa Cổ Chiên - cửa Cung Hầu, các hộ khai thác
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 77
- Loài Pangasius krempfi (cá Bông lau) chiếm số lượng lớn tại vùng sinh cảnh ven biển do
giai đoạn sống đầu tiên chúng sống tại khu vực cửa sông. Năm 2019 số lượng giảm đáng kể một
phần do hộ 16 khai thác quá ít ngày vào tháng 8 (2/30 ngày) và 9 (6/31 ngày) so với 2 năm trước
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
đó, ảnh hưởng của cơn bão số 4 và hạn hán.
Mức nước i Tân Châ và Châ Đốc với ản lượng cá Panga ii a khai hác ở Đ S CL
5
4.48
4 4.40
3.59
3.31
3 3.20
2.50
2.15
2
1.86 1.43
1.11
1 Mức nước Tân Châu (m) 1.38
Mức nước Châu Đốc (m) 1.05
Log (Số con)
Log (kg)
0
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
Hình 8: Mức nước (mét) Tân Châu, Châu Đốc với sản lượng khai thác Pangasiidae ở ĐBSCL(#).
Hình 8: Mức nước (mét) Tân Châu, Châu Đốc với sản lượng khai thác Pangasiidae ở ĐBSCL(#).
Chế độ lũ của sông Mekong liên quan rất mật thiết với sản lượng khai thác thủy sản tự
Chế độ lũ của sông Mekong liên quan rất trường Quốc tế (ICEM) cho rằng tổn thất cá so
nhiên của vùng ĐBSCL. Khi mực nước lũ hàng năm tăng thì sản lượng cá tự nhiên hàng năm vùng
mật thiết với sản lượng khai thác thủy sản tự với năm 2000 là khoảng 210.000 đến 540.000
ĐBSCL tăng theo, ngược lại khi mực nước lũ hàng năm giảm thì sản lượng cá tự nhiên hàng năm
nhiên của vùng ĐBSCL. Khi mực nước lũ hàng tấn mỗi năm.
năm vùng
tăng ĐBSCL
thì sản giảm
lượngtheocá (Hình 8). Các
tự nhiên hàngcông
nămtrình thủyBáođiệncáo
trênnày
dòngchochính tại nếu
rằng, thượngxâynguồn sông
đập thì đập
vùngMekong
ĐBSCLđãtăng đi vàotheo,
hoạt ngược
động trong 3 năm
lại khi mựctrở lạinhư
đây bức
đã tác độngthành
tường tiêu cực
mà cátheo chiềuthể
không hướng
vượtsuyqua
nướcgiảm
lũ hàng
nguồnnăm giảm
lợi cá, thì sản
đặc biệt lượng cá tự
họ Pangasiidae, do mấtđểđidibãi
cưđẻtheo mùaloài
của các sinh sản.
cá và mấtNgay
đi sựcả khicủa
di cư xây
nhiênchúng
hàngtrênnămdòng
vùngchính
ĐBSCL tronggiảm (Hình cầu thang cho cá đi qua thì cũng không khả thi
theoqua.
thời gian
8). Các công trình thủy điện trên dòng chính tại đối với dòng chính Mekong (Hiện cũng chỉ có
Baird (2004) cũng cho rằng những thay đổi về điều kiện thủy văn ở sông Mekong và các
thượng nguồn sông Mekong đã đi vào hoạt động 3 dự án có thiết kế cầu thang cá). Nếu xây đập
nhánh lớn của nó gây ra bởi việc xây dựng các đập thủy điện lớn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng
trong 3 năm trở lại đây đã tác động tiêu cực theo thì 35% tổng lượng cá di cư sẽ bị đập cản trở,
chiềudihướng
cư cá vàsuynghề
giảmcánguồn
liên quan.
lợi cá, đặc biệt họ với mức độ rủi ro là 0,7 - 1,6 triệu tấn/năm.
Theo Lê
Pangasiidae, do Anh
mất Tuấn
đi bãi&đẻctv.,của(2014) ngày
các loài cá càng
và cóĐến nhiều
nămdự 2030,
án đậptổng
thủy tổn
điệnthất
đã và đang
trực được
tiếp về xây
cá là
mất đi sự di
dựng cưdòng
trên của chúng trên dòng
chính thượng chính
nguồn trong
sông Mekong. 550.000
Các đập- 880.000 tấn/năm
nước sẽ ngăn (chưa
cản sự di cưtính
củatổn thất
nhiều
thời gian qua.
loài cá, đặc biệt là nhóm cá da trơn, mà báo cáo Đánh cá đồng và trường
giá Môi cá biển) hay lược
Chiến 26–42% so điện
về thủy với đường
dòng
Baird (2004) cũng cho rằng những thay cơ bản năm 2000. Chỉ tính nếu chỉ xây dựng đập
đổi về điều kiện thủy văn ở sông Mekong và Xayaburi có chiều cao 32 m, vượt quá độ cao
các nhánh lớn của nó gây ra bởi việc xây dựng cầu thang cho cá di cư thì không những chỉ cản
các đập thủy điện lớn có thể ảnh hưởng nghiêm đường di cư của cá mà còn làm đảo lộn dòng
trọng di cư cá và nghề cá liên quan. chảy, phá vỡ hệ sinh thái không thể cứu vãn nổi
Theo Lê Anh Tuấn & ctv., (2014) ngày càng dẫn đến tuyệt chủng 41 loài cá cũng như các
có nhiều dự án đập thủy điện đã và đang được loài thủy sinh khác sẽ gây ra thảm họa cả về an
xây dựng trên dòng chính thượng nguồn sông ninh lương thực lẫn dinh dưỡng.
Mekong. Các đập nước sẽ ngăn cản sự di cư Ngoài ra, các đập như là những rào cản trên
của nhiều loài cá, đặc biệt là nhóm cá da trơn, sông cũng sẽ ảnh hưởng tới sự trôi dạt xuống
mà báo cáo Đánh giá Môi trường Chiến lược hạ lưu của trứng và ấu trùng cá cũng như các
về thủy điện dòng chính sông Mekong (SEA, loài động vật thuỷ sinh khác. Sự ngăn cản này
2010) của nhóm công tác của Trung tâm Môi tác động lớn tới việc sụt giảm sản lượng do ảnh
78 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
hưởng tiêu cực tới năng suất sinh học thứ cấp có CPUEn (ven biển) và CPUEw (ven biển và
của các nhóm cá không di cư. Việc thay đổi lớn sông chính) giảm theo thời gian. Ngược lại, tại
và nhanh về mực nước và lưu tốc dòng chảy ở kênh rạch loài Pangasianodon hypophthalmus
các vực sâu cũng làm mất đi nơi trú ngụ của các (cá Tra sông) có CPUEw tăng qua 3 năm.
loài cá vào mùa khô. Thêm vào đó, chế độ thuỷ Hạn chế khai thác Helicophagus waandersi
văn thay đổi sẽ cản trở sự di cư của cá trưởng (cá Sát chuột) chỉ xuất hiện tháng 1/2019 tại Chợ
thành, gây nhiễu tín hiệu di cư và cản trở chu kỳ Mới và Pangasius mekongensis (cá Tra bần) chỉ
di cư của cá. Nếu hạ mực nước đột ngột trong xuất hiện tháng 11/2017 tại Vũng Liêm.
điều kiện năm hạn (cả trong mùa khô và mùa Việc xây dựng các công trình thủy điện trên
mưa), có thể gây tác động tức thì tới mức nước sông chính ở thượng nguồn tác động đến lưu
hạ du Kra-chê và sẽ làm trễ thời điểm bắt đầu lượng nước và mức nước, làm ảnh hưởng rất lớn
mùa lũ, một tín hiệu di cư quan trọng của một đến nguồn lợi cá di cư trên sông chính ở hạ lưu,
số loài cá (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016). đặc biệt là các loài thuộc họ Pangasiidae.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.2. Đề xuất
5.1. Kết luận Nên cập nhật thêm số liệu mức nước kết
Kết quả quan trắc từ năm 2017 đến 2019 hợp đo lưu tốc dòng chảy của các điểm quan
xác định có 13 loài thuộc họ Pangasiidae cụ thể trắc góp phần đánh giá, nhận xét biến động các
vào năm 2017 với 10 loài đạt 30.287 cá thể, năm loài thuộc họ Pangasiidae tốt hơn.
2018 với 11 loài đạt 25.183 cá thể và năm 2019 Hạn chế khai thác các loài có kích cỡ nhỏ,
với 12 loài chỉ còn 3.861 cá thể. nên sử dụng ngư cụ có kích thước mắc lưới từ
Loài Pangasius krempfi, Pangasius 5 trở lên.
elongates và Helicophagus leptorhynchus có LỜI CẢM ƠN
số lượng cá thể khai thác giảm qua các năm. Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Ủy
Ngược lại số lượng cá thể loài Pangasius Hội sông Mekong (MRC) đã hỗ trợ kinh phí và
siamensis, Pangasianodon hypophthalmus, sự ghi chép cẩn thận của 21 hộ khai thác để góp
Pangasius macronema, Pangasius pleurotaenia phần hoàn thành khảo sát này.
và Pangasius micronemus tăng từ năm 2017
đến năm 2019. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Xu hướng sản lượng khai thác và kích cỡ Tài liệu tiếng Việt
Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016. Nghiên cứu
chiều dài họ Pangasiidae giảm theo thời gian.
tác động của các công trình thủy điện trên dòng
Hầu hết các loài cá khai thác được tập trung chính sông Mekong. HDR và DHI tư vấn, 113
chủ yếu ở dòng chính của sông và có kích cỡ trang.
lớn, trong khi đó ở ruộng ngập lụt sản lượng Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni,
khai thác ít hơn và kích cỡ cá nhỏ hơn. Loài Lê Phát Quới và Nguyễn Đức Tú, 2014. Chuyện
về nước và con người ở Đồng bằng sông Cửu
Pangasius krempfi, Pangasius conchophilus Long, Gland, Thụy Sĩ: IUCN. 66 trang.
và Pangasius elongates tập trung chủ yếu Lê Dương Ngọc Quyền và Dương Thúy Yên, 2018.
tại vùng ven biển, còn loài Pangasianodon Hiện trạng khai thác cá bông lau (Pangasius
hypophthalmus và Pangasius larnaudiei tập krempfi) và cá tra bần (Pangasius mekongensis)
ở cửa sông Tiền. Tạp chí Khoa học Trường Đại
trung tại ruộng ngập lụt.
học Cần Thơ. 54(9B): 82-87.
Kết quả cho thấy vùng ven biển có CPUEn Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt Nam (tập
và CPUEw họ Pangasiidae giảm qua 3 năm. II), Nhà Xuất Bản Hà Nội, Hà Nội.
Trong đó loài Pangasius krempfi (cá Bông lau) Nguyễn Văn Thường, Tô Công Tâm, Nguyễn Văn
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 79
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Lành, Nguyễn Bạch Loan, 2009. Khảo sát thành Vidthayanon, Chavalit, 2008. Field guide to fishes
phần loài cá trơn họ Pangasiidae ở Đồng bằng of the Mekong Delta. Mekong River Commision,
sông Cửu Long. Đề tài cấp bộ-Mã số đề tài: Vientiane, 288 pp.
B2006-16-14, 80 trang. Poulsen, A.F., Hortle, K.G., Valbo-Jorgensen,
Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu Hương, 1993. Định J., Chan, S., Chhuon, C.K., Viravong, S.,
loại cá nước ngọt Đồng bằng sông Cửu Long, Bouakhamvongsa, K., Suntornratana, U.,
Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. Yoorong, N., Nguyen T.T., and Tran Q.B, 2004.
Tran, D.D., Shibukawa K., Nguyen, T.P., Ha, P.H., Distribution and ecology of some important
Tran, X.L., Mai, V.H., and Utsugi, K., 2013. Mô riverine fish species of the Mekong River Basin.
tả định loại cá Đồng bằng sông Cửu Long, Việt MRC Technical Paper No. 10. ISSN: 1683-1489.
Nam. Fishes of the Mekong Delta, Vietnam. Can Rainboth, W.J., 1996. Fishes of the Căm-pu-chian
Tho University Publishing House, Can Tho. 174 Mekong. FAO, Rome, 265 pp.
pages. Roberts, T.R., 1993b. Artisanal fisheries and fish
Võ Thành Toàn, 2018. Đánh giá hiện trạng nguồn ecology below the great waterfalls of the Mekong
lợi cá bông lau giống (Pangasius krempfi) ở vùng River in southern Laos. Natural History Bulletin
cửa sông Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Đề tài cấp cơ of the Siam Society 42: 67-77.
sở, trường Đại học Cần Thơ. Roberts, T. R., and Baird, I. G., 1995. Traditional
Tài liệu tiếng Anh fisheries and fish ecology on the Mekong River
Baird, I.G., 1998. Preliminary fishery stock at Khone Waterfalls in southern Laos. Natural
assessment results from Ban Hang Khone, History Bulletin of the Siam Society 43: 219-
Khong District, Champassak Province, Southern 262.
Lao PDR. Technical Report. Environmental Singanouvong, D., Soulignavong, C., Vonghachak,
Protection and Community Development in the K., Saadsy, B., and Warren, T.J., 1996a. The
Siphandone Wetland, Champassak Province, Lao main dry-season fish migrations of the Mekong
PDR. Funded by European Union, implemented mainstream at Hat Village, Muang Khong
by CESVI. 12 pp. District, Hee Village, Muang Mouan (Sic)
Ian g. Baird, Mark s. Flaherty and bounpheng District and Ban Hatsalao Village, Paxse. IDRC
Phylavanh, 2004. Mekong river pangasiidae Fisheries Ecology Technical Report No. 3. 131
catfish migrations and the khone falls wing trap pp.
fishery in southern Laos. Nat. Hist. Bull. Siam Sverdrup-Jensen, S,. 2002. Fisheries in the Lower
Soc. 52(1): 81-109, 2004. Mekong Basin: status and perspectives.
ICEM. Strategic Environmental Impact Assessment MRC Technical Paper No. 6. Mekong River
for Hydropower on the Mekong Mainstream. Commission, Phnôm Pênh. 103 pp.
Final Report, prepared for the Mekong River
Commission. Hanoi; 2010. Available at: http://
www.mrcmekong.org/ish/SEA/ SEA-Main-
Final-Report.pdf.
80 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ASSESSMENT ON THE CURRENT STATUS OF PANGASIIDAE
FAMILY IN THE LOWER MEKONG RIVER FROM 2017 TO 2019
Dinh Trang Diem1*, Nguyen Nguyen Du1, Tran Thuy Vy1, and Huynh Hoang Huy1
ABSTRACT
Assessment of the status of the Pangasiidae family in the lower Mekong river from 2017 to 2019
was carried out in 8 districts (An Phu, Phu Tan, Cho Moi, Thoai Son, Phong Dien, Vung Liem, Tra
Vinh, and Tieu Can) belongs to 4 provinces (An Giang, Can Tho, Tra Vinh, and Vinh Long) with
5 main habitats (Flooded rice field, Canal, Tributary, Mainstream river, and Coastal areas). The
fisheries data were collected from January 2017 to December 2019 through the fishing logbooks
of 21 fishermen by using 2 types of fishing gears (gill net and trammel net). The results showed
that the size Pangasiidae trend decline over time. Thirteen species of Pangasiidae were recorded
from 2017 to 2019, in 2017 with 10 species (30,287 individuals), 2018 with 11 species (25,183
individuals), and 2019 with 12 species (only 3,861 individuals). Almost all of the species are mainly
concentrated in the mainstream river with large sizes, while it was contrary to the flooded rice field.
Pangasius krempfi, Pangasius conchophilus, and Pangasius elongatus are mainly concentrated in
coastal areas, while Pangasianodon hypophthalmus, and Pangasius larnaudiei are concentrated
in the flooded rice field. The construction of new hydropower dams on the Mekong main river
upstream affects discharge and water level, greatly affecting fish migratory, especially species of
the family Pangasiidae.
Keywords: lower Mekong, fishing, fish caught size, Pangasiidae, capture production.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Tú Người phản biện: PGS. TS. Trần Đắc Định
Ngày nhận bài: 16/6/2020 Ngày nhận bài: 16/6/2020
Ngày thông qua phản biện: 17/7/2020 Ngày thông qua phản biện: 20/7/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020 Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
1
Research Institute for Aquaculture No.2
* Email: *trangdiemdinh@gmail.com
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 81
nguon tai.lieu . vn