Xem mẫu

  1. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN LOÀI, MẬT ĐỘ CÁ BỘT VÀ CÁ CON Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NĂM 2019 Trần Thúy Vy 1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Huỳnh Hoàng Huy1 và Đinh Trang Điểm1 TÓM TẮT Nguồn lợi cá nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long liên quan mật thiết với nguồn lợi cá của lưu vực sông Mê Công. Nhiều loài cá di cư ở lưu vực sông Mê Công tập trung sinh sản vào đầu mùa lũ, trứng và cá bột được trôi dạt từ thượng nguồn hay các bãi đẻ theo dòng nước phân tán vào các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ để ẩn náu, sinh trưởng và phát triển. Nghiên cứu quan trắc nguồn lợi cá bột nhằm đánh giá nguồn lợi thủy sản ở lưu vực cũng như có thể dự báo được sự biến động nguồn lợi thuỷ sản. Cá bột và cá con ở sông Tiền và sông Hậu gần biên giới Việt Nam và Campuchia được thu mẫu hàng ngày từ 01/06/2019 đến 30/09/2019 tại thời điểm nước ròng bằng hai loại ngư cụ Lú và Đáy. Mẫu cá được lưu trữ trong keo nhựa với nồng độ cồn 70%, và sau đó mẫu được định danh và phân tích tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Tổng cộng 928 mẫu được phân tích, và kết quả phân tích đã xác định được 128 loài thuộc 11 bộ và 32 họ, trong đó 73 loài ở sông Hậu và 118 loài ở sông Tiền. Số loài cao nhất vào tháng 9 với 94 loài, họ cá chép phong phú nhất chiếm 38% tổng số loài. Mật độ trung bình cá bột và cá con đạt cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 lần lượt là 22 cá thể/1.000 m3 nước và 27 cá thể/1.000 m3 nước. Xu hướng thành phần loài tăng dần từ đầu mùa lũ đến cuối mùa lũ, trong khi đó mật độ cá thể có biến động giảm theo chiều ngược lại. Từ khóa: Biến động, cá bột và cá con, mật độ, thành phần loài, sông Tiền và sông Hậu. I. ĐẶT VẤN ĐỀ hiện từ năm 1999 đến 2003. Kết quả chỉ ra rằng Sông Mê Công chảy vào Việt Nam qua 2 có 127 loài, bao gồm 123 loài ở sông Tiền và 84 nhánh sông Tiền (dài 150 km) và sông Hậu (dài loài ở sông Hậu thuộc 29 họ thuộc 10 bộ. Chế độ 190 km) tạo nên một lưu vực vùng Đồng bằng dòng chảy, mực nước lũ, quy luật ngày đêm có sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng diện tích gần liên quan đến mật độ cá bột và cá con (Nguyễn 40.550 km2, chiếm khoảng 12% diện tích cả Thanh Tùng, 2004). Định dạng và phân loại các nước. Nguồn lợi cá nước ngọt ở ĐBSCL có liên giai đoạn của cá bột gặp rất nhiều khó khăn vì quan mật thiết đến các khu vực cư trú, các bãi các thành phần cơ thể của cá chưa phát triển đầy đẻ, đặc biệt là các vùng cư trú của chúng thuộc đủ do đó hầu hết mẫu được định danh chủ yếu các chi lưu vực sông Mê Công ở thượng nguồn. đến họ và đến giống. Những nghiên cứu trước Vào đầu mùa lũ bắt đầu vào khoảng tháng 5 – 6 đây về phân loại cá ở ĐBSCL chủ yếu tập trung hàng năm, đây được xem là mùa sinh sản tập vào các loài cá trưởng thành (Mai Đình Yên và trung của các loài cá trên thượng nguồn, cá bột ctv., 1985, 1992; Trương Thủ Khoa và Trần Thị và cá con di cư thụ động theo dòng nước về Thu Hương, 1993). Nghiên cứu các giai đoạn phía hạ lưu. Sau đó đàn cá con phân tán vào phát triển của cá từ trứng đến cá con cũng được các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ,… để thực hiện nhưng chỉ đến mức độ họ (Nguyễn sinh trưởng và phát triển. Nguồn lợi cá con này Văn Trọng, 1987; Nguyễn Hữu Phụng, 1991). có ý nghĩa rất lớn trong việc phục hồi và duy Nguồn lợi cá bột và cá con ở ĐBSCL rất đa trì nguồn lợi cá tự nhiên hàng năm cho vùng dạng và phong phú. Tuy nhiên, nguồn lợi thủy ĐBSCL. sản ở vùng ĐBSCL đang có xu hướng giảm dần Nghiên cứu cá bột và cá con đã được thực do nhiều nguyên nhân, trong đó nguồn lợi cá 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II * Email: tthuyvy670@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 71
  2. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II bột và cá con là phần bổ sung và đóng góp một quản lý nước và phát triển lưu vực. phần quan trọng đến nguồn lợi thủy sản nước ngọt của vùng ĐBSCL. Việc bảo vệ nguồn lợi II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP cá tự nhiên cũng là việc bảo vệ các nguồn tài 2.1. Vị trí thu mẫu nguyên thủy sản tiềm năng ở ĐBSCL. Chính Hai trạm đầu nguồn củưa sông Tiền và vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu này rất quan sông Hậu thuộc tỉnh An Giang gần biên giới trọng và có ý nghĩa nhằm mục tiêu phân tích, Campuchia (Hình 1). Vị trí đặt trạm thu mẫu xác định, đánh giá biến động thành phần loài là nơi tiếp nhận nguồn nước từ thượng nguồn và mật độ cá bột, cá con ở ĐBSCL. Bên cạnh đổ về ĐBSCL hàng năm. Trước năm 2000, nơi đó, nghiên cứu cũng góp phần đánh giá tình trạng và xu hướng của nghề đánh bắt trên toàn đây là vùng vớt và ương dưỡng cá tra bột truyền lưu vực cũng như cung cấp phương tiện giám thống vào đầu mùa mưa và là nơi đã cung cấp sát và đánh giá hiệu quả hơn các hoạt động cá tra giống cho nghề nuôi ở khu vực Nam Bộ. Hình 1. Vị trí hai trạm thu mẫu cá bột và cá con 2.2. Ngư cụ thu mẫu Hai loại ngư cụ Lú và Đáy được sử dụng để thu mẫu cá bột và cá con ở hai trạm, như sau: Ngư cụ 1: Lú (Bongo net) là loại ngư cụ chuyên dùng để thu cá bột. Sử dụng ngư cụ Lú để thu mẫu định lượng, xác định biến động số lượng và mật độ cá bột. Cấu trúc của Lú bao gồm lưới phiêu sinh có mắt lưới 1mm, miệng của lưới được buộc chặt vào khung tròn inox Hình 2. Ngư cụ Lú (Nguyễn có đường kính 1m, lưới dài 5m, tại đuôi lưới có Thanh Tùng và ctv., 1999) 72 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
  3. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II gắn một cái đục để thu cá, lưu tốc kế được gắn phần loài cá bột và cá con. Cấu trúc của Đáy dài vào giữa khung inox. Lú được đặt cách bờ 50m, 45 m, rộng 13 – 14 m. Được làm bằng lưới mùng dưới mặt nước 2m (Hình 2). có mắt lưới 1 – 1,5 mm, cuối túi đáy có gắn một Ngư cụ 2: Đáy (Bagnet) là loại ngư cụ thùng đục hình trụ để thu cá và túi thu có kích truyền thống của ngư dân dùng để khai thác cá thước 1,25 x 0,25 x 2,2 m được làm bằng thiếc. tra bột. Sử dụng ngư cụ Đáy để thu mẫu định Đáy được đặt cách bờ 30 m (Hình 3). tính, xác định sự đa dạng và phong phú về thành Hình 3. Ngư cụ Đáy (Nguyễn Thanh Tùng và ctv., 1999) 2.3. Thời gian thu mẫu 2.4. Tách và bảo quản mẫu vật Thời gian thu mẫu bắt đầu từ ngày Ngay tại hiện trường, sau khi thu mẫu xong 01/06/2019 đến ngày 30/09/2019. Mẫu được thì mẫu được sàng lọc và rửa sạch thông qua thu liên tục hàng ngày và được thực hiện cùng một cái sàn (cái ray) được đan bằng inox có mắt lúc như nhau ở hai trạm nghiên cứu. Mẫu được lưới 1 – 2 mm nhằm loại bỏ tất cả các loại thực thu vào lúc con nước ròng của triều trong ngày, vật, chất hữu cơ và rác, chỉ thu giữ cá bột và cá mỗi ngày có hai con nước ròng. Quá trình thu con. Mẫu sau khi tách được cố định ngay trong mẫu bao gồm thời gian thu mẫu, thời điểm thu chai nhựa với dung dịch cồn (ethanol) 70% để mẫu và cách thu mẫu được thể hiện cụ thể ở bảo quản lâu dài và được bảo quản kín tránh làm từng loại ngư cụ sử dụng sau: bay hơi cồn sẽ làm cho cá bị khô. Trong những a) Ngư cụ Lú trường hợp khác với những lý do và điều kiện Mẫu được thu vào hai thời điểm nước ròng: khác nhau, có thể cố định mẫu vật với dung dịch lúc có triều thấp nhất ở con nước ròng thứ nhất formaline 5% cho đến 5 ngày, sau đó rửa sạch và lúc có triều thấp nhất ở con nước ròng thứ mẫu rồi cố định lại bằng cồn 70% (ethanol). hai. Thời gian thu của mỗi mẫu là 30 phút. Ghi 2.5. Phương pháp phân tích chép số lưu tốc kế đặt trước miệng Lú vào lúc a) Phương pháp định danh trước khi thả Lú và sau khi thu Lú. Việc định danh cá bột dựa trên “Bộ sưu tập b) Ngư cụ Đáy mẫu cá bột chuẩn” được lưu giữ trong phòng thí Tương tự như ngư cụ Lú, mẫu cá của ngư nghiệm Ngư Loại Học, Viện Nghiên cứu Nuôi cụ Đáy được thu vào hai thời điểm nước ròng trồng Thủy sản II. Mẫu chuẩn này đã được các trong ngày. Thời gian thu mẫu là 150 phút. chuyên gia phân loại và kiểm tra. Đồng thời bổ TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 73
  4. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II sung một số tài liệu hữu ích có thể sử dụng được d) Vật liệu phân tích trong việc định loại cá bột và cá con như sau: Các vật liệu phân tích cần thiết cho việc - MRC Technical Paper No.38 (2013): thực hiện phân tích mẫu: kính hiển vi soi nổi, Tài liệu hướng dẫn phân loại một số loài cá bột khay, dĩa Petri, kim giải phẫu, kẹp, pipette bằng và cá con phổ biến ở lưu vực sông Mê Công. nhựa, thước đo, cân điện tử. - Trần Đắc Định và ctv., (2013): Mô tả 2.6. Lưu trữ và phân tích dữ liệu định loại cá ĐBSCL. Phần mềm MS. Access 2017, MS. Excel - Apichart Termvidchakorn (2003): Mô 2017 được sử dụng để lưu trữ và phân tích dữ tả hình thái cá bột và cá con ở lưu vực sông Mê liệu. Công với 62 loài khác nhau thuộc 21 họ, 14 bộ. Chỉ số Shannon – Weiner (H’) được dùng b) Phương pháp định lượng để đánh giá mức độ đa dạng loài giữa các trạm Khi số lượng cá thể ít thì tiến hành đếm tất khảo sát được tính theo công thức: cả số lượng cá thể có trong mẫu sau khi đã tách ra theo họ hoặc loài. Tuy nhiên, trong một số trường hợp số lượng cá thể quá nhiều không thể đếm trực tiếp hết được thì tiến hành lấy mẫu phụ để tính tổng Trong đó, H’: chỉ số đa dạng loài; n: tổng cộng số lượng cá thể có trong mẫu như sau: cân số các loài; ni: số lượng cá thể của loài i; N: số tổng trọng lượng mẫu chính; lấy ra 3 mẫu phụ từ lượng cá thể trong toàn bộ mẫu. những vị trí khác nhau trên mẫu; cân từng mẫu phụ và định loại tất cả các họ hoặc loài trong Sử dụng thang đánh giá đa dạng sinh học các mẫu phụ và đếm chúng. Tính toán tổng số theo các cấp của Phạm Thược (2007) như sau: lượng cá bột và cá con theo họ hoặc loài trong mẫu được tính bằng công thức sau: Giá trị H’ Mức độ da dạng >3,5 Rất phong phú 2,6 – 3,5 Phong phú 1,6 – 2,59 Tương đối tốt Trong đó: 0,6 – 1,59 Bình thường Ntot: Tổng số lượng cá bột có trong mẫu
  5. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II III. KẾT QUẢ ở sông Tiền, thuộc 11 bộ và 32 họ. Hầu hết các 3.1. Thành phần loài bộ chiếm ưu thế lần lượt tại trạm sông Hậu và Theo kết quả nghiên cứu từ tháng 6 đến sông Tiền là Cypriniformes (48% và 41%), kế tháng 9 năm 2019, tổng số 128 loài đã được định tiếp Siluriformes (22% và 23%) và Perciformes danh, trong đó 73 loài ở sông Hậu và 118 loài (18%) và 19%) (Hình 4a và 4b). Hình 4. Phần trăm các bộ tại hai trạm thu mẫu Tương tự, họ có số loài phong phú nhất 7%), Pangasiidae (7% và 6%), Cobitidae (7% tại trạm sông Hậu và sông Tiền lần lượt là và 6%), Gobiidae (4% và 5%) (Hình 5a và 5b). Cyprinidae (41% và 35%), Bagridae (8% và Hình 5. Phần trăm các họ tại hai trạm thu mẫu Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các Tra (Pangasianodon hypophthalmus) và cá Basa loài cá được bắt gặp thuộc bộ Cypriniformes (bộ (Pangasius bocourti) là đối tượng nuôi chủ lực cá Chép), họ Cyprinidae (họ cá Chép) chiếm của tỉnh An Giang, năm 2018 đạt trên 346.000 1/3 tổng số loài, đây là họ cá có thành phần loài tấn và Đồng Tháp đạt trên 470.000 tấn (Cục phong phú nhất ở ĐBSCL. Thành phần loài tại Thống kê An Giang, 2018; Cục Thống kê Đồng trạm sông Tiền phong phú và đa dạng hơn ở trạm Tháp, 2018). Ngoài ra, còn có một số loài cá có sông Hậu. Bên cạnh đó, có nhiều loài cá thuộc hai giá trị kinh tế khác và đang được nuôi như: cá Hú họ: cá Chép (Cyprinidae) và cá Tra (Pangasiidae) (Pangasius conchophilus), cá Ét mọi (Morulius là những đối tượng nuôi có ý nghĩa kinh tế rất chrysophekadion), cá Bống tượng (Oxyeleotris lớn đối với nghề cá nội địa vùng ĐBSCL nói marmorata), cá Lóc bông (Channa micropeltes) riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt hai loài cá và cá Lóc đồng (Channa striata),… TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 75
  6. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.2. Mật độ cá thể trung bình thể/1000 m3 nước, trong đó mật độ ở sông Tiền Tương ứng với sự phong phú thành phần là 21 cá thể/1.000 m3 nước cao hơn sông Hậu loài, mật độ cá thể trung bình của cá bột và (14 cá thể/1.000 m3 nước) (Hình 6). cá con ở cả sông Hậu và sông Tiền là 18 cá Hình 6. Mật độ cá thể trung bình tại hai trạm thu mẫu 3.3. Mức độ đa dạng loài Sông Tiền có mức độ đa dạng loài cá Shannon – Weiner (H’), cụ thể sông Tiền nhiều cao hơn ở sông Hậu thông qua chỉ số đo loài và nhiều cá thể hơn sông Hậu (Bảng 1). Bảng 1. Sự khác nhau về số cá thể, số loài và chỉ số đa đạng (H’) giữa hai trạm thu mẫu Sông Tiền Sông Hậu Số cá thể 54.313 10.345 Số loài 118 73 Chỉ số đa dạng (H') 1,98 1,90 Mức độ đa dạng Tương đối tốt Tương đối tốt 3.4. Biến động thành phần loài sự biến động này không có khác biệt lớn, không 3.4.1. Biến động thành phần loài theo có sự gia tăng hay giảm một cách đột ngột về tháng và ngày thành phần loài giữa các tháng. Thành phần loài Kết quả nghiên cứu cho thấy, số lượng loài cá đạt đỉnh điểm vào tháng 9 với 55 loài ở sông cá tăng qua các tháng quan trắc, biến động từ 47 Hậu và 85 loài ở sông Tiền (Hình 7a). Khi so – 94 loài ở cả hai sông Tiền và sông Hậu, số loài sánh thành phần loài cá bột và cá con tại hai vị ở sông Tiền nhiều hơn ở sông Hậu. Tuy nhiên, trí thu mẫu qua các ngày trong các tháng, nhận 76 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
  7. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II thấy được thành phần loài biến động theo quy Cá bột và cá con từ các dòng chính trôi dạt đến, luật giống nhau: thành phần loài có xu hướng rất phù hợp cho việc sinh trưởng và phát triển tăng từ đầu mùa lũ (tháng 6) và đạt đỉnh điểm của chúng. Điều này chứng minh rằng mùa lũ là đến cuối mùa lũ (tháng 9) vì lúc này nước lũ đỗ thời gian thuận lợi cho mùa sinh sản của nhiều về làm ngập các vùng ruộng trũng, bãi cỏ ven loài cá ở ĐBSCL (Hình 7b). sông,.. tạo thành những vùng ngập rất rộng lớn. Hình 7. Biến động thành phần loài theo các tháng (a) và theo các ngày (b) tại hai trạm thu mẫu 3.4.2. Biến động thành phần loài theo có vảy. Một số loài có sự khác biệt rõ về tần suất ngày – đêm xuất hiện giữa ngày và đêm. Những loài cá xuất Theo mô hình ngày – đêm, có sự khác biệt hiện chủ yếu vào ban ngày gồm: cá Cơm sông về thành phần loài trong mẫu thu ban ngày (102 (Corica laciniata), cá Thiểu nam (Paralaubuca loài) và ban đêm (107 loài) ở hai trạm thu mẫu riveroi),… và ban đêm gồm: cá Sát sọc (Pangasius (Hình 8), các loài xuất hiện ban đêm chủ yếu là macronema), cá Hú (Pangasius conchophilus), cá các loài cá không vảy và ban ngày là các loài cá Chạch lấu (Mastacembelus favus), … Hình 8. Biến động thành phần loài theo mô hình ngày – đêm tại hai trạm thu mẫu. 3.5. Biến động mật độ cá bột và cá con (đầu mùa lũ), đạt đỉnh điểm vào thàng 8 (giữa 3.5.1. Biến động mật độ cá bột và cá con mùa lũ) và giảm vào tháng 9 (cuối mùa lũ), biến theo tháng và theo ngày động mật độ cá thể trung bình từ 12 cá thể/1.000 Tương ứng với sự phong phú về thành phần m3 nước – 27 cá thể/1.000 m3 nước vào đầu và loài là mật độ cá thể cá cũng tăng từ tháng 6 giữa mùa lũ và giảm còn 4 cá thể/1.000 m3 nước TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 77
  8. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II vào cuối mùa lũ (Hình 9a). Khi so sánh mật độ 3.5.2 .Biến động mật độ cá bột và cá con cá bột và cá con theo các ngày trong tháng, thời theo ngày – đêm gian đầu mùa lũ mật độ luôn cao và giảm dần Tương ứng như mô hình ngày – đêm về vào cuối mùa lũ. Mật độ tại sông Tiền vào đầu thành phần loài, có sự khác biệt về mật độ cá mùa lũ (mật độ trung bình cao nhất gần 600 cá thể trung bình trong mẫu thu ban ngày (16 cá thể/1.000 m3 nước) cao hơn tại sông Hậu (44 cá thể/1.000 m3 nước) thấp hơn so với ban đêm (19 thể/1.000 m3 nước) (Hình 9b). cá thể/1.000 m3 nước) ở hai trạm thu mẫu trên Hình 9. Biến động mật độ cá thể theo các tháng (a) và theo ngày các ngày (b) tại hai trạm thu mẫu. sông Tiền và sông Hậu (Hình 10). Điều này cho đã cho thấy chiều dài biến động trong khoảng thấy mật độ cá thể không có sự khác biệt nhiều 34 – 37 mm. Tùy thuộc từng loài và từng thời giữa ngày và đêm. điểm sinh sản khác nhau của mỗi loài cá nên 3.6. Biến động về chiều dài cá bột và cá kích thước của mỗi loài sẽ khác nhau. Biến con qua các tháng động chiều dài của một số loài cá di cư phổ biến Kết quả quan trắc chiều dài cá bột và cá con được thể hiện trong Hình 11. Hình 10. Biến động mật độ cá thể theo mô hình ngày – đêm tại hai trạm thu mẫu. 78 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
  9. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 11. Biến động chiều dài của một số loài cá phổ biến tại hai trạm thu mẫu. 3.7. Mối liên hệ giữa thành phần loài cá giảm thì số loài giảm. Như vậy, giữa thành và mật độ cá thể với mức nước phần loài cá và mức nước có mối tương quan 3.7.1. Mối liên hệ giữa thành phần loài cá khá chặt chẽ với nhau với phương trình tương và mức nước quan có giá trị R2 lần lượt ở sông Hậu và sông Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, khi mức Tiền là y = 3,509x + 2,3006 (R2 = 0,6132) và y nước tăng lên thì số loài tăng và khi mức nước = 5,163x + 7,7947 (R2 = 0,5809) (Hình 12). Hình 12. Mối liên hệ giữa thành phần loài và mức nước tại hai trạm thu mẫu. 3.7.2. Mối liên hệ giữa mật độ cá thể với di cư theo dòng nước đến các kênh và các thủy mức nước vực khác. Điều này chứng tỏ rằng, mức nước Tại hai trạm quan trắc cho thấy, khi mức và mật độ cá thể có mối tương quan không chặt nước tăng và tăng cao nhất vào tháng 9 (vào chẽ với nhau, với phương trình tương quan có cuối mùa lũ) thì mật độ cá thể ít nhất do chúng giá trị R2 lần lượt ở sông Hậu và sông Tiền là TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 79
  10. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 13. Mối liên hệ giữa mật độ và mức nước tại hai trạm thu mẫu y = -2,1631x + 20,716 (R2 = 0,0018) và y = Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu trước -20,865x + 64,676 (R2 = 0,0799) (Hình 13). đây của Nguyễn Thanh Tùng (2004). IV. THẢO LUẬN. Nhìn chung tại hai trạm quan trắc trên sông Tiền và sông Hậu, sự biến động về mật độ cá bột Qua kết quả quan trắc, nhận thấy rằng thành và cá con có điểm tương đồng với nhau. Sự biến phần loài cá bột và cá con ở sông Tiền đa dạng và động về mật độ cá bột và cá con có xu hướng giảm phong phú hơn sông Hậu, tập trung chủ yếu vào dần vào thời điểm kết thúc thời gian quan trắc ở cả bộ Cá chép và bộ Cá nheo. So với các nghiên cứu hai sông vào tháng 9 (cuối mùa lũ). Điều này có trước đây thì kết quả trong nghiên cứu này có số nghĩa rằng hầu hết các loài cá sinh sản chủ yếu vào loài thấp hơn, cụ thể có 127 loài, bao gồm 123 loài đầu và giữa mùa lũ bởi vì đó cũng vào thời điểm ở sông Tiền và 84 loài ở sông Hậu thuộc 29 họ đầu mùa mưa nên thuận lợi cho nhiều loài cá ở và 10 bộ (Nguyễn Thanh Tùng, 2004); 141 loài ở sông Mê Công sinh sản và di cư sinh sản (Nguyễn sông Hậu và 148 loài ở sông Tiền, thuộc 48 họ và Thanh Tùng, 2004). 13 bộ (Nguyễn Nguyễn Du, 2017). Kết quả đo đạc của Đài khí tượng thủy văn Nam Bộ cho thấy mực V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT nước lũ năm 2019 về trễ hơn mọi năm bắt đầu từ 5.1. Kết luận tháng 7 và kết thúc sớm hơn mọi năm vào tháng 9 là một trong những nguyên nhân tác động đến sự Tổng cộng 928 mẫu được thu, xác định được đa dạng thành phần loài, và phong phú về mật độ 128 loài cá bột và cá con thuộc 11 bộ và 32 họ, cá bột và cá con. trong đó 73 loài ở sông Hậu và 118 loài ở sông Tiền. Theo số liệu quan trắc cá bột và cá con của Nguyễn Nguyễn Du và ctv., (2017; 2018), cho thấy Sự biến động về thành phần loài, mật độ cá năm 2017 có số lượng loài nhiều nhất là 194 loài, bột và cá con theo mùa, theo ngày – đêm thể hiện năm 2018 giảm còn 146 loài và kết quả năm 2019 sự khác biệt rõ rệt. Phân tích cho thấy xu hướng là 128 loài. So với công bố trước đây của Trần này có mối quan hệ chặt chẽ và bị chi phối bởi chế Đắc Định và ctv., (2013) đã mô tả được 322 loài độ lũ hằng năm của lưu vực sông Mê Công. Biến cá, trong đó có 186 loài cá nước ngọt. Thành phần động thành phần loài cá bột, cá con có xu hướng loài cá bột và cá con có xu hướng giảm qua các tăng nhưng ngược lại, biến động mật độ cá thể có năm, mực nước lũ hàng năm có thể ảnh hưởng rất xu hướng giảm từ đầu mùa lũ đến cuối mùa lũ. lớn đến sự biến động thành phần loài của chúng. Biến động mực nước có mối tương quan khá Thành phần loài và mật độ cá thể cũng biến động chặt chẽ với biến động thành phần loài và tương theo ngày đêm, ban đêm thì cá phong phú và đa quan không chặc chẽ với biến động mật độ trong dạng hơn ban ngày ở cả sông Tiền và sông Hậu. mùa lũ năm 2019. 80 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
  11. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 5.2. Đề xuất Nguyễn Nguyễn Du, 2017. Quan trắc sự trôi dạt nguồn Bảo vệ vùng bãi đẻ của cá, tăng cường công lợi cá bột và cá con ở Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo Khoa học. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng tác tuyên truyền bảo vệ đàn cá bố mẹ. Thủy Sản II. Tp. Hồ Chí Minh. Cần có sự hỗ trợ thêm về sinh sản nhân tạo Nguyễn Thanh Tùng, 2004. Biến động thành phần loài để giảm bớt áp lực khai thác thủy sản tự nhiên của và mật độ cá bột, cá con ở Vĩnh Xương và Quốc một số đối tượng thủy sản, đặc biệt là những đối Thái, An Giang. Luận án Tiến sĩ. Viện Hải Dương tượng phục vụ cho nuôi thương phẩm. Học. Nha Trang, Khánh Hòa. Trong nghiên cứu biến động nguồn lợi cá bột Nguyễn Văn Trọng, 1987. Trứng và cá bột ở các thuỷ và cá con cần được cập nhật thường xuyên tài liệu vực tỉnh Tiền Giang. Báo cáo khoa học, Viện mới phân loại đến mức loài. NCNTTS 2, Tp. Hồ Chí Minh. Cần sử dụng nghiên cứu thêm hướng di truyền Phạm Thược, 2007. Cơ sở khoa học của việc bảo tồn phân tử để hổ trợ nghiên cứu về hình thái. đa dạng sinh học vùng biển Tây Nam Bộ. Nhà xuất Lời cảm ơn bản Nông nghiệp. Hà Nội. 175 trang. Trần Đắc Định, Shibukawa Koichi, Nguyễn Thanh Nhóm nghiên cứu chân thành cám ơn Ủy Ban Phương, Hà Phước Hùng, Trần Xuân Lợi, Mai Văn Sông Mê Công Việt Nam đã hỗ trợ kinh phí thực Hiếu và Utsugi Kenzo, 2013. Mô tả định loại cá hiện nhiệm vụ này và Chi cục Thủy sản tỉnh An Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. NXB Đại Giang đã phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện học Cần Thơ. 174 trang. trong suốt quá trình thực hiện. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định Lời cảm ơn cũng xin được gửi đến tất cả hộ loại cá nước ngọt vùng Đồng bằng sông Cửu Long. ngư dân ở hai trạm nghiên cứu thuộc xã Vĩnh Khoa Thủy Sản. Đại Học Cần Thơ. 361 trang. Xương và Quốc Thái đã nhiệt tình tham gia. Tài liệu tiếng Anh TÀI LIỆU THAM KHẢO General Oceanic Inc, 1996. General Oceanic’s Digital Flow meter Mechanical and Electronic Operators Tài liệu tiếng Việt Manual. Floria 33169 – 5887. Cục Thống Kê An Giang, 2018. Niên Giám Thống Kê tỉnh An Giang năm 2018. Cục Thống Kê An Giang, Nguyen Thanh Tung, Truong Thanh Tuan & Tran thành phố Long Xuyên. Quoc Bao 1999.Composition and movement of Fish Larvae in the Bassac River, Vietnam, During June- Cục Thống Kê Đồng Tháp, 2018. Niên Giám Thống Kê tỉnh Đồng Tháp năm 2018. Cục Thống Kê July 1999. Paper presented at the 2. MRC Technical Đồng Tháp, thành phố Cao Lãnh. Symposium, Phnom Penh, December 13-14 1999. Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Termvidchakorn Apichart, 2003. Freshwater Fish Lê Hoàng Yến và Hứa Bạch Loan, 1992. Định loại Larvae. Inland Fisheries Resources Research and các loài cá nước ngọt Nam Bộ. NXB Khoa học và Development Institute, Inland Fisheries Research Kỹ thuật. 374 trang. and Development Bureau Department of Fisheries. Mai Đình Yên, Vũ Trung Tạng, Bùi Lai và Trần Mai Thailand, 135 pages. Thiên, 1979. Ngư loại học. NXB Đại Học và Trung Termvidchakorn, A. and K.G. Hortle, 2013. A guide to Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội. 390 trang. larvae and juveniles of some common fish species Nguyễn Hữu Phụng, 1991. Trứng cá và cá bột vùng from the Mekong River Basin. MRC Technical biển Việt Nam. Tuyển tập Nghiên cứu Biển. NXB Paper No. 38. Mekong River Commission, Phnom Khoa học và Kỹ thuật, III: 5 – 20. Penh. 234pp. ISSN: 1683-1489 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 81
  12. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II EVALUATE VARIATION ON COMPOSITION, DENSITY OF FISH LARVAE AND FINGERLING IN THE MEKONG RIVER DELTA IN 2019 Tran Thuy Vy 1*, Nguyen Nguyen Du1, Huynh Hoang Huy1 and Dinh Trang Diem1 ABSTRACT Freshwater fish resources in the Mekong River Delta is closely related to the fish resources of the Mekong River Basin. Many migration fish species of the Mekong River Basin concentrate on spawning at the beginning of the flood season, eggs or larvae drifted from upstream or spawning grounds to channels, flooded rice-fields and flooded areas for shelter, growth and development. Study on monitoring fish larvae resources is to assess fisheries resources and forecast the variation of fisheries resources in the Mekong River Basin. Fish larvae and fingerling were sampled from 1st June to 30th September 2019 at the low tide by Bongo nets and Bag nets in Mekong and Bassac rivers where nearby Cambodia border. Fish samples were stored in plastic jars containing 70% ethanol for identification and analysis at Research Institute for Aquaculture No. 2. Total of 928 samples was analysis, and the results showed that 128 species belonging to 11 orders and 32 families, in which 73 species in Bassac river and 118 species in Mekong river were identified. The highest species composition occurred in September with 94 species, and Cyprinidae family is the most abundant with 38% of total fish species. The highest fish larvae density was in July and in August, with 22 inds/1.000m3 water and 27 inds/1.000m3 water, respectively. The trend of species composition abundance has increased over the flood season; while fish density has been decreased in the opposite trend. Keywords: density, fish larvae and fingerling, species composition, variation, Mekong and Bassac rivers Người phản biện: TS. Nguyễn Thanh Tùng Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước Ngày nhận bài: 28/10/2019 Ngày nhận bài: 28/10/2019 Ngày thông qua phản biện: 12/11/2019 Ngày thông qua phản biện: 15/11/2019 Ngày duyệt đăng: 25/12/2019 Ngày duyệt đăng: 25/12/2019 1 Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: tthuyvy670@gmail.com 82 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
nguon tai.lieu . vn