Xem mẫu

  1. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÙNG NUÔI CÁ TRA TẠI TỈNH AN GIANG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021 Nguyễn Thanh Trúc1*, Phạm Thị Loan2, Lê Hồng Phước1, Thới Ngọc Bảo1, Đặng Ngọc Thùy1, Trần Minh Thiện1, Đặng Thị Ngọc Hân1, Lưu Đức Điền1, Lâm Quốc Huy3 TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá diễn biến chất lượng nước vùng nuôi cá tra ở tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2021. Mẫu được thu ở 6 vị trí thuộc các 3 huyện Châu Phú, Chợ Mới và Phú Tân dọc theo dòng sông Hậu với các thông số nhiệt độ, pH, DO (ôxy hòa tan), TAN (tổng nitơ ammonia), NO2--N, PO43--P, TSS (tổng chất rắn lơ lửng), COD (nhu cầu ôxy hóa học), Aeromonas tổng số, Aeromonas hydrophila và Edwardsiella ictaluri. Các thông số được quan trắc với tần suất 2 tuần/lần, riêng tháng 5 với tần suất 1 tuần/lần. Kết quả quan trắc cho thấy nhiệt độ trung bình 29,3 ± 1,00C, pH = 7,3 ± 0,3, DO = 4,5 ± 0,5 và TSS trung bình 34 ± 31 mg/L. Các thông số chỉ thị ô nhiễm dao động như sau: TAN 0,54 ± 1,01 mg/L, nitrite 0,068 ± 0,054 mg/L, phosphat 0,055 ± 0,059 mg/L, COD 4,2 ± 2,3 mg/L. Các chất chỉ thị ô nhiễm cao tập trung trong khoảng thời gian tháng 1 – 2/2021. Vi khuẩn Aeromonas tổng số có mật độ trung bình 1,8 x 103 ± 3,3x103 CFU/ ml. Tần suất dương tính với vi khuẩn Aeromonas hydrophila là 71,4% số lượt quan trắc. Đối với vi khuẩn Edwardsiella ictaluri ghi nhận sự xuất hiện với tần suất 16,7% số lượt quan trắc và tập trung nhiều nhất trong tháng 4/2021. Từ khoá: chất lượng nước, cá tra, An Giang, quan trắc. I. ĐẶT VẤN ĐỀ hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước mặt. Nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã trở thành Vấn đề ô nhiễm nguồn nước mặt do nước một nghề truyền thống ở ĐBSCL nói chung và thải sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, cũng tỉnh An Giang nói riêng và tạo ra giá trị kinh tế như hoạt động NTTS gây ra suy thoái môi lớn cho người dân và đất nước. Bên cạnh các giá trường xung quanh là những nguyên nhân khiến trị do nghề NTTS mang lại, hoạt động NTTS cho việc nuôi cá tra ở ĐBSCL nói chung và ở đang là nguồn gây ô nhiễm cục bộ trên các sông. An Giang nói riêng gặp nhiều khó khăn nếu Tại những khu vực NTTS, nguồn gây ô nhiễm không có hệ thống giám sát, quản lý môi trường chính là bùn lắng đọng trong ao NTTS thải ra kịp thời. Do đó việc đánh giá chất lượng nước hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao mặt vùng nuôi cá tra thuộc tỉnh An Giang là cần nuôi. Một vấn đề quan trọng đó là chất thải ao thiết cho việc giám sát chất lượng nước từ đó nuôi công nghiệp, đây là nguồn có thể gây ô đưa ra những biện pháp quản lý môi trường phù nghiễm môi trường và dịch bệnh phát sinh trong hợp phục vụ trong việc nuôi và phát triển cá tra môi trường nước. Sự cố tôm, cá chết do bệnh nhằm tăng sản lượng và phòng ngừa dịch bệnh thường xảy ra nếu không kiểm soát tốt sẽ gây ảnh trên cá do ảnh hưởng của môi trường nước. 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II 2 Tổng cục Thủy sản. 3 Trường Đại học Bạc Liêu. * Email: ksthanhtruc2002@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021 65
  2. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Lựa chọn điểm quan trắc Các điểm quan trắc vùng nuôi cá tra tập và sản lượng, (3) Điểm quan trắc thuộc các sông trung được lựa chọn dựa trên tiêu chí: (1) Phục hoặc kênh rạch cấp trực tiếp vào vùng nuôi, có vụ vùng nuôi cá tra trọng điểm ở An Giang, (2) tính ổn định và đại diện cho toàn vùng. Vùng nuôi đại diện cho địa phương về diện tích Hình 1: Vị trí các điểm thu mẫu. Bảng 1. Các điểm quan trắc vùng nuôi cá tra tập trung. Ký Địa Điểm thu mẫu Vĩ độ Bắc Kinh độ Đông Ghi chú hiệu điểm Bến đò Phú Lạc – Châu Vùng nuôi cá tra trên AG1 10ο41’40.52” 105ο11’23.64” Cồn Khánh Hòa Phú Cồn Khánh Hòa Sông Tiền 1 – Cầu Châu Vùng nuôi cá tra AG2 10ο37’6.53” 105ο12’35.03” Vịnh Tre Phú thương phẩm 70 ha Sông Tiền 2 – Cầu Châu Vùng nuôi cá tra giống AG3 10ο34’57.18” 105ο13’49.91” chữ S Phú xã Vĩnh Trạch Trung Ấp Bình Thành – Phú Vùng nuôi công ty AG4 10ο29’39.0” 105ο20’18.2” Phú Bình Tân Trường Giang Bến đò Chùa – Châu Vùng nuôi cá tra trên AG5 10ο27’4.38” 105ο23’1.23” Cồn Bình Thủy Phú Cồn Bình Thủy Bến đò Sơn Đốt – Chợ Vùng nuôi cá tra xã AG6 10ο23’33.72” 105ο26’58.42” Nhơn Mỹ Mới Nhơn Mỹ 66 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021
  3. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 2.2. Thời gian quan trắc 2.4.1. Thời điểm thu mẫu Từ tháng 1/2021 đến tháng 06/2021, cụ thể Nhằm đánh giá chất lượng các nguồn nước như sau: cấp cho khu vực nuôi cá tra, mẫu được thu bằng 11/01/2021 22/03/2021 17/05/2021 bathomet ở tầng mặt cách mặt nước 0,5 mét, 18/01/2021 05/04/2021 24/05/2021 vào thời điểm nước lớn trong kỳ triều kém của 01/02/2021 19/04/2021 31/05/2021 mỗi đợt quan trắc. 22/02/2021 03/05/2021 14/06/2021 2.4.2. Phương pháp thu mẫu, bảo quản mẫu 08/03/2021 10/05/2021 28/06/2021 - TCVN 6663-1:2011 – Chất lượng nước – 2.3. Thông số và tần suất quan trắc Lấy mẫu – Phần 1: Hướng dẫn lập chương trình Các thông số quan trắc: Nhiệt độ, pH, lấy mẫu và kỹ thuật lấy mẫu; độ mặn, DO (Dissolved Oxygen), độ kiềm, - TCVN 6663-3:2016 – Chất lượng nước TAN (NH4+-N), NO2--N, PO43--P, COD, TSS – Lấy mẫu – Phần 3: Bảo quản và xử lý mẫu (Total suspended solids), Aeromonas tổng số, nước; Edwardsiella ictaluri. - TCVN 6663-6:2018 – Chất lượng nước – Tần suất quan trắc là 2 tuần/lần, riêng tháng Lấy mẫu - Phần 6: Hướng dẫn lấy mẫu nước 5 tần suất thu mẫu 1 tuần/lần. sông và suối. 2.4. Phương pháp thu mẫu 2.5. Phương pháp phân tích Bảng 2. Danh mục các phương pháp phân tích. STT Chỉ tiêu Phương pháp 1 Nhiệt độ SMEWW 2550 B 2 pH TCVN 6492:2011 3 DO TCVN 7325:2016 4 Độ kiềm TCVN 6636 – 1: 2000 5 TAN SMEWW 4500- NH3 F 6 NO2—N SMEWW 4500- NO2 B 7 PO4 P 3— SMEWW 4500- P E 8 COD TCVN 6186: 1996 9 TSS SMEWW 2540 D 10 Aeromonas tổng số SMEWW 9260 L 11 Aeromonas Cặp mồi Fd-Aero/Rs-Aero khuếch đại đoạn trình tự có kích thước 209 bp của gen AeroA, là gen mã hóa cho protein gây độc quan trọng của Aeromonas hydrophila là AeroA. 12 Edwardsiella ictaluri Cặp mồi Ei-Fd/Ei-Rs khuếch đại đoạn trình tự có kích thước 407 bp của gen 16S rDNA của Edwardsiella ictaluri. Ghi chú: SMEWW: Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam 2.6. Phương pháp xử lý số liệu Sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2010 để tính các giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá xử lý số liệu theo phương pháp thống kê mô tả trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021 67
  4. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN trung bình ở các điểm quan trắc là 29,3 ± 1,0oC. 3.1. Tình hình nuôi cá tra 6 tháng đầu Nhiệt độ ghi nhận được ở tất cả các thủy năm năm 2021 vực đều nằm trong khoảng giới hạn thích Theo VASEP tính tới cuối tháng 6/2021, hợp cho nuôi cá tra theo QCVN 02-20:2014/ diện tích thả nuôi cá tra của tỉnh An Giang đạt BNNPTNT (25 – 32oC). Theo Boyd và Tucker 1.226 ha, sản lượng xuất khẩu trên 113.000 (1998), khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự phát tấn/năm. Theo báo cáo “Tình hình sản xuất triển của cá nhiệt đới là 28 – 32oC; riêng cá tra nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu có khả năng chịu đựng nhiệt độ từ 16,7oC đến năm 2021” của Cục thống kê tỉnh An Giang 40,8oC (Dương Thúy Yên, 2003). Sự biến động ước tính tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng nhiệt độ có khả năng ảnh hưởng đến sự phân (bao gồm sản lượng lồng bè) khoảng 235,5 hủy và tồn tại các chất khác trong thủy vực. ngàn tấn, bằng 99,62% hay giảm 909 tấn so Ngoài ra, theo Nguyễn Thị Kim Liên và ctv. cùng kỳ. Cụ thể: (2016) nhiệt độ trên nhánh sông Hậu biến động Sản lượng cá tra thu hoạch khoảng 208,7 trong khoảng 27,1 - 32oC, trung bình 29,29 ± ngàn tấn, bằng 101,27% (tăng 2,6 ngàn tấn). 1,16oC. Theo Nguyễn Thanh Trúc và ctv. (2019) Do giá cá tra luôn dao động ở mức thấp và một thì khoảng biến động nhiệt độ trên các lưu phần do giá cá lóc tăng cao từ những tháng cuối vực sông thuộc sông Tiền và sông Hậu là 25 năm 2020 nên một số hộ đã chuyển từ nuôi cá - 34oC, trong đó các lưu vực thuộc An Giang tra sang nuôi cá lóc góp phần làm cho sản lượng dao động 28,9 ± 1,3oC. Theo MRC (2019) đã cá lóc thu hoạch tăng cao. Ước tính tổng sản khảo sát nhiệt độ nước vào năm 2017 ở lưu vực lượng cá lóc thu hoạch trong 6 tháng đầu năm sông Bassac (sông Hậu) bao gồm Campuchia (3 2021 khoảng 8,1 ngàn tấn, bằng 107,98% hay điểm) và Việt Nam (2 điểm: Châu Đốc và Cần tăng 599 tấn so cùng kỳ. Với đặc tính dễ nuôi, Thơ), kết quả cho thấy nhiệt độ nước biến động kỹ thuật nuôi đơn giản, chi phí đầu tư không trong khoảng 26,8 - 32,60C, 29,8 ± 1,3oC. Hiện cao nhưng giá bán luôn ổn định nhờ nhu cầu tại nhiệt độ nước ở các thủy vực được quan trắc thị trường nội địa luôn ổn định, đồng thời một dao động trong khoảng chung của lưu vực và số hộ nuôi cá tra chuyển sang nuôi cá rô phi vẫn trong khoảng thích hợp cho sự phát triển (đỏ, đen) theo hình thức lồng/bè nên sản lượng của cá. thu hoạch của loại cá này tăng cao so cùng kỳ, 3.2.2. pH với sản lượng thu hoạch hơn 9,5 ngàn tấn, tăng Giá trị pH có sự biến động giữa các thủy 5,19% (tăng 470 tấn). Dù giá bán cá tra thương vực quan trắc và dao động trong khoảng 6,5 phẩm luôn dao động dưới mức giá thành nhưng -7,6, trung bình 7,3 ± 0,3. Trong đó các thủy nhờ nhu cầu con giống tăng cao (tiêu thụ trong vực thượng nguồn có giá trị pH trung bình và ngoài tỉnh) nên số lượng con giống cá tra vào tháng 1 và tháng 2 cao hơn các tháng còn sản xuất ước tính khoảng 910 triệu con, bằng lại ở hầu hết các thủy vực thu mẫu (Hình 2), 104,84% so cùng kỳ. nhưng sự chênh lệch pH này không đáng kể 3.2. Diễn biến chất lượng nước vùng nuôi và đều trong giới hạn quy định tại QCVN 08- cá tra MT:2015/BTNMT cho mục đích bảo tồn thủy 3.2.1. Nhiệt độ sinh (6-8,5). Tuy nhiên cần lưu ý điểm quan Diễn biến nhiệt độ trong 6 tháng đầu năm trắc AG03 có giá trị pH trong các kênh cấp 2021 khu vực ven sông Hậu thuộc An Giang thấp hơn 7 theo QCVN 02-20: 2014/BTNMT dao động từ 26,0 – 30,5oC. Trong đó, nhiệt độ vào tháng 1 và tháng 2. 68 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021
  5. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Theo MRC (2017) đối với pH ở sông pH nước biến động trong khoảng 6,2 – 7,6, 7,0 Mekong và sông Bassac, giá trị pH ở phần ± 0,4. Bên cạnh đó theo Nguyễn Thị Kim Liên thượng lưu (các trạm đặt tại CHDCND Lào và và ctv. (2016) pH trên nhánh sông Hậu biến Thái Lan) cao hơn một chút so với phần hạ lưu động trong khoảng 6,3 – 8,0, trung bình 7,1 ± sông (các trạm đặt tại Campuchia và Việt Nam). 0,3. Qua đó cho thấy mặc dù pH nước có biến Trong đó trạm Cần Thơ, trạm thấp nhất ở Việt động giữa các thủy vực khác nhau nhưng vẫn Nam, báo cáo giá trị dao động từ 6,4 đến 7,3 với nằm trong khoảng chung của các lưu vực và vẫn giá trị trung bình là 6,6. Trong năm 2017 ở lưu đảm bảo cho thủy sinh vật. vực sông Bassac (sông Hậu) kết quả cho thấy Hình 2: Diễn biến pH nguồn nước cấp khu vực nuôi cá tra 6 tháng đầu năm 2021. 3.2.3. Hàm lượng ôxy hoà tan (DO) Hàm lượng ôxy hòa tan trong các thủy vực 2014) hàm lượng DO cần cho quá trình trao đổi quan trắc dao động trong khoảng 3,5 – 5,5 mg/L chất là 3,0 – 7,0 mg/L. Theo Dao Huy Giap và với hàm lượng trung bình là 4,5 ± 0,5 mg/L đều ctv. (2010) cũng cho thấy DO trên hạ lưu sông cao hơn giới hạn cho phép theo QCVN 02- Mekong dao động từ 5 – 8,25 mg/L, trung bình 20:2014/BNNPTNT (≥ 2 mg/L) cho cơ sở nuôi 6,6 ± 0,9 mg/L, theo MRC (2017) hàm lượng cá tra trong ao. Hầu hết các thủy vực có hàm ôxy hòa tan trên sông Bassac là 4,2 – 8,9 mg/L, lượng DO giảm dần từ tháng 1 – 6/2021. Đặc trung bình 6,3 ± 1,2 mg/L. Nhìn chung hàm biệt giai đoạn đầu mùa mưa từ tháng 4 – 6/2021, lượng ôxy hòa tan trong các thủy vực có biến hàm lượng ôxy hòa tan giảm thấp do hiện tượng động và giảm vào tháng 5 và tháng 6/2021, tuy rửa trôi các chất hữu cơ và phèn trong đất trên nhiên vẫn nằm trong khoảng chung của các lưu thêm lục địa vào thủy vực. Theo Smith (1982) vực và vẫn đảm bảo cho đời sống thủy sinh vật. (trích dẫn bởi Phạm Quốc Nguyên và ctv., Hình 3: Diễn biến DO nguồn nước cấp khu vực nuôi cá tra 6 tháng đầu năm 2021. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021 69
  6. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.2.4. Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) Nằm ở khu vực hạ lưu của sông Mekong chiếm 55% lượt quan trắc. TSS dao động từ 10 nên ĐBSCL hàng năm nhận được tải lượng – 153 mg/L, trung bình ở các điểm quan trắc phù sa từ thượng nguồn đổ về rất lớn, do đó tần của cả khu vực là 34 ± 31 mg/L, trong đó hàm suất xuất hiện hàm lượng TSS cao vượt ngưỡng lượng TSS đạt giá trị cao nhất vào tháng 1/2021 QCVN 08-MT:2015/BTNMT (< 20 mg/L) cho và thấp nhất tháng 5/2021 (Hình 4). mục đích bảo vệ đời sống thuỷ sinh khá cao, Hình 4: Diễn biến TSS (mg/L) nguồn nước cấp khu vực nuôi cá tra 6 tháng đầu năm 2021. Theo báo cáo của Trung tâm Khí tượng khô trung bình lần lượt là 60 ± 29 mg/L và 46 ± Thủy văn Quốc gia, theo thông tin của Ủy hội 29 mg/L. Theo MRC (2017) hàm lượng các chất sông Mekong quốc tế, từ ngày 05-24/01/2021 lơ lửng trên sông Bassac là 12 – 168 mg/L, trung lưu lượng xả từ hồ chứa Cảnh Hồng (Trung bình 65 ± 36 mg/L. Nhìn chung hàm lượng TSS Quốc) xuống hạ du ở mức 1.000 m3/s, sau đó sẽ trong các thủy vực có biến động nhưng vẫn nằm vận hành bình thường trở lại. Từ nữa cuối tháng trong khoảng chung của các lưu vực. 01 đến cuối tháng 02/2021, tổng lượng dòng 3.2.5. Nhu cầu oxy hóa học (COD) chảy từ thượng nguồn sông Mekong (tại trạm Hàm lượng các chất hữu cơ trong thủy vực Kratie-Campuchia) về ĐBSCL ở mức thiếu hụt được đánh giá thông qua chỉ số COD. Hàm so với trung bình nhiều năm (TBNN) khoảng lượng COD trung bình trong các kênh cấp được 5-15%; từ tháng 3-5/2021, khả năng ở mức quan trắc dọc theo sông Hậu tại An Giang dao tương đương TBNN. Đây có thể là nguyên nhân động 0,4 - 11 mg/L, trung bình 4,2 ± 2,3 mg/L, làm hàm lượng các chất rắn lơ lửng trong thủy chỉ 4% lượt quan trắc có COD cao hơn 10 mg/L. vực giảm từ tháng 1-5/2021 do lưu lượng nước Nhìn chung COD trong các thủy vực quan trắc sông về hạ nguồn thấp, đến tháng 5-6/2021 đã không có chênh lệch đáng kể. Diễn biến COD xuất hiện mưa đầu mùa vật chất bị rửa trôi từ trong nguồn nước cấp vùng nuôi cá tra ghi nhận hai bên bờ sông làm gia tăng lượng phù sa trong có xu hướng giảm từ tháng 1 đến tháng 5/2021 thủy vực. và tăng lại trong tháng 6, đây là khoảng thời Theo Nguyễn Thị Kim Liên và ctv. (2016), gian mùa mưa, nước lũ về cuốn theo các vật TSS trên nhánh sông Hậu vào mùa mưa và mùa chất hữu cơ. 70 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021
  7. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 5: Diễn biến COD (mg/L) nguồn nước cấp khu vực nuôi cá tra 6 tháng đầu năm 2021. Theo MRC (2017) nhu cầu ôxy hóa học 3.2.6. TAN trên sông Bassac là 0,3 – 5,1 mg/L, trung Hàm lượng TAN trong các thủy vực quan bình 2,6 ± 1,3 mg/L. Nhìn chung hàm trắc dao động trong khoảng 0,010 – 5,188 lượng COD trong các thủy vực có biến mg/L, trung bình 0,54 ± 1,01 mg/L. Tương tự động và cao hơn so với khảo sát của MRC hàm lượng COD, hàm lượng TAN cũng có xu (2017) trung bình 1,2 mg/L. COD và TSS hướng giảm từ tháng 1 đến tháng 6/2021. Đặc trong các thủy vực tăng ở những tháng mùa biệt trong tháng 1 và tháng 2 hàm lượng TAN khô, điều này chứng tỏ thực vật phiêu sinh tăng cao hơn QCVN 02-20:2014/BNNPTNT nhiều, và môi trường nước có dấu hiệu ô (
  8. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II hơn so với khảo sát của MRC (2017), Nguyễn vào tháng 2 ( 0,023 ± 0,013 mg/L), cao nhất vào Thị Kim Liên và ctv. (2016), Nguyễn Thanh tháng 4 (0,088 ± 0,063mg/L) và AG03 đạt giá Trúc và ctv. (2019) từ 2 – 5 lần. trị cao nhất trong tháng 4/2021. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Dưới tác dụng của một số vi sinh, ammonia Khoa học Kỹ thuật và Môi trường của Đại học được hình từ quá trình amôn hoá sẽ được tiếp Wilkes, hàm lượng NH4+ gây độc đối với các tục chuyển hóa thành nitrite (NO2-) nhờ vi loài thủy sản dao động từ 0,53 – 22,8 mg/l (Võ khuẩn Nitrosomonas và thành nitrate (NO3-) Thanh Toàn và ctv., 2007). Trương Quốc Phú nhờ vi khuẩn Nitrobacter. Các quá trình chuyển và Yang Yi (2005) thấy rằng TAN trong nuôi hóa ammonia đều cần sự tham gia của ôxy và cá lồng bè trên sông Tiền là 0,17 – 0,27 mg/L. độ kiềm của nước. Theo Nguyễn Thanh Trúc Hàm lượng TAN trong thủy vực luôn biến động và ctv. (2019) hàm lượng nitrite cao từ tháng 1 theo thời gian và cao trong thời gian mùa khô, đến đầu tháng 6 trong các thủy vực được quan Tuy nhiên, hàm lượng ammonia ở hầu hết các trắc trên sông Hậu và dao động từ 0 – 0,413 điểm quan trắc chưa gây ảnh hưởng đến nuôi mg/L, trung bình 0,039 ± 0,048 mg/L. Kết quả thủy sản nước ngọt. quan trắc trong 6 tháng đầu năm 2021 cho thấy 3.2.7. Nitrite (NO2--N) hàm lượng nitrite trung bình trong các thủy vực Hàm lượng nitrite trong các thủy vực quan quan trắc trên sông Hậu thuộc địa phận của An trắc dao động trong khoảng 0,006 – 0,236 mg/L, Giang cao hơn các nghiên cứu trước đây. Hàm trung bình 0,068 ± 0,054 mg/L. Ngược lại với lượng nitrite trong thủy vực được quan trắc có hàm lượng COD và TAN, hàm lượng nitrite có xu hướng tăng từ tháng 1 – 6/2021, ngược lại xu hướng tăng từ tháng 1 đến tháng 6/2021. so với xu hướng biến động của hàm lượng ôxy Trong đó hàm lượng nitrite đạt giá trị thấp nhất hòa tan. Hình 7: Diễn biến Nitrite (mg/L) nguồn nước cấp khu vực nuôi cá tra 6 tháng đầu năm 2021. 3.2.8. Phosphate (PO43--P) phosphate cao trong các tháng đầu năm và sau Hàm lượng phosphate trong các thủy vực đó thấp hơn. Trong đó hàm lượng phosphate ở quan trắc dao động trong khoảng 0 – 0,394 thủy vực AG05 va AG06 tăng cao hơn QCVN mg/L, trung bình 0,055 ± 0,059 mg/L. Tương 08-MT:2015/BTNMT vào tháng 1 và tháng tự TAN và COD, Hình 8 cho thấy hàm lượng 2/2021. 72 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021
  9. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Theo báo cáo của Nguyễn Thanh Trúc và là 0,017 – 0,415 mg/L. Theo Nguyễn Thị Kim ctv. (2019) hàm lượng phosphate trong các thủy Liên và ctv. (2016) phosphate trên nhánh sông vực quan trắc dao động từ 0 – 0,51 mg/L, trong Hậu 0,007 – 0,510 mg/L, 0,1 ± 0,07 mg/L. Nhìn đó các thủy vực thuộc An Giang có hàm lượng chung hàm lượng phosphate trong các thuỷ vực phosphate trung bình là 0,055 ± 0,069 mg/L. quan trắc có biến động nhưng vẫn nằm trong Theo nghiên cứu của Thái Thị Nguyên (2013) khoảng chung của các lưu vực và cũng có xu cho thấy hàm lượng phosphate trên sông Hậu hướng cao trong các tháng mùa khô. Hình 8: Diễn biến Phosphate (mg/L) nguồn nước cấp khu vực nuôi cá tra 6 tháng đầu năm 2021. Hình 9: Diễn biến Aeromonas tổng (CFU/mL) nguồn nước cấp khu vực nuôi cá tra 6 tháng đầu năm 2021. Theo Boyd và Tucker (1998) hàm lượng những thông số chất lượng nước thể hiện sự phú lân hòa tan thích hợp cho ao nuôi cá là 0,005 – dưỡng của thủy vực do đó hàm lượng phosphate 0,2 mg/L. Đây là nguồn dinh dưỡng để thực vật cao cho thấy thủy vực có sự ô nhiễm hữu cơ, phù du phát triển, tảo sẽ không phát triển khi ngược lại khi hàm lượng phosphate thấp thực phosphate thấp hơn 0,005 mg/L và sẽ nở hoa vật phù du sẽ bị hạn chế gây thiếu thức ăn tự khi cao hơn 0,02 mg/L. Phosphate là một trong nhiên trong thủy vực. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021 73
  10. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.2.9. Các chỉ tiêu về vi sinh E. ictaluri là tác nhân gây bệnh gan thận Mật độ Aeromonas tổng số trung bình trong mủ, gây tỷ lệ chết cao. Trong năm 2021 chỉ ghi các thủy vực quan trắc là 1,8x103 ± 3,3x103 nhận nước ở một số kênh cấp có kết quả dương CFU/mL. Tỷ lệ mật độ Aeromonas cao hơn 103 tính với vi khuẩn E. ictaluri và xuất hiện nhiều CFU/mL là 37% số lượt quan trắc. Trong đó trong tháng 4/2021. E. ictaluri xuất hiện với ghi nhận các thủy vực AG05 và AG06 có mật tần suất 17% số lượt quan trắc trong thời gian độ Aeromonas cao hơn 104 CFU/mL vào tháng từ tháng 1 đến tháng 6/2021 (Bảng 3). Theo 2/2021. Bên cạnh đó ghi nhận mật độ vi khuẩn Nguyễn Thanh Trúc và ctv. (2019) E. ictaluri cao vào tháng 1 và tháng 2/2021 tương ứng khi xuất hiện với tần xuất 20% lượt quan trắc, và tập hàm lượng các chất hữu cơ ghi nhận cao trong trung nhiều nhất trong tháng 4 và tháng 5/2018. các lượt quan trắc này (Hình 9). Bảng 3: Tần suất dương tính với Edwardsiella ictaluri và Aeromonas hydrophila. Số lần dương tính Điểm quan trắc Thời gian xuất hiện E. ictaluri E. ictaluri A. hydrophila AG01 2/14 10/14 Tháng 4, 5 AG02 2/14 10/14 Tháng 4, 6 AG03 3/14 9/14 Tháng 1, 4 AG04 0/14 13/14 --- AG05 3/14 10/14 Tháng 2, 4 AG06 4/14 8/14 Tháng 2, 4 Nhận xét chung Nhiệt độ, pH, DO đều nằm trong khoảng vượt ngưỡng đạt giá trị cao lần lượt là nitrite, thích hợp cho nuôi cá tra. Ngoài ra nồng độ ammonia, TSS tương ứng với 56,6%, 29,6% và các chất ammonia, nitrite, phosphate, COD 56,0%. Mẫu nước ở hầu hết các thời điểm khảo cao rải rác các thời điểm trong năm, tuy nhiên sát có kết quả dương tính với A. hydrophilla các thông số này đạt giá trị cao nhất tập trung (chiếm 71,4%), nhưng chỉ có 16,7% mẫu nước trong khoảng thời gian từ tháng 1 và tháng dương tính với E. ictaluri. 2/2021. Các thông số chỉ thị ô nhiễm có tỷ lệ Bảng 4: Tỷ lệ vượt ngưỡng. Số lần quan Aeromonas pH DO N-NO2- N-NH4+ P-PO43- TSS COD E. ictaluri A. hydrophilla Tỉnh trắc/tỷ lện vượt sp. ngưỡng 7-8,5 >2
  11. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Số lần quan Aeromonas pH DO N-NO2- N-NH4+ P-PO43- TSS COD E. ictaluri A. hydrophilla Tỉnh trắc/tỷ lện vượt sp. ngưỡng 7-8,5 >2
  12. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Thái Thị Nguyên, 2013. Biến động chất lượng nước Tài liệu tiếng Anh trên sông Hậu. Luận văn cao học, Khoa Thủy Boyd, C.E., and Tucker, C.S., 1998. Pond Aquaculture sản, Trường Đại học Cần Thơ, 70 trang. Water Quality Management. Kluwer Academic Trương Quốc Phú và Yang Yi, 2005. Ảnh hưởng Publishing, Boston, MA, USA. 700 pp. của việc nuôi cá da trơn trong bè đến chất lượng Dao Huy Giap, Tatporn Kunpradid, nước ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Tạp ChandaVongsombath, Do Thi Bich Loc and Prum chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ 3: 8-17. Somany, 2010. Report on the 2008 biomonitoring Võ Thanh Toàn, Cheng Phen và Eric Baran, 2007. survey of the lower Mekong River and selected Nghiên cứu đặc điểm một số chỉ tiêu môi trường tributaries. MRC Technical paper No.27 Mekong nước và thành phần loài tôm, cá tự nhiên ở tỉnh river Commission, Vientiane. 69 pp. Bạc Liêu. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Mekong River Commission (MRC), 2019. 2017 Thơ, 2007 (8): 139-148 Lower Mekong regional water quality monitoring Nguyễn Thanh Trúc, Lê Hồng Phước, Thới Ngọc report. www.mrcmekong.org. Bảo, Đặng Ngọc Thùy, Trần Minh Thiện, Đặng Trang web Thị Ngọc Hân, 2019. Hiện trạng chất lượng nước https://nchmf.gov.vn/Kttv/vi-VN/1/ban-tin-cap- vùng nuôi cá tra trọng điểm ở Đồng Bằng Sông nhat-ve-hien-tuong-enso-va-nhan-dinh-xu-the- Cửu Long năm 2018. Tạp chí Nghề cá Sông Cửu khi-tuong-thuy-van-tu-nua-cuoi-thang-01-nam- Long, số 13, tháng 6/2019. 2021-den-thang-7-nam-2021-post19223.html. Dương Thúy Yên, 2003. Khảo sát một số tính trạng, Bản tin cập nhật về hiện tượng enso và nhận định hình thái, sinh trưởng và sinh lý của cá Basa (P. xu thế khí tượng thủy văn từ nửa cuối tháng 01 bocourti), cá tra (P. hypophthalmus) và con lai năm 2021 đến tháng 7 năm 2021. của chúng. Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy sản. http://agrotrade.gov.vn/Pages/vi-covid-19-gia-ca- Trường Đại học Cần Thơ. tra-nguyen-lieu-co-the-bien-dong-trong-thoi- gian-toi.aspx.Vì Covid-19, giá cá tra nguyên liệu có thể biến động trong thời gian tới 76 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021
  13. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II EVALUATION OF WATER QUALITY IN THE FIRST 6 MONTHS OF 2021 OF PANGASIUS FARM AREAS IN AN GIANG PROVINCE Nguyen Thanh Truc1*, Pham Thi Loan2, Le Hong Phuoc1, Thoi Ngoc Bao1, Dang Ngoc Thuy1, Tran Minh Thien1, Dang Thi Ngoc Han1, Luu Duc Dien1, Lam Quoc Huy3 ABSTRACT This study was conducted to evaluate the fluctuation of water quality in the first 6 months of 2021 of Pangasius cultured area in An Giang province. Water samples were collected from 6 sampling sites that located in Chau Phu, Cho Moi, and Phu Tan districts belong to Hau river. The water quality parameters were monitored including temperature, pH, DO (Dissolved oxygen), TAN (Total ammonia nitrogen), NO2--N, PO43--P, TSS (Total suspended solids), COD (Chemical oxygen demand), total Aeromonas, A. hydrophila and Edwardsiella ictalurid counted. Samples were collected on a biweekly basis, except May on a weekly basis. The results showed that the average level of temperature, pH, DO, and TSS were 29.3 ± 1.0oC, 7.3 ± 0.3, 4.5 ± 0.5 mg/L, and 34.0 ± 31.0 mg/L, respectively. For other pollution indicator parameters, concentrations of TAN, nitrite, phosphate, and COD were 0.54 ± 1.01 mg/L, 0.068 ± 0.054 mg/L, 0.055 ± 0.059 mg/L, and 4.2 ± 2.3 mg/L, respectively. A major increase in pollution levels was observed between January and February 2021. While, total Aeromonas counted was 1.8x103 ± 3.3x103 CFU/ml; of which, A. hydrophila was the most prominent with the prevalence of 71.4%. A prevalence of 16.7% was observed for Edwardsiella ictaluri, mainly in April 2021. Keywords: An Giang, monitoring, Pangasianodon hypophthalmus, water quality. Người phản biện: PGS. TS. Võ Nam Sơn Người phản biện: TS. Nguyễn Phúc Cẩm Tú Ngày nhận bài: 10/11/2021 Ngày nhận bài: 10/11/2021 Ngày thông qua phản biện: 05/12/2021 Ngày thông qua phản biện: 30/11/2021 Ngày duyệt đăng: 26/12/2021 Ngày duyệt đăng: 26/12/2021 1 Research Institute for Aquaculture No.2 2 Directorate of Fisheries 3 Bac Lieu University * Email: ksthanhtruc2002@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021 77
nguon tai.lieu . vn