Xem mẫu
- ÀN DỰNG VÀ TRÌNH DIỄN
Dàn Dựng Phim ảnh
Những phim hoành tráng thường
được cấu tạo bằng những khóa
xúc cảm (Clous Sensationnels)
và những thảm cảnh ít nhiều
mang tính lịch sử như: hỏa hoạn,
động đất, bão lụt ... hoặc hơn nữa
như tái tạo một trận không chiến,
thủy chiến hay đánh nhau trên bộ
MARIA JOSÉ RIBET - Dự án khí thường kèm theo những tiếng nổ
tượng-Dàn dựng kinh hoàng. Những phim như thế
có thể gồm những đoạn mượn từ
tư liệu có thật, nhưng phần lớn các giai đoạn được thực hiện tại phim
trường. Mỗi phần như thế được nghiên cứu qua một loạt mô hình
(Maquette) để có hiệu năng đặc biệt. Những mô hình có kích thước thật
phù hợp với cách nhìn cận cảnh phù hợp với những trang trí thật sự và
nghiên cứu tỷ mỉ về luật phối cảnh.
Để tạo những đám cháy người ta dùng gỗ thông tẩm dung dịch Acide
Borique, Sulfate đồng hoặc Nitrate Strontium tùy theo cách chọn màu
cho ngọn lửa. Những vụ nổ hỏa lôi, thực chất là vụ nổ của những bình
- khí nén được tác động bằng một lượng nhỏ thuốc súng, những mảnh
bìa cứng dán giấy trang kim - loại rất giống những tia lóe sáng. Trong
phim Đánh Đường Sắt (Bataille Du Rail) đạo diễn René Clément đã tái
tạo đoàn tàu quân dụng Đức bị quân kháng chiến tấn công.
Lĩnh vực điện ảnh có những chuyên gia biết cách tổng hợp hành động
thực sự với những pha xảo thuật làm cho người xem không biết đâu mà
lần. Những trận mưa trong phim thường phát xuất từ một cỗ máy và
hiệu quả nâng cao nhờ pha sữa vào nước. Trong phim Cuốn Theo
Chiều Gió (Autant En Emporte Le Vent) Victor Fleming đã quay tại
phim trường cảnh giông bão ập xuống ngọn đồi bằng những quạt gió
cực mạnh và những hệ thống ống có vòi phun, tạo ấn tượng cực kỳ hiện
thực.
Trận chiến cuối cùng cũng có tên Berlin Thất Thủ năm 1949 Mikhail
Tchiaourelli đã dàn cảnh chiến thắng của Hồng Quân Xô Viết tưng
bừng náo nhiệt bên cạnh những thi thể quân Phát Xít Đức nằm sõng
sượt như thể trận chiến vừa xảy ra.
Còn biết bao nhiêu cảnh hùng tráng hoặc nên thơ do các chuyên gia kỹ
thuật, những nhà đạo diễn tài ba dàn dựng, nhất là khi được sự hỗ trợ
đắc lực của vi tính, thiết tưởng không có ý đồ nào là “không thể”.
Dàn dựng tái tạo hiện tượng thiên nhiên, Địa Hình.
Otafur Eliasson sinh ở Đan Mạnh năm 1967 từng hoàn thành những sắp
đặt có dáng dấp hiện tượng khoa học. Dùng tia sáng chiếu xuyên qua
- vòi phun nước để tạo nét đẹp (Beauty-l993) của cầu vồng. Trình diễn
Dự án Dòng Sông Xanh (Green River Project-1998-1999) ở
Stockholm, Tokyo và Johannesburg bằng những vòi nước phun pha
thuốc nhuộm. Tại Pittsburgh năm 1999, trong Mặt Trái Sự Trần Truồng
(Your Natural Denudation Inverted) ông đã dựng một cái ao nhân tạo
tại sân bảo tàng. Năm 2003 Eliasson sắp đặt trong một trại những dụng
cụ quang học tự chế. Khách tham quan bước vào căn phòng đa giác này
sẽ thấy hình bóng của mình phản chiếu vỡ vụn thành muôn mảnh.
Trong một phòng khác, một ánh đèn đặc biệt có ánh sáng màu vàng.
Cạnh không gian này là một hộp tối có thể phản chiếu cây cỏ bên ngoài
xuyên qua một cái lỗ được cắt trên nóc.
Eliasson đã cho rằng chức năng nghệ sĩ của mình là để tạo ra những
phương cách sản sinh hiện tượng tự nhiên.
Quan điểm này thể hiện trong Dự án Khí Tượng (Weather Project)
được trưng bày ở Tate Modern. Quang cảnh mặt trời mọc được tạo từ
hàng trăm bóng điện có ánh sáng vàng. Sự mô phỏng tự nhiên được
kèm theo vô số kính phản chiếu từ trần nhà. Căn phòng được thổi bằng
hơi nước nhân tạo làm cho ánh sáng có vẻ mờ ảo. Trần nhà kính làm
tăng gấp bội thể tích và đảo ngược hình dạng thực. Những bóng đèn
đặc biệt lại lọc vài phần của ánh sáng tạo màu sắc giống như tranh vẽ.
Kết quả là càng cố nhìn lại càng khó thấy. Người xem có ấn tượng hư
hư, thực thực. Eliasson cung cấp cho mọi người công cụ và vị thế để
quan sát không gian quanh mình, sau đó là bảo tàng và đặc biệt là ở
trạng thái tháo rời. Có thể là một ý tưởng quan sát “cái không quan sát
- được” trong giấc mơ.
Trong khi Eliasson dùng những phương tiện khoa học để tạo những
cảnh trí mang tính khí tượng thì Smithson lại dùng 6.650 tấn than đá
trộn đất để xây dựng một Con Đập Hình Trộn ốc ở hồ lớn nước mặn
(Great Salt Lake). Nước thủy triều dâng ngập rồi rút đi, ánh nắng tạo sự
bốc hơi, con đập được phủ bằng những tinh thể trắng muốt. Thời gian
càng làm cho lớp áo của đập mỗi ngày một dầy thêm và nhờ đó cũng
trở nên hư ảo.
Năm 1977. De Mria hoàn thành tác phẩm Vùng ánh Sáng (The
Lighting Field) ở Mêxicô. Đây là một sắp đặt gồm 400 trụ thép không
rỉ có đường kính 2 inches (khoảng hơn 6 cm) cao từ 15 đến 27 bộ (đơn
vị đo lường Anh) có đầu nhọn dàn thành một mạng lưới dài trên 1 km.
Lúc nắng gay gắt, khi hoàng hôn buông xuống hoặc lúc mờ sương, ánh
sáng phản chiếu tạo nên những sóng màu sắc lung linh huyền ảo.
Một tác phẩm có tên Núi Lửa của Turreli phải dùng 25 năm để hoàn
thành. Sáng tạo này ở Navajo có đường hầm dài 854 bộ. Số đất đá phải
di dời là 1,2 triệu khối Anh.
Những dàn dựng phim ảnh đã tạo những ấn tượng anh hùng kỳ vĩ mà
cũng rất nên thơ. Những tái tạo hiện tượng thiên nhiên bằng những
phương tiện khoa học chừng nào cũng đã thuyết phục được người xem,
nhưng những tác phẩm địa hình không phải lúc nào cũng được tán
thưởng.
- Trình Diễn Vũ Nhạc: Diaghilev
Vào khoảng đầu thế kỷ XX. Michel Fokine ( 1880-1942) vừa là một vũ
công xuất sắc cũng là một giáo viên có tài chống lại sự ngột ngạt của
hý trường Hoàng Gia và những sản phẩm phi lý của nó. “ Tại sao
phong cách của một vũ điệu lại không hòa hợp với nội dung, y trang và
thời đại của nó? Câu trả lời đúng đắn có lẽ “Vì nó là thói quen mang
tính truyền thống”. Fokine cùng các học trò của mình đã cải tổ lại, trình
diễn những vở ca kịch ngắn, trong đó âm nhạc, động tác và y trang
được phối hợp chặt chẽ với nhau.
Năm 1909 ông dàn dựng một vũ đoàn Ba lê Liên Xô trình diễn tại
Paris. Với ông việc tuyển chọn các thành viên của đoàn là rất quan
trọng. Từng bước đi, dáng dấp, nét mặt phải được lột tả nội dung đủ
sức thuyết phục khán giả .
Người bảo hộ cho hoạt động mới mẻ này chính là Serge Diaghilev
(1872- 1929). Ông đã điều hành ảnh hưởng vũ đoàn trong suốt 20 năm,
tạo nó thành nơi hò hẹn của những nghệ sĩ xuất sắc đương thời. ảnh
hưởng của ông không chỉ trong phạm vi vũ điệu mà còn lan tỏa đến
mọi hình thức nghệ thuật khác.
Diaghilev bỏ dở việc học luật để chú tâm vào tình yêu âm nhạc và sân
khấu. Tham vọng của ông không phải để phát triển tinh thần sáng tạo
của riêng mình mà là dồn tâm sức để phát hiện và nuôi dưỡng tài năng
của người khác. Ông gặt hái những thành công ban đầu trong các triển
lãm nghệ thuật bằng cách cộng tác với một tạp chí mỹ thuật và một số
- họa sĩ thân thiết. Sau đó ông làm việc hai năm cho nhà hát Hoàng Gia,
nhưng do cá tính khác thường, cũng như lời lẽ vụng về, ông không
được trọng dụng. Một người bạn là họa sỹ Alexandre Benois (1870-
1960) đã làm cho ông thấy rõ có thể áp dụng khả năng của vũ Ba lê
thành một hình thức nghệ thuật riêng biệt. Cũng từ đó ông nhận thức
các quy ước chính thống không thể đứng vững và phải có cách làm
mới.
Ban đầu ông tổ chức triển lãm mỹ thuật Nga chung với hòa nhạc tại
Paris. Sau đó ông cho trình diễn vũ nhạc Nga theo sự điều khiển mới
mẻ của mình. Ông gặt hái được nhiều kết quả. Ông chú trọng dành từng
phong cách thích đáng cho từng vở diễn.
Trong những họa sỹ ngoại hạng đã giúp cho vũ đoàn Ba lê Diaghilev
gồm có Alexandre Benois, Léon Bakst Alexandre Golovine, Nicholas
Roerich. Về phần các vũ công của ông đã chọn dược những tài danh
như Tamara, Karsavina, Vaslav Nijinsky, Adolph Bolm, và Ama
Palova. Diaghilev chết năm l929 trong niềm tin rằng ba loại hình nghệ
thuật là khiêu vũ, âm nhạc cùng hội họa có thể tổng hợp trong một
dạng nghệ thuật thống nhất. Minh họa trích dẫn là thiết kế của Léon
Baskt Diaghilev dùng trong vở nhạc kịch Xế bóng Của Một Dã Thú
(L’après-midi d’un Faune) với phần âm nhạc do France’ s Debussy và
vũ công chính là Vaslav Nijinsky.
Nijinsky sinh năm 1889 ở Kiev, cha mẹ là vũ công trong một vũ đoàn ở
Varsovie. Năm 7 tuổi đã được tuyển vào trường vũ Ba lê Saint-
- Petersburg. Tốt nghiệp năm 1907, ông gia nhập vũ đoàn Ba lê Hoàng
gia. Diaghilev phát hiện tài năng, vóc dáng cũng như tâm hồn phù hợp
cho phong cách mới mẻ. Năm 1909 Nijinsky tham gia vũ đoàn Ba lê
Nga tại nhà hát Châtelet thuộc Paris. Trong trang phục rực rỡ dát vàng,
bạc và nạm ngọc do họa sỹ Alexandre Benois thiết kế. Người vũ công
trẻ tuổi có vẻ mơ màng nhưng hấp dẫn, thân thể mạnh mẽ, nét mặt dịu
dàng, điệu múa bay bổng vút cao. Chỉ buổi biểu diễn đầu tiên người
người thanh niên 19 tuổi này đã nổi tiếng như cồn. Jean Cocteau một
thiên tài của nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật đã thốt lên “mọi người
chỉ thấy có anh ta mà thôi”. Sự tập dượt cũng rất kỳ công. Riêng vở Xế
bóng của một dã thú chỉ trình diễn trong 12 phút nhưng diễn tập mất
đến hàng trăm tiếng đồng hồ.
Thời kỳ hoàng kim của Nijinsky kéo dài được mười năm. Từ 1909 đến
1919 là năm ông trình diễn màn độc vũ cuối cùng. Vaslav Nijinsky mất
năm 1950 ở Luân Đôn hưởng thọ 61 tuổi. Ông từng tuyên bố “tôi là
con người kỳ quặc, tôi thích vẽ thích soạn nhạc, thích chơi dương cầm,
thích làm thơ, thích yêu, tôi là một con người, tôi là Nijinsky, tôi sẽ
chết nếu không được yêu”. Ông ta là vũ công, một biên đạo múa kỳ tài,
một trong những người là cha đẻ của khiêu vũ tân kỳ.
Từ Tranh Sống Đến Trình Diễn Và Vidéo.
Maria Jose Ribot là người gốc Tây Ban Nha, có cha là nhà sưu tập
tranh, sau đó lại lấy chồng họa sỹ. Là một người đã biến đời mình
thành một loại hình nghệ thuật. Ban đầu Maria muốn biến đổi dưới mọi
- hình thức từ vũ cổ điển cho đến hiện đại. Đầu tiên là biên đạo múa vũ
điệu Carita De Angel năm 1985. Không lâu một hình thức trình diễn
mới là sự tổng hòa giữa nghệ thuật thị giác và âm nhạc xuất hiện trong
Piezas Distinguidas (những diễn khúc độc đáo).
Tiến xa hơn của sự đơn giản là những “bức tranh sống” có thời gian tùy
thích. Theo cách này thì các nhà sưu tập là những người thân thích bạn
bè. Riêng năm 1994 đã trình 13 “diễn khúc”. ở Tây Ban Nha người ta
gọi Ribot là bà hoàng của chủ nghĩa Dada. Thân thể chính là mẫu hình
được khai thác. Dù sao công chúng cũng lấy làm kinh dị khi người đàn
bà đem phô bày “của quý” để làm nghệ thuật. Ribot lập luận “tôi xem
thân thể tôi như một đối tượng có thể điều khiển được” “tôi có thể cho
vở diễn kéo dài trong vài giây hay vài phút. Điều tôi đề nghị ở đây là
một môi trường, một thời gian với người thưởng lãm là nhận thức rằng
đây chỉ là một sự trình diễn và chỉ là một cuộc trình diễn đơn thuần “.
Và những cuộc trình diễn như thế thường được phô bày hình dáng khỏa
thân, có thể là khôi hài hoặc khêu gợi của một người đàn bà thật sự.
Tania Bruguera một người Mỹ gốc Cuba đã dùng tám máy vidéo với
màn trình diễn những hành động quái dị như kéo môi, móc họng, thè
lưỡi, trợn mắt, bứt tóc kèm theo tiếng kêu be bé của những con cừu.
Những trình diễn của Bruguera thường kích động bạo lực, chống chế
độ và sự tế nhị của con người. Trong một vài diễn xuất Bruguera xuất
hiện trần truồng, mình che bằng một xác cừu cụt đầu bị mổ bê bết máu,
mồm nhai đồ bẩn và giấy lộn... “nghệ thuật là phù du”.
- Còn nữa một người Cuba lưu vong sang Mỹ khác là Ana Mendieta đã
trình diễn với thân thể trần truồng bê bết bùn đất và máu me (Earth
Body Wooks). Trong khoảng thời gian từ 1972 đến 1985 (năm mà
Mendieta đã nhảy cửa sổ lầu tầng 34 để tự sát), Mendieta đã để lại rất
nhiều tư liệu, ảnh chụp hình chiếu về phong cách trình diễn của “điêu
khắc thân thể trát bùn” (Earth Body Sculpture). George và Gilbert trình
bày tượng sống (Sculptures Vivantes). Họ tự đặt mình trong tư thế bất
động từ 90 phút đến 5 tiếng đồng hồ. Cứ như thế họ trình diễn ở
Amsterdam, Luân Đôn, Berlin và New South Wales.
Suy Cho Cùng
Trong nghệ thuật hiện đại từ “lnstallation” lâu nay giới mỹ thuật chúng
ta gọi là “nghệ thuật sắp đặt”. Thật sự trong hoạt động tạo hình phổ
biến hiện nay từ lnstallation còn chỉ cả những thiết kế cơ học, vật lý,
hóa học nhằm đưa ra sản phẩm nhằm thể hiện ý đồ diễn cảm nào đó. Vì
vậy xin dùng từ “dàn dựng” như một đề nghị.
Trong sân khấu và điện ảnh nghệ thuật “dàn dựng” ngày một hoàn hảo.
Những cảnh tượng mưa gió bão bùng khi được chiếu lên màn bạc,
người xem không thấy chút nào là giả tạo. Nếu đem Dự án Khí Tượng
của Eliasson khá nổi tiếng, cùng đặt lên “bàn cân xúc cảm” ắt hẳn còn
lắm ý kiến. Còn như những công trình nghệ thuật địa hình của
Smithson hay De Maria, Turreli, tốn hao công của khá nhiều và tầm
vóc cũng thật lớn lao, nhưng đem so với các công trình thủy điện,
những hệ thống giao thông chằng chịt nhiều tầng lớp của các đô thị lớn
- trên thế giới, trên phương diện công năng, tính nhân bản và cả về mặt
thẩm mỹ nữa, cần đánh giá chính xác không thể nào ước đoán mơ hồ.
Còn như nghệ thuật trình diễn (Performance) mà không ít người cho là
“hơi thở thời đại” đối chiếu những vũ điệu Ba lê của Vaslav Nijinsky
cách đây tròn một thế kỷ (1909-2009) với các tranh sống của Maria
josé Ribot, những pha trình diễn của Tania Bruguera, Ana Mendieta
với “tượng sống” của George và Gilbert, chất lượng nghệ thuật của hai
thái cực hãy dành sự phán xét cho lịch sử loài người.
Xét cho cùng mỗi ngành nghệ thuật đều có chức năng sở trường, lịch
sử, kiến thức và sinh hoạt đặc trưng của nó. Ngành tạo hình có tính chất
tác động tình cảm qua cơ quan thị giác. Vũ nhạc vừa mang tính thị giác
lẫn thính giác. Điện ảnh mang tính tổng hợp trong ấn tượng mạnh mẽ
của không gian ba chiều.
Hãy thả con cá về với sông sâu biển rộng, con chim về với gió núi mây
ngàn và “trả lại cái gì của César cho César”.
Đặng Ngọc Trân
nguon tai.lieu . vn