Xem mẫu

  1. DÂN TỘC M'NÔNG Nhóm địa phương: Dân tộc M'nông thuộc chủng Indonesian. Có tầm vóc thấp, n ước da ngăm đen, môi hơi dày, râu thưa, mắt nâu đen, tóc đen, th ẳn g nhiều người có tóc quăn. Gồm các nhóm địa phương: M'nông Gar, M'nông Chil, M'nông Kuênh, M'nông Râm, M'nông Preh, M'nông Râng, M'nông Bhiêt, M'nông Rlâm.... Dân số: Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người M’nông ở Việt Nam có dân số 102.741 người Ngôn ngữ: tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) Hoạt động sản xuất: người M'nông trồng lúa nương trên rẫy chủ yếu bằng phương pháp “đao canh hỏa chủng”: phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt, thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bàng phương pháp “đao canh thủy nậu” trên nhũng vùng đầm lầy, dùng trâu quần ruộng cho nhảo đất rồi gieo hạt, không cấy m ạ. Đi đôi v ới v ới n ền s ản xu ất nông phẩm, việc săn bắn hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cu ộc s ống hàng ngày. Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng b ằng nguyên li ệu mây, tre, lá; kế đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong m ỗi làng còn có m ột s ố người biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nun lộ thiên. S ản ph ẩm là n ồi đ ất các lo ại, bát ăn cơm và vò, hũ. Nghề làm nông cụ không phổ biến lắm trong các vùng M'nông. Đặc biệt ở vùng Buôn Đôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi r ừng rất n ổi ti ếng. cho đ ến nai nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn được hàng năm đả giảm đi đáng kể Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nun, xa xưa thì ph ổ bi ến là c ơm lam (gạo nếp nấu trong ống tre, nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim thú và cá su ối bắt được. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần. Mặc: về mùa đông, đàn ông xưa kia thường đóng khố, ở trần, còn phụ n ữ thì qu ấn váy và cũng ở trần. Còn về mùa lạnh họ khoác trên mình tấm m ền. Khố, váy, áo của người M'nông có màu chàm thẫm được trang trí bằng các hoa văn truyền thống, màu đỏ rất đẹp mắt. Người M'nông thích mang nhiều đồ trang sức như: vòng cổ, vòng tay, vòng chân, hoa tai, nhẫn bằng đồng hay bằng bạc... Riêng nữ giới còn thích quàng lên cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc Những chiếc vòng đồng là cái mà hầu như người M'nông nào cũng có. Đó là k ỷ v ật c ủa các lễ hiến sinh, hay lễ kết nghĩa anh em, bạn bè. Nó còn tượng trưng cho sự giao ước v ới thần linh thay lời hứa hôn của đôi trai gái theo tập quán cổ truyền của dân t ộc . Hiện nay trong trang phục M'nông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán “cà răng căn tai” phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nai vẩn còn dấu ấn ở những người cao niên. Ở: Hiện nai người M'nông cư trú chủ yếu theo nhóm địa ph ương, chủ y ếu ở các huyện Lăk, MĐrắc, Đắc Nông, Đắc Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Đôn... thu ộc t ỉnh Đ ắc Lắc, một bộ phận cư trú phía bắc tỉnh Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Đồng , địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Campuchia, giáp ranh v ới bi ên giới nước ta. Tùy theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt ho ặc nhà sàn. Nhà tr ệt có mái tranh g ần sát đ ất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm M'nông Gar, M'nông Preh, M'nông Râng... còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách m ặt đất kho ảng 0,70m đ ến 1m và ph ổ bi ến ở nhóm M'nông Kuênh, M'nông Chil, M'nông Bhiêt... Riêng nhóm M'nông Rlâm ở vùng hồ Lăk xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc người Ê Đê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẩn lợp bằng cỏ tranh: khung và sường nhà được kết hợp hai loai nguy ên liệu là tre, nứa và gỗ cây, các bộ phận được liên kết bằng chạt, ngoàm, dây mây và dây rừng.
  2. Phương tiện di chuyển chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có hai quai. Việc vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người M'nông. Việc đi lại, vận chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc. Quan hệ xã hội: Đơn vị cư trú cơ bản là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyế t thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan h ệ huyết th ống ở đây tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm trong mọi quan hệ xã hội hiện nai. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tang rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo t ừng nhóm địa phương. Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu m ỗi làng gọi là Rnút hay kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân sự. Xã hội M'nông vận hành theo tập quán pháp và tập quán pháp được truyền khẩu qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho m ọi ứng xử trong đ ời sống. Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong việc hôn nhân. Lễ cưới do hai bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú bên nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song phương. Con sinh ra điều mang họ mẹ. Trong t ập quán c ưới xin có ba nghi lể là Sa ur, Tâm ốp và Tâm nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lể ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế dộ một vợ một chồng là quy tắc ch ặc chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục M'nông phạt vạ rất nghiêm khắc, với tội loạn luân và ngoại tình. Ma chay: khi có người chết, cả làng nghĩ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được hoàn trong nhà khoảng hai ngày đối với người ch ết già, ch ết vì b ệnh t ật. H ọ r ất kinh sợ và chối bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tay n ạn gây nên (ch ết đu ối , ngã cây, rắn cắn, hổ vồ và chết do chiến tranh, đâm chém...). những cái chết “bất đắc kì tử” như vừa nêu trên thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai tán tức khắc m ột cách th ầm l ặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, trong tang lễ, người M'nông có tập quán ca hát, gõ chiêng trống bên áo quan suốt ngày đêm. Sau khi hạ huyệt, h ọ dùng cây, que và lá cây trải kín miệng hố rồi mới lấp đất lên trên. Qua bảy ngày hoặc một tháng, gia chủ làm lễ đoạn tang. Mọi người chết đều được chia tài sảnđể mang về “lập nghiệp” ở thế giới của ông bà gọi là phan. Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức Tết mừng c ơm m ới, tạ ơn tr ời đất và th ần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một v ụ mùa m ới tràn đ ầy hy vọng Lịch: Nông lịch cổ truyền dân tộc M'nông tính theo lịch âm. Mỗi năm cũng có 12 tháng mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày. Học: Trong xã hội cổ truyền M'nông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện theo phương pháp chỉ dẫn trực ti ếp, làm m ẫu noi theo, bắt chước. Thập kỉ gần đây mới xuất hiện chữ vi ết nhưng sự ph ổ bi ến r ộng rãi đang vấp phải không ít khó khăn Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ti ềm ẩn nhi ều giá tr ị, đã và đang được khai thác, giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc c ụ có c ồng chiêng, đàn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo d ọc. Đ ặc bi ệt là v ỏ trái bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khu ếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ bằng tre nứa. Người ta đả tìm thấy ở vùng c ư trú c ủa người M'nông bộ đàn đá nguyên thủy nổi tiêng từ thế kỉ XX
nguon tai.lieu . vn