- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Đảm bảo chất lượng tại các trường cao đẳng du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Xem mẫu
- ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG TẠI CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
DU LỊCH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
Hoàng Văn Thái*
TÓM TẮT:
Chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng giáo dục nghề nghiệp nói riêng luôn nhận
được sự quan tâm của Chính phủ, các cơ sở giáo dục và đào tạo, các nhà giáo, nhà nghiên
cứu và toàn xã hội. Bài viết khái quát một số vấn đề cơ bản về đảm bảo chất lượng trong
giáo dục nghề nghiệp như: khái niệm, mục đích, các thành tố và công cụ chính. Bài viết cũng
trình bày những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị đối với việc triển khai công
tác đảm bảo chất lượng tại các trường cao đẳng du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Từ khóa: đảm bảo chất lượng, giáo dục nghề nghiệp, trường cao đẳng du lịch, hội
nhập quốc tế.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, chất lượng giáo dục nói chung, chất
lượng giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của
Chính phủ, các cơ sở giáo dục và đào tạo, các nhà giáo, nhà nghiên cứu và toàn xã
hội. GDNN đóng vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực có trình độ kỹ thuật, kiến
thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết để trực tiếp tham gia vào các hoạt động
sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ; góp phần nâng cao sức cạnh tranh kinh tế
và sự thịnh vượng của mỗi quốc gia trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của kinh tế
số, kinh tế tri thức mang tính toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư cùng với xu thế dịch chuyển nhân lực trên thị trường lao động khu vực và
thế giới. Thách thức chính của GDNN Việt Nam hiện nay là phải đáp ứng được những
đòi hỏi luôn thay đổi về kỹ năng của mỗi cá nhân và của thế giới nghề nghiệp gắn liền
với việc học tập suốt đời. Chất lượng GDNN chính là chất lượng của nguồn lao động
qua đào tạo có kỹ thuật, kỹ năng đáp ứng nhu cầu của xã hội, được thị trường lao động
chấp nhận và không chỉ đơn thuần đạt các chuẩn mực quốc gia mà còn phải tiến tới
đạt các chuẩn mực trong khu vực và thế giới.
Thực tiễn phát triển của du lịch Việt Nam trong những năm qua, nguồn nhân
lực có một vị trí, vai trò quyết định quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế du lịch nước nhà. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê [6] và của ngành Du
lịch Việt Nam [2]: trong 6 tháng đầu năm 2019, lượng khách quốc tế đến Việt Nam
* Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội
551
- ước tính đạt gần 8,5 triệu lượt người, tăng 7,5% so với vùng kỳ năm 2018; khách nội
địa đạt 45,5 triệu lượt người; tổng thu từ khách du lịch đạt 338.200 tỷ đồng, tăng 8,4%
so với cùng kỳ năm 2018 và du lịch hiện đóng góp 7% GDP. Sự tăng trưởng mạnh mẽ
của ngành du lịch đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có chất lượng và năng lực tốt hơn để
phục vụ tốt cho du khách cần được các cơ sở đào tạo về du lịch nói chung, các trường
cao đẳng du lịch (CĐDL) thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nói riêng, đặc biệt
quan tâm; nhất là khi Việt Nam đang tích cực thực hiện thỏa thuận thừa nhận lẫn
nhau trong ASEAN về nghề du lịch nhằm công nhận trình độ đào tạo giữa các nước
và thúc đẩy chuyển dịch lao động thạo nghề một cách tự do trong khu vực. Trước
yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực của thị trường lao động du lịch
và cũng để góp phần tiếp tục đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nâng cao chất
lượng, hiệu quả của GDNN du lịch; trong quá trình xây dựng và phát triển, các trường
CĐDL đều hướng đến mục đích trở thành cơ sở GDNN du lịch chất lượng cao và có
các nghề đào tạo đạt trình độ quốc gia, khu vực ASEAN và quốc tế. Để đạt được mục
tiêu này, nhiệm vụ cấp bách của các trường CĐDL hiện tại là xây dựng và vận hành
được hệ thống quản lý chất lượng GDNN phù hợp trong nhà trường đạt chuẩn đầu ra
với mục tiêu hội nhập khu vực và thế giới về chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo.
Xét về mức độ của các hệ thống quản lý chất lượng đang được áp dụng trong các
cơ sở giáo dục và đào tạo trên thế giới hiện nay, có ba mức độ chính: (1) Kiểm soát
chất lượng nhằm phát hiện sai sót và loại bỏ sản phẩm lỗi; (2) đảm bảo chất lượng
(ĐBCL) hay bảo đảm chất lượng có trọng tâm là phòng ngừa sự xuất hiện những sai
sót bằng các quy trình và cơ chất nhất định và (3) quản lý chất lượng tổng thể nhằm
vào cải thiện liên tục chất lượng và lấy việc thay đổi hệ thốn giá trị và nền văn hóa của
tổ chức làm trọng tâm [1, tr.535-541; 4, tr.131]. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu,
hầu hết các cơ sở giáo dục và đào tạo hiện nay ở Việt Nam mới áp dụng mức độ kiểm
soát chất lượng và xây dựng hệ thống ĐBCL tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể. Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội đã và đang chỉ đạo mạnh mẽ các cơ sở GDNN xây
dựng hệ thống ĐBCL phù hợp với điều kiện thực tiễn của mỗi nhà trường và coi đây
là công cụ nâng cao chất lượng GDNN, góp phần nâng cao niềm tin của xã hội với
công tác GDNN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, trong bài viết này, tác giả
tập trung khái quát một số vấn đề cơ bản về ĐBCL trong GDNN, những vấn đề đặt ra
và đề xuất một số khuyến nghị đối với việc triển khai công tác ĐBCL tại các trường
CĐDL nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các nhà trường theo hướng ứng dụng,
thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo của thị trường lao động du
lịch; góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh
của ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế dưới tác động mạnh mẽ
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư/4.0.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Một số vấn đề cơ bản về đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp
1.1. Chất lượng giáo dục nghề nghiệp
552
- Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc, gần gũi với loài người ngay từ thời
cổ đại, tuy nhiên khái niệm chất lượng nói chung, chất lượng giáo dục nói riêng là một
khái niệm khó định nghĩa, khó xác định, biến đổi theo sự phát triển của nền kinh tế,
xã hội, tiến trình hội nhập quốc tế và tùy thuộc theo cách hiểu, quan niệm khác nhau
của mỗi cá nhân. Nguyên nhân bắt nguồn từ nội hàm phức tạp của khái niệm chất
lượng được dùng chung cho cả quan niệm: chất lượng tuyệt đối và chất lượng tương
đối. Chất lượng hiểu theo nghĩa tuyệt đối là chất lượng cao, chất lượng cao nhất. Chất
lượng theo nghĩa tương đối xem xét sản phẩm, dịch vụ theo những thuộc tính mà
người ta gắn cho nó [4, tr.43]. Xét từ góc độ nhu cầu của khách hàng, chất lượng sản
phẩm được định nghĩa là sự thỏa mãn và vượt mong đợi của khách hàng [5, tr.33].
Chất lượng là tập hợp các đặc tính/đặc điểm của một thực thể (đối tượng) mà các đặc
tính đó tạo cho thực thể khả năng thỏa mãn những nhu cầu nêu ra hoặc nhu cầu tiềm
ẩn hoặc là mức độ đáp ứng các nhu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có [dẫn
theo 1, tr.519; 14, tr.8]. Chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng [dẫn theo 5,
tr.12]... Do vậy, không thể nói đến chất lượng như một khái niệm nhất thể. Chất lượng
cần được xác định kèm theo mục tiêu hay ý nghĩa của nó. Nói chung, khái niệm chất
lượng được xem là khó nắm bắt và khó có sức thuyết phục.
Một số nhà nghiên cứu giáo dục đã đề cập đến một số hướng tiếp cận/khía cạnh
chính về chất trong giáo dục và đào tạo như sau [1, tr.519-521; 10, tr.6]: Chất lượng
là sự vượt trội, chất lượng là sự hoàn hảo, chất lượng là phù hợp với mục đích, chất
lượng là đáng giá đồng tiền đầu tư, chất lượng là sự vượt qua ngưỡng và chất là sự biến
đổi. Chất lượng GDNN là toàn thể các đặc tính của một chương trình học tập và cơ
sở giáo dục cung cấp chương trình đó, thông qua các đặc tính đó kỳ vọng của những
người hưởng lợi và chuẩn chất lượng được đáp ứng [13, tr.2]. Khi xem xét mối quan
hệ giữa mục tiêu và chất lượng đào tạo, theo Trần Khánh Đức (2014) việc đánh giá
chất lượng đào tạo với từng ngành nhất định có thể bao gồm các tiêu chí sau: phẩm
chất về xã hội - nghề nghiệp; các chỉ số về sức khỏe, tâm lý, sinh học…; trình độ kiến
thức, kỹ năng chuyên môn; năng lực hành nghề cơ bản và thực tiễn; khả năng thích
ứng với thị trường lao động; năng lực nghiên cứu và tiềm năng phát triển nghề nghiệp
[1, tr.525]. Theo Oladipo và các cộng sự (2009), chất lượng giáo dục có thể được đo
lường dựa vào các yếu tố chất lượng đầu vào, chất lượng đầu ra, chất lượng quá trình
và chất lượng nội dung [dẫn theo 15]. Trong GDNN du lịch, sáu lĩnh vực/khía cạnh
tương đối quan trọng có thể được dùng làm các chỉ số đo lường chất lượng của các
chương trình đào tạo là: chương trình và giảng dạy, khoa của các cơ sở GDNN, xây
dựng kế hoạch chiến lược, quản trị hành chính, kết quả học tập của người học và các
nguồn lực [11].
Nhìn chung, những quan niệm, tiếp cận về chất lượng và chất lượng trong giáo
dục nói chung, GDNN nói riêng được các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam
đề cập đến gắn với ba trường phái lý thuyết chính về chất lượng [1, tr.523; 4, tr.44-
45]: (1) Lý thuyết về sự khan hiếm (chất lượng chỉ có ở số lượng sản phẩm hạn chế và
phụ thuộc vào chi phí, nguồn lực, quy mô của cơ sở giáo dục, sự tuyển chọn, sự công
553
- nhận trong phạm vi toàn quốc, trong khu vực và trên thế giới), (2) lý thuyết về sự gia
tăng giá trị (các cơ sở giáo dục có chất lượng là các cơ sở làm tăng sự khác biệt của
kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học từ khi nhập học đến khi tốt nghiệp) và (3)
lý thuyết về sự phù hợp với sứ mệnh và mục tiêu (chất lượng là sự phù hợp với tuyên
bố sứ mệnh và kết quả đạt được mục tiêu trong phạm vi các chuẩn mực được chấp
nhận công khai).
Trong bài viết này, chất lượng GDNN có thể được hiểu là một tập hợp các đặc
điểm của một chương trình đào tạo và của cơ sở GDNN cung cấp chương trình đào
tạo đó mà các đặc điểm này đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng bắt buộc của các
cơ quan quản lý GDNN và các cơ quan chuyên trách khác cũng như kỳ vọng/mong
đợi của các bên liên quan (người học, phụ huynh, nhà tài trợ, nhà tuyển dụng, cộng
đồng, nhà nước...) và thị trường lao động. Trong GDNN nói chung, GDNN du lịch nói
riêng, chất lượng liên quan mật thiết tới mức độ đạt chuẩn đầu ra (kiến thức, kỹ năng
và mức độ tự chủ và trách nhiệm mà người học đã đạt được sau một giai đoạn học tập
hoặc sau khi hoàn thành chương trình đào tạo) của ngành, nghề đào tạo tương thích
với những mô tả của bậc trình độ trong khung trình độ quốc gia Việt Nam đáp ứng
được những kỳ vọng của người học, phụ huynh/gia đình, nhà tuyển dụng, nhà tài trợ,
của ngành và của Nhà nước. Chất lượng GDNN có một số đặc trưng sau:
- Chất lượng GDNN mang tính giai đoạn: Chất lượng GDNN phải không ngừng
được nâng cao để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng trong quá trình phát triển
của hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ và phát triển của khoa học
công nghệ;
- Chất lượng GDNN mang tính tương đối: Khi đánh giá chất lượng GDNN phải
đối chiếu, so sánh với tiêu chuẩn chất lượng của ngành, nghề theo yêu cầu của hoạt
động sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ ngày càng cao hơn. Do đó, chất lượng
GDNN thường xuyên thay đổi khi các cơ sở GDNN không ngừng nỗ lực cải tiến liên
tục nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng này;
- Chất lượng GDNN mang tính đa cấp: Xét từ góc độ cung ứng dịch vụ giáo dục,
quá trình đào tạo ở các cơ sở GDNN hiện nay cần đáp ứng được nhu cầu của nhiều
loại hình khách hàng khác nhau trong nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, các cơ
sở GDNN phải đào tạo với một hệ chuẩn có nhiều cấp độ khác nhau: chuẩn thế giới,
chuẩn khu vực, chuẩn quốc gia, chuẩn ngành, chuẩn địa phương ….
1.2. Đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp
Đảm bảo chất lượng là cấp quản lý chất lượng trung gian giữa kiểm soát chất
lượng và quản lý chất lượng tổng thể. ĐBCL là nhân lõi hình thành nên quản lý chất
lượng tổng thể. ĐBCL là một trong những phương thức quản lý chất lượng với lý
thuyết chủ đạo xuất phát từ lĩnh vực kinh doanh từ những năm 90 của thế kỷ trước
và dần được áp dụng vào lĩnh vực GDNN trong những năm gần đây. Quan điểm chủ
đạo của ĐBCL là chất lượng của sản phẩm được thiết kế ngay trong quá trình sản
554
- xuất ra nó từ khâu đầu đến khâu cuối theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt đảm bảo
không có sai phạm trong bất kỳ khâu nào.
Trong môi trường kinh doanh, ĐBCL là một mục tiêu lớn của quản trị chất
lượng trong các doanh nghiệp hay tổ chức khi đang tồn tại và phát triển trong cơ chế
thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt. ĐBCL là các hoạt động có
kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong hệ thống chất lượng và được chứng minh
là đủ mức cần thiết tạo sự thỏa đáng rằng người tiêu dùng sẽ thỏa mãn các yêu cầu
chất lượng. ĐBCL là một hoạt động rất rộng bao trùm toàn bộ các khâu của quá trình
nghiên cứu thiết kế, sản xuất, tiêu dùng [5, tr.214-215].
Trong giáo dục, ĐBCL có sự phối hợp giữa người quản lý và người thừa hành,
giữa cấp trên và cấp dưới. ĐBCL phòng ngừa sai sót bằng những những quy định, quy
chế nhất định. Chất lượng được thiết kế trước và trong quá trình thực hiện. Khác với
kiểm soát chất lượng hiện đang phổ biến trong các sở GDNN là đến công đoạn cuối
cùng mới kiểm tra, đánh giá, ĐBCL phòng chống sai phạm ngay từ lúc đầu tiên; đảm
bảo sao cho không có phế phẩm nên trách nhiệm ĐBCL là của chính từng thành viên
trong cơ sở giáo dục bằng cách tuân thủ các qui trình được đặt ra ngay từ đầu. Có thể
nhận thấy ĐBCL là sự mở rộng phạm vi quản lý chất lượng cho tất cả những người
thừa hành trong cơ sở giáo dục. Điều đó không có nghĩa việc kiểm soát chất lượng
biến mất. Chức năng kiểm soát chất lượng được đẩy xuống các cấp quản lý thấp hơn
và hầu hết các trường hợp nằm ngay trong tay người thực hiện. Như vậy, ĐBCL bao
gồm cả kiểm soát chất lượng [4].
Trần Khánh Đức (2014) đưa ra quan niệm ĐBCL trong giáo dục như sau [1,
tr.537]: ĐBCL có thể được coi như là một hệ thống các biện pháp, các hoạt động có kế
hoạch, được tiến hành trong và ngoài nhà trường và được chứng minh là đủ mức cần
thiết để tạo ra sự tin tưởng thỏa đáng rằng các hoạt động và sản phẩm đào tạo (sinh
viên tốt nghiệp) sẽ thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu về chất lượng đào tạo theo mục tiêu
đào tạo dự kiến.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5814: ĐBCL là toàn bộ hoạt động có kế hoạch
và hệ thống được tiến hành trong hệ chất lượng và được chứng minh là đủ mức cần
thiết để tạo sự tin tưởng thỏa đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thỏa mãn đầy đủ các
yêu cầu chất lượng [dẫn theo 1].
Theo quan điểm của Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á
(SEAMEO): ĐBCL là những quan điểm, chủ trương, chính sách, mục tiêu, hành
động, công cụ, quy trình và thủ tục mà thông qua việc sử dụng chúng có thể đảm bảo
rằng sứ mạng và mục tiêu đang được thực hiện, các chuẩn mực đang được duy trì và
nâng cao [dẫn theo 1].
ĐBCL là toàn bộ quá trình đảm bảo hiệu quả và hiệu suất của các chương trình
và dịch vụ giáo dục gắn với bối cảnh, sứ mệnh và mục tiêu đã xác định [15].
555
- ĐBCL là một cấu phần của quản lý chất lượng tập trung vào việc đảm bảo sự tin
tưởng đối với các yêu cầu về chất lượng được thực hiện. Trong giáo dục và đào tạo,
ĐBCL liên quan đến các quá trình được lập kế hoạch và có hệ thống nhằm đảm bảo
sự tin tưởng cho thiết kế chương trình, tổ chức đào tạo và cấp chứng nhận trình độ
trong một hệ thống giáo dục đào tạo. ĐBCL giúp bảo vệ quyền lợi các bên liên quan
và đầu tư của họ vào một chương trình đào tạo đã được kiểm định chất lượng hay
ĐBCL là quá trình và thủ tục được thực hiện nhằm đảm bảo rằng các trình độ, hoạt
động đánh giá và các chương trình đào tạo đáp ứng được các tiêu chuẩn nào đó [dẫn
theo 7]. ĐBCL là một quá trình liên tục: thiết lập, xây dựng hệ thống quản lý, đánh
giá, kiểm soát, duy trì, khắc phục và cải tiến nhằm nâng cao chất lượng đào tạo để đạt
được mục tiêu đề ra của các doanh nghiệp [1]. ĐBCL là tất cả các hoạt động liên quan
đến việc lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá công tác giáo dục và đào tạo, báo cáo và cải
tiến chất lượng được triển khai nhằm đảm bảo công tác giáo dục và đào tạo (nội dung
chương trình đào tạo, chương trình, đánh giá và xác trị kết quả học tập…) đáp ứng
được các yêu cầu chất lượng mà các bên liên quan kỳ vọng [10, tr.37].
Như vậy, ĐBCL GDNN là quá trình và thủ tục được thực hiện nhằm đảm bảo
rằng các trình độ, hoạt động đánh giá và các chương trình đào tạo đáp ứng được
các tiêu chuẩn cụ thể. ĐBCL bao gồm các quy trình đảm bảo việc cung ứng dịch vụ
GDNN, học tập, quản lý, đăng ý theo học, kiểm định và cấp chứng chỉ cũng như các
hoạt động đánh giá và lưu trữ kết quả học tập đáp ứng được các tiêu chuẩn và yêu cầu
đã được quy định.
Trong nghiên cứu này, theo tác giả, ĐBCL ở các trường CĐDL là hoạt động quản
lý chất lượng (toàn bộ các hoạt động và quy trình liên quan đến chất lượng) mang tính
hệ thống trong phạm vi nội bộ của mỗi nhà trường nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ
GDNN nhà trường cung cấp thông qua quản lý chất lượng các quá trình đào tạo, các
chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực gắn với thực tiễn nghề du lịch, học liệu,
các khoa của mỗi nhà trường, nguồn nhân lực (nhân viên, giảng viên/giáo viên, đào
tạo viên, người hướng dẫn, đánh giá viên, thẩm định viên nội bộ, thanh tra viên...)
phù hợp với các chuẩn đã được xây dựng và những hướng dẫn liên quan. ĐBCL ở các
trường CĐDL chủ yếu tập trung vào đảm bảo người học nhận được bằng cấp đào tạo
có chất lượng tương ứng với những yêu cầu của bậc trình độ quy định trong khung
trình độ Quốc gia Việt Nam, cho phép người học đủ khả năng có được việc làm tốt,
phù hợp trong ngành du lịch và có thể theo đuổi việc học tập suốt đời. ĐBCL ở các
trường CĐDL chính là thể hiện sự lãnh đạo nhà trường hướng tới sự hoàn hảo gắn
với tầm nhìn, sứ mệnh của GDNN Việt Nam và cũng thể hiện sự nỗ lực không ngừng
nâng cao chất lượng của mỗi nhà trường. ĐBCL ở các trường CĐDL là tiền đề cơ bản
để các nhà trường đáp ứng được các yêu cầu và quy trình của ĐBCL bên ngoài hiện
hành đối với GDNN ở Việt Nam và trên thế giới.
1.3. Mục đích của đảm bảo chất lượng GDNN
Khi lập kế hoạch và thiết kế hệ thống ĐBCL, việc xác định rõ những mục đích
556
- cốt lõi mà công tác ĐBCL của mỗi cơ sở GDNN cần hướng tới là một nội dung quan
trọng vì điều này sẽ quyết định bản chất của hệ thống ĐBCL trong nhà trường và các
quy trình chi tiết trong hệ thống đó. Nhiều tài liệu về ĐBCL cho thấy việc phân loại hệ
thống ĐBCL cơ bản dựa trên mục tiêu chính của việc xây dựng hệ thống ĐBCL hoặc
triển khai các hoạt động ĐBCL của cơ sở GDNN. Theo Khổng Hữu Lực và Phạm Vũ
Quốc Bình (2016), mục đích của ĐBCL trong GDNN bao gồm [3]: (1) ĐBCL với mục
đích phòng chống sai phạm ngay từ khâu đầu tiên, đảm bảo rằng không có sản phẩm
bị lỗi sau quá trình đào tạo; hay giúp cho tổ chức làm đúng ngay từ đầu, làm đúng
tại mọi thời điểm; hoặc tìm ra các lỗi và khắc phục ngay; (2) ĐBCL là cơ sở cho hoạt
động cải thiện chất lượng giáo dục đào tạo, nhằm đánh giá và phục vụ cho mục đích
nâng cao chất lượng; (3) ĐBCL tăng cường tính linh hoạt của hệ thống GDNN.
Trong bối cảnh đổi mới, nâng cao chất lượng GDNN theo hướng tăng cường tự
chủ và hội nhập thế giới về chuẩn chất lượng đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của thị
trường lao động, theo tác giả, việc triển khai công tác ĐBCL trong các cơ sở GDNN
ở Việt Nam tập trung vào hai mục đích chính: giải trình (accountability) và cải tiến/
nâng cao (improvement).
(1) ĐBCL nhằm mục đích giải trình:
Mục đích của ĐBCL của mỗi cơ sở GDNN thường gắn với các nhu cầu công
khai thông tin và xác thực mức độ đáp ứng những kỳ vọng, các chuẩn chất lượng tối
thiểu được yêu cầu hoặc các mục tiêu mà cơ sở GDNN đã xác định của xã hội và các
bên liên quan. Đối với các cơ sở GDNN công lập, ĐBCL giúp các cơ quan quản lý
đánh giá chất lượng và hiệu quả chi ngân sách. ĐBCL có thể giúp bảo đảm một lần
nữa với các bên liên quan ở ngoài cơ sở GDNN về việc duy trì và nâng cao các chuẩn
chất lượng của cơ sở giáo dục. Mục đích giải trình của ĐBCL chủ yếu công khai thông
tin xác thực thu thập được từ các hoạt động ĐBCL của cơ sở giáo dục tới các bên liên
quan bên ngoài cơ sở giáo dục như nhà nước, các cơ quan kiểm định chất lượng giáo
dục và các bên liên quan quốc tế.
(2) ĐBCL nhằm mục đích cải tiến:
Mục đích cải tiến (hay còn gọi là nâng cao) chủ yếu hướng vào các bên liên
quan nội bộ và cơ sở GDNN. Thay vì dựa vào giấy chứng nhận đạt các tiêu chuẩn
chất lượng do cơ quan quản lý hoặc tổ chức kiểm định độc lập cấp có giá trị trong
một khung thời gian, ĐBCL đóng vai trò như một quá trình cải tiến liên tục chú trọng
hướng tới tương lai nhiều hơn. Ở đây, ĐBCL không chỉ giúp các cơ sở GDNN nhận
rõ những điểm mạnh và hạn chế của mình mà còn đề xuất những hướng đi phù hợp
để không ngừng nâng cao chất lượng. Đương nhiên, trong ĐBCL, hoạt động đánh giá
cũng diễn ra nhưng chủ yếu đóng vai trò để là cơ sở cho các khuyến nghị hơn là xác
định kết quả đạt hay không đạt. Những khuyến nghị này chủ yếu dành cho các nhà
giáo trực tiếp tham gia vào các hoạt động của ĐBCL thì sẽ rất có ý nghĩa cho sự thành
công của việc triển khai công tác nâng cao chất lượng.
557
- Thực tế hiện nay, ở một cơ sở GDNN công lập, mục đích giải trình và cải tiến
của ĐBCL cần được cân bằng để đáp ứng cả yêu cầu của nhà nước và mong muốn
hội nhập khu vực, thế giới mạnh mẽ hơn của chính cơ sở GDNN; hướng tới tăng sức
cạnh tranh của chính cơ sở giáo dục trong thị trường cung ứng dịch vụ GDNN mang
tính toàn cầu.
1.4. Thành tố chính của đảm bảo chất lượng GDNN
Theo Khổng Hữu Lực và Phạm Vũ Quốc Bình (2016), trên thế giới, đặc biệt là ở
Anh Quốc, trong GDNN hiện nay đang áp dụng 3 hình thức ĐBCL chủ yếu là: đánh
giá chất lượng (quality assessment), kiểm toán chất lượng (quality audit) và kiểm
định chất lượng (accreditation), còn ở Việt Nam lại gồm 3 thành tố chính là: ĐBCL
bên trong (internal quality assurance - IQA), tự kiểm định(self-inspection) và ĐBCL
bên ngoài (external quality assurance - EQA) [3]. Tuy nhiên, khi xem xét ĐBCL có
thể được sử dụng để mô tả tất cả các hoạt động hoặc cơ chế liên quan đến chất lượng,
theo tác giả, ĐBCL trong GDNN có thể phân chia thành hai thành tố chính là ĐBCL
bên trong và ĐBCL bên ngoài.
(1) ĐBCL bên trong (chất lượng ở cấp độ dạy và học trong cơ sở GDNN) liên
quan đến các chính sách và cơ chế nội bộ của cơ sở GDNN hoặc chương trình đào tạo
nhằm bảo đảm cho cơ sở GDNN hay chương trình đào tạo thực hiện thành công mục
đích của mình và đáp ứng được các chuẩn áp dụng cho mỗi cấp học, nghề hoặc môn
học cụ thể. Hoạt động ĐBCL bên trong phổ biến nhất trong các GDNN đó chính là
xây dựng hệ thống kiểm tra, thi độc lập với hoạt động giảng dạy, hệ thống tự đánh giá
của đơn vị/cá nhân, sinh viên đánh giá giảng viên, đào tạo bồi dưỡng giảng viên, nâng
cấp cơ sở hạ tầng, xây dựng văn hóa chất lượng, xây dựng các quy trình, việc lưu trữ
kết quả đánh giá, kết quả đào tạo ...
(2) ĐBCL bên ngoài (chất lượng ở cấp độ hệ thống) liên quan đến việc đánh giá
các hoạt động của một cơ sở GDNN hoặc các chương trình đào tạo để xác định mức
độ đáp ứng các chuẩn tối thiểu đã được đề ra của một tổ chức bên ngoài, có thể là cơ
quan ĐBCL của Nhà nước hoặc tổ chức ĐBCL chuyên nghiệp. ĐBCL bên ngoài được
thực hiện thông qua các hoạt động kiểm định, tự đánh giá, đánh giá đồng cấp hoặc
hệ thống báo cáo.
Theo tác giả, quá trình triển khai công tác ĐBCL trong GDNN bao giờ cũng
phải bắt đầu từ ĐBCL trong cơ sở GDNN. Hoạt động này thường tập trung vào các
yếu tố đầu vào (sinh viên, giảng viên, quản lý, cơ sở vật chất, phục vụ..), quá trình
(giảng dạy, học tập, thực tập, kiểm tra-đánh giá…), đầu ra (thi tốt nghiệp, thông tin
số người tốt nghiệp có việc làm, thông tin phản hồi của doanh nghiệp…) bằng việc
sử dụng các cơ chế và quy trình nhất định. Mặc dù có nhận được sự trợ giúp của các
cơ quan, tổ chức bên ngoài, việc thiết kế và đưa các quy trình, cơ chế ĐBCL vào thực
hiện chủ yếu là trách nhiệm của cơ sở GDNN. Chính vì vậy, ĐBCL bên trong cần
nhận được sự quan tâm đặc biệt của các trường CĐDL trong quá trình đổi mới, nâng
cao chất lượng của mình.
558
- 1.5. Công cụ chính trong đảm bảo chất lượng GDNN
Theo Ủy ban quốc gia về giáo dục suốt đời và giáo dục đại học của Malta
(National Commission for Further and higher education of Malta), ở châu Âu, công
cụ chính giúp triển khai công tác đảm bảo chất lượng GDNN là Khung tham chiếu
ĐBCL GDNN châu Âu (European Quality Assurance Reference Framework for VET/
EQAVET). Khung tham chiếu ĐBCL GDNN châu Âu được sử dụng trong giám sát và
nâng cao chất lượng GDNN của các quốc gia thành viên. Khung tham chiếu ĐBCL
GDNN châu Âu không quy định, nhưng cung cấp các nguyên tắc chung, các tiêu chí
chất lượng, các đặc tả biểu thị và chỉ báo cụ thể giúp đánh giá và cải tiến việc cung cấp
dịch vụ GDNN. Khung này bao gồm một chu trình đảm bảo và cải tiến chất lượng
dựa trên lựa chọn các chỉ báo phù hợp với công tác quản lý chất lượng ở cả cấp độ hệ
thống và cấp cơ sở GDNN [14]. Phương pháp/mô hình ĐBCL trong GDNN của châu
Âu được khuyến nghị triển khai dựa trên 3 khía cạnh [13, 14]:
(1) Chu trình chất lượng được được sử dụng cho cả cấp độ hệ thống và cấp cơ sở
GDNN gồm 4 giai đoạn: Lập kế hoạch (planning), thực hiện (implementation), đánh
giá (evaluation) và xem xét hoàn thiện (review) – PIER.
- Lập kế hoạch: Xác định/Xây dựng các mục đích và mục tiêu của chính sách,
quy trình, nhiệm vụ, nguồn lực một cách rõ ràng, phù hợp và có thể đo lường được.
- Thực hiện: Xây dựng các quy trình đảm bảo đạt được các mục đích và mục tiêu
đã xác định (ví dụ; phát triển mối quan hệ hợp tác với doanh nghiệp, phân bổ nguồn
lực và các quy trình của tổ chức...)
- Đánh giá: Thiết kế các cơ chế đánh giá kết quả và đầu ra thông qua thu thập và
xử lý dữ liệu để đưa ra những đánh giá xác thực.
- Xem xét hoàn thiện: Phát triển các quy trình để đạt được đầu ra đã định và/
hoặc mục tiêu mới. Sau khi xử lý các phản hồi, các bên liên quan chính thảo luận và
phân tích để xác định các quy trình cần thay đổi.
(2) Tiêu chí chất lượng và các đặc tả biểu thị cho mỗi giai đoạn của chu trình
định hướng cho các cơ sở GDNN cách thức triển khai.
(3) Các chỉ báo chung (định lượng và định tính) để đánh giá các mục tiêu,
phương pháp, quy trình và kết quả đào tạo ở cả cấp hệ thống và cấp cơ sở GDNN.
ĐBCL mang tính chất liên tục, hệ thống và chu kỳ. Việc xem xét hoàn thiện giúp
ích rất nhiều cho việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch với các hoạt động và cải tiến
mới, dẫn đến việc đánh giá và xem xét hoàn thiện được lặp đi lặp lại. Nhờ đó chất
lượng của cơ sở GDNN ngày càng được nâng cao.
2. Hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra với công tác đảm bảo chất lượng tại
các trường cao đẳng du lịch ở Việt Nam
559
- Trong tiến trình HNQT, GDNN du lịch Việt Nam nói chung, các trường CĐDL
nói riêng, sẽ phải đối mặt với những xu thế sau: Dịch chuyển quốc tế của sinh viên,
giảng viên giữa các nước; quốc tế hóa các chương trình đào tạo; nhiều phân hiệu của
các cơ sở GDNN nước ngoài được thành lập cạnh tranh trực tiếp với các cơ sở đào
tạo nội địa; các cơ sở GDNN tăng cường hợp tác để cùng giải quyết nhiều vấn đề giáo
dục, đào tạo, giảng dạy mà hai bên cùng quan tâm thông qua các dự án trao đổi sinh
viên, giảng viên; tăng cường thỏa thuận lẫn nhau về văn bằng, chứng chỉ, chương
trình đào tạo, hoạt động ĐBCL, hoạt động kiểm định chất lượng giữa các cơ sở giáo
dục, giữa các nước sẽ thành lập các hệ thống cơ sở GDNN mang tính toàn cầu; phát
triển dịch vụ GDNN điện tử (GDNN từ xa với sự trợ giúp của công nghệ thông tin
truyền thông và mạng Internet) sẽ có nhiều khóa học xuyên biên giới; đặc biệt khi
các cơ sở GDNN ứng dụng sáng tạo và hiệu quả công nghệ GDNN dựa trên thành
quả của cách mạng công nghiệp 4.0; các cơ sở GDNN cũng sẽ dần được trao quyền
tự chủ hoàn toàn, thực hiện trách nhiệm giải trình cao, được quyền áp dụng những
phương thức quản trị chất lượng hiện đại và vận hành như một doanh nghiệp...Bên
cạnh những thời cơ HNQT mang lại, những xu hướng phát triển của GDNN du lịch
cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với công tác ĐBCL trong các trường CĐDL, trong đó có
những vấn đề cốt lõi sau:
Thứ nhất, trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh) của lãnh đạo quản lý và nhân viên
trong lĩnh vực ĐBCL: Quá trình tham gia cung cấp các dịch vụ GDNN xuyên quốc
gia theo hình thức hợp tác, đặt văn phòng đại điện, trao đổi sinh viên và giảng viên,
liên thông nhận bằng quốc tế, nhập khẩu chương trình đào tạo..., các trường CĐDL sẽ
phải tiếp cận với nhiều mô hình ĐBCL tiên tiến của nước ngoài với nhiều khái niệm,
thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài (tiếng Anh) liên quan đến ĐBCL vốn bắt nguồn từ
doanh nghiệp, thuộc nhiều lĩnh vực khác như: tâm lý học, giáo dục học, toán học...
Những khái niệm, thuật ngữ này rất khó có thể tìm được khái niệm tương đương
chính xác trong tiếng Việt. Việc dịch chính xác các khái niệm, thuật ngữ về ĐBCL đòi
hỏi ngoài kiến thức chuyên môn về triết lý đào tạo, học thuyết giáo dục được sử dụng,
mô hình ĐBCL được quan tâm..., người dịch cần có trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh)
đủ tốt. Do đó, trình độ ngoại ngữ của những người chuyên trách về ĐBCL, nhất là
người quản lý đứng đầu đơn vị chuyên trách về ĐBCL của các trường CĐDL, là một
thách thức không nhỏ;
Thứ hai, phẩm chất, năng lực của lãnh đạo quản lý và nhân viên trong lĩnh vực
ĐBCL: Quá trình HNQT, các trường CĐDL sẽ phải chấp nhận những nguyên tắc,
tiêu chuẩn và yêu cầu chất lượng của các cộng đồng hoặc tổ chức GDNN quốc tế
hoặc các trường đối tác nước ngoài. Để triển khai áp dụng các hoạt động và quy trình
ĐBCL phù hợp, hiệu quả; đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên trong lĩnh vực ĐBCL
của mỗi nhà trường cần có phẩm chất và năng lực tương ứng với yêu cầu của công tác
ĐBCL trong bối cảnh HTQT. Một minh chứng rất cụ thể là hiện tại các trường CĐDL
đang tích cực triển khai thí điểm một số chương trình quốc tế chuyển giao theo mô
hình, khung trình độ của Úc (Quản trị khu resort, Quản trị nhà hàng, Hướng dẫn du
560
- lịch, Quản trị lữ hành) và của Đức (Kỹ thuật chế biến món ăn, Quản trị khách sạn,
Quản trị lễ tân) để cấp song bằng Việt Nam và của Úc hoặc Đức. Mỗi trường tham gia
triển khai đào tạo các chương trình đều phải tuân thủ các chuẩn và yêu cầu rất cao về
công tác ĐBCL. Để HNQT về ĐBCL, bên cạnh năng lực ngoại ngữ (tiếng Anh) đủ tốt,
đội nhân sự ĐBCL của các trường CĐDL cần có những phẩm chất và năng lực tương
ứng với yêu cầu cho các chương trình đào tạo quốc tế.
Thứ ba, học tập điện tử và dịch chuyển sinh viên quốc tế: Với các phương pháp
giáo dục điện tử, học tập không nhất thiết phải diễn ra cùng thời điểm hoặc địa điểm
với hoạt động giảng dạy. Làm thế nào để giám sát hoạt động học tập khi giảng viên
không tiếp xúc trực tiếp với sinh viên và mức độ chính xác, tin cậy của việc đánh giá
hoạt động học tập từ xa sẽ ra sao. Với học tập mang tính quốc tế, hoạt động học của
sinh viên diễn ra ở những khung giờ và địa điểm khác nhau, các cơ sở cung cấp dịch
vụ GDNN sẽ khó khăn việc kiểm soát bối cảnh hoạt động học tập diễn ra do sự khác
biệt về văn hóa, ngôn ngữ. Vì vậy, các cơ quan ĐBCL chỉ có thể đánh giá chất lượng
dựa vào những gì sinh viên học và kết quả thực tế của quá trình giảng dạy. Thực ra,
những thách thức này hiện cũng có thể xảy ra ở chính các trường CĐDL khi sinh viên
đi làm bán thời gian, chuyển đổi ngành học, thôi học hoặc chuyển cơ sở giáo dục.
Điều này đòi hỏi các cơ quan ĐBCL cần phối hợp với các trường CĐDL xây dựng
những phương thức đánh giá hoạt động học tập hiệu quả mà không lệ thuộc vào thời
gian và không gian. Khi áp dụng phương thức GDNN điện tử, những đặc điểm của
các trường CĐDL sẽ thay đổi. Do đó, các cơ quan ĐBCL trong GDNN xuyên quốc
gia cũng cần làm rõ những vấn đề liên quan đến nội hàm năng lực của một trường
CĐDL cung cấp những chương trình đào tạo đủ chất lượng, nhất là trong bối cảnh
ngày càng xuất hiện nhiều loại hình trường CĐDL mới như: trường CĐDL phi lợi
nhuận hoặc trường CĐDL chỉ cung cấp những khóa học ngắn hoặc trường CĐDL
cung cấp các chương trình đào tạo/khóa học ở nhiều nơi khác nhau mà đội ngũ giảng
viên linh hoạt...
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa chất lượng: Trong xu thế HNQT và bối
cảnh cạnh tranh gay gắt về chất lượng trong GDNN hiện nay, việc phát triển các nhà
trường trên nền tảng chất lượng là cơ sở quan trọng cho quá trình phát triển bền
vững và văn hóa chất lượng (VHCL) là một thứ tài sản lớn quyết định sự trường tồn
của mỗi nhà trường. Để ĐBCL một cách bền vững, các trường CĐDL cần đặc biệt
quan tâm xây dựng và thường xuyên phát triển VHCL của riêng mình. VHCL của các
trường CĐDL có thể được hiểu là mọi bên liên quan bên trong nhà trường (sinh viên,
giảng viên, cán bộ quản lý, lãnh đạo, nhân viên...), mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị của
nhà trường (các phòng, khoa, trung tâm, tổ/bộ môn, ban ngành và tổ chức đoàn thể,
câu lạc bộ...) đều biết rõ và chủ động, tích cực làm theo các yêu cầu và tiêu chuẩn chất
lượng công việc của mình.
Bản chất của việc xây dựng và phát triển VHCL trong các trường CĐDL là tạo
các môi trường và các hoạt động văn hóa liên quan đến chất lượng trong nhà trường.
Để có VHCL, mỗi trường CĐDL cần phải được bắt đầu với việc tự thiết kế hình ảnh
561
- về tương lai của mình phù hợp với xu thế phát triển của GDNN và nhu cầu thực tiễn
của thị trường lao động du lịch. Mỗi nhà trường cần một sự thống nhất và hợp tác
của tất cả các thành viên liên quan. VHCL của nhà trường cũng giống như các chất
dinh dưỡng mà tất cả các bộ phận của tổ chức cần có để phát triển và tạo được đầu ra
hữu ích cho thị trường lao động mang tính quốc tế. Thách thức lớn hiện nay đối với
công tác ĐBCL của các trường CĐDL là xây dựng được VHCL bảo bảo được những
nét đẹp đặc trưng truyền thống của mình, tiếp thu những tốt đẹp của VHCL trường
đối tác, của cộng đồng GDNN quốc tế và điều ứng, triển khai sáng tạo linh hoạt trong
điều kiện thực tiễn của mỗi nhà trường là một vấn đề thực sự không đơn giản.
Thứ năm, sự tham gia của các bên liên quan (sinh viên và nhà truyển dụng) vào
hoạt động ĐBCL: Sự tham gia của các bên liên quan trong nhà trường, trong quốc
gia và quốc tế là rất quan trọng đối với công tác ĐBCL trong các trường CĐDL. Thực
tiễn cho thấy sự tham gia của các bên liên quan và đóng góp của họ dường như ít có
ảnh hưởng tới chính sách ĐBCL của các cấp lãnh đạo ở các trường CĐDL. Việc giám
sát bên ngoài có thể thực hiện thông qua các hoạt động đánh giá và khảo sát (khảo
sát sinh viên và các cựu sinh viên, học viên; khảo sát và phân tích liên quan về từng
nhà trường...) để hình thành hệ thống thông tin hữu ích. Trong thực tiễn, rất ít trường
CĐDL để sinh viên tham gia vào công tác ĐBCL và nâng cao chất lượng thông qua
việc sinh viên tham gia vào các kỳ đánh giá, thiết kế chương trình đào tạo, chương
trình môn học. Đặc biệt, việc tham gia của các nhà tuyển dụng vào thiết và phát triển
chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động là rất ít, đôi khi chỉ
mang tính hình thức. Đây không chỉ là thách thức đối khả năng thích ứng với thị
trường lao động luôn thay đổi của người học mà còn là một thách thức không nhỏ đặt
ra với công tác ĐBCL của các nhà trường.
Như vậy, bên cạnh những thời cơ, HNQT cũng định hình cho sự phát triển
trong tương lai của GDNN du lịch Việt Nam và đặt cho công tác ĐBCL của các trường
CĐDL nhiều thách thức không nhỏ, trong đó nổi bật là những thách thức về trình độ
ngoại ngữ (tiếng Anh), phẩm chất, năng lực của lãnh đạo quản lý và nhân viên trong
lĩnh vực ĐBCL; học tập điện tử và dịch chuyển sinh viên quốc tế; xây dựng và phát
triển văn hóa chất lượng và sự tham gia của các bên liên quan (sinh viên và nhà tuyển
dụng) vào hoạt động ĐBCL.
3. Một số khuyến nghị
Từ những thảo luận trên đây có thể thấy công tác ĐBCL tại các trường CĐDL
liên quan đến tất cả các chính sách, hoạt động, cơ chế gắn với đánh giá và cải tiến chất
lượng được xây dựng, triển khai trong phạm các nhà trường. Hoạt động ĐBCL trong
các nhà trường thường quan tâm nhiều hơn tới các khía cạnh của chất lượng dạy và
học, vấn đề xây dựng văn hóa chất lượng. Với tiếp cận hướng tới cải tiến liên tục chất
lượng đạt chuẩn chất lượng quốc gia và quốc tế hiện tại của các cơ sở GDNN ở Việt
Nam và để không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng GDNN, trước mắt, các trường
CĐDL nên tập trung quan tâm vào một số nội dung chính sau:
562
- Thứ nhất, xây dựng thống ĐBCL ở các trường CĐDL: Hệ thống ĐBCL ở các
trường CĐDL thực chất là một bộ phận của hệ thống quản lý nhà trường. Hệ thống
ĐBCL hướng tập trung vào kết quả đạt mục tiêu chất lượng của nhà trường, giúp cho
nhà trường đáp ứng được những mong muốn, kỳ vọng và yêu cầu của người học, nhà
tuyển dụng và các cơ quan quản lý. Hệ thống ĐBCL của trường CĐDL sẽ đóng vai trò
là khung chất lượng giúp các nhà trường thường xuyên tự đổi mới nhằm tăng cường
khả năng làm hài lòng tất cả các bên liên quan và chứng minh năng lực cung cấp dịch
vụ GDNN có chất lượng. Điều này được thể hiện khi các trường CĐDL áp dụng các
chuẩn đào tạo tương thích với các chuẩn nghề nghiệp xác thực nhất của thế giới nghề
nghiệp, minh chứng là sản phẩm đào tạo của nhà trường thể hiện ở năng lực (kiến
thức, kỹ năng và thái độ cần thiết) của người học khi tốt nghiệp; mức độ hài lòng của
người học, người tuyển dụng và toàn xã hội đối với mỗi nhà trường ngày càng tăng;
sự gắn kết của nhà trường với thế giới nghề nghiệp ngày càng chặt chẽ.
Việc xây dựng hệ thống ĐBCL trong các trường CĐDL có thể thực hiện theo các
bước sau: (1) Thiết kế hệ thống ĐBCL (thiết kế mục tiêu của nhà trường và chương
trình, xác định mục đích của hệ thống ĐBCL phù hợp với các mục tiêu; xác định nội
dung và các chỉ báo của hệ thống, xây dựng các quy trình và mối quan hệ qua lại giữa
các quy trình; xác định vai trò lãnh đạo, các nguồn lực và phân bổ các nguồn lực);
(2) xác định các chỉ số chất lượng; (3) xác định các dữ liệu và thông tin cần thu tập,
phương pháp thu thập và công cụ xử lý và (4) triển khai hệ thống ĐBCL. Để tăng sự
gắn kết với thế giới nghề nghiệp, trong quá trình xây dựng hệ thống ĐBCL, các trường
CĐDL cần áp dụng triết lý/phương thức giáo dục, đào tạo và đánh giá dựa trên năng
lực (Competency-based education and training and assessment-CBETA). Bởi lẽ, năng
lực được hiểu là khả năng sử dụng, áp dụng và huy động tổ hợp của nhận thức, kiến
thức, kỹ năng và thái độ của một cá nhân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và
trách nhiệm chuyên môn của mình. Năng lực lại vốn là cốt lõi của chuẩn nghề nghiệp,
năng lực có thể được đo lường dựa vào chuẩn nghề nghiệp và cũng được đánh giá
dựa vào chuẩn giáo dục, đào tạo dựa trên năng lực. Năng lực cũng bao gồm khả năng
và nhân cách có tác động đến phẩm chất, hiệu suất công việc của mỗi cá nhân. Năng
lực thường được đặt vào ba nhóm thành tố chính (KSA) là: kiến thức (knowlege), kỹ
năng (skills)và thái độ (attitudes). Giáo dục, đào tạo và đánh giá dựa trên năng lực
trong du lịch sẽ giúp đảm bảo cho quá trình giáo dục, đào tạo của các trường CĐDL
luôn gắn với thị trường lao động du lịch chất lượng cao. Hệ thống ĐBCL trong các
trường CĐDL cần bao gồm các thành tố cơ bản của mô hình hệ thống quản lý chất
lượng dựa vào quy trình, cụ thể là: yếu tố đầu vào (input), yếu tố quá trình (process)
và yếu tố đầu ra (output). Mỗi quy trình được thiết kế và vận hành theo chu trình đảm
bảo và cải tiến chất lượng liên tục - chu trình PIER (P: Lập kế hoạch; I: Thực hiện;
E: Đánh giá; R: Xem xét hoàn thiện) - được trình bày ở Mục 2.1.5 để hướng tới cam
kết chất lượng của nhà trường và thúc đẩy sự tham gia của mỗi thành viên trong nhà
trường; xây dựng nền văn hóa chất lượng mang đặc trưng riêng của mỗi trường và
cung cấp thông tin về chất lượng của nhà trường một cách đầy đủ nhất, xác thực nhất
cho các bên liên quan.
563
- Thứ hai, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về ĐBCL và năng lực triển khai công
tác ĐBCL cho đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên ở các trường CĐDL:Sau
khi xây dựng được hệ thống ĐBCL, để phát huy hiệu quả của hệ thống trong thực tiễn
nhằm đạt mục tiêu chất lượng đã xây dựng, các trường CĐDL cần làm cho mọi thành
viên của nhà trường, liên quan đến nhà trường (cán bộ, giáo viên, người lao động, học
sinh, sinh viên, người quản lý doanh nghiệp, đối tác…) hiểu đúng và đầy đủ về công
tác ĐBCL của nhà trường; nhận thức đúng vai trò của mỗi cá nhân trong triển khai
công tác ĐBCL của nhà trường. Xây dựng hệ thống ĐBCL là việc khó, nhưng có thể
làm được; vận hành hệ thống ĐBCL còn khó hơn nhiều vì nó làm thay đổi hoàn toàn
thói quen đã ăn sâu trong trong tiềm thức của đội ngũ ở các nhà trường. Do hiểu biết,
nhận thức chưa đầy đủ về ĐBCL, nhiều cán bộ quản lý trong các trường CĐDL còn
thờ ơ, thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan với suy nghĩ “để có đủ theo yêu cầu”,
chưa tích cực động viên, huy động mọi thành viên trong đơn vị mình tham gia vào
quá trình ĐBCL. Không ít giảng viên, sinh viên và nhân viên của các trường CĐDL
lại xem ĐBCL là công việc của nhà quản lý, của bộ phận và nhân viên chuyên trách
về ĐBCL. Do đó, các trường CĐDL cần tăng cường quán triệt nâng cao nhận thức
về ĐBCL cho đội ngũ trong trường - từ ban giám hiệu, trưởng các đơn vị đến giảng
viên, chuyên viên, nhân viên, sinh viên. Mỗi thành viên cần được biết rõ công việc của
mình thế nào là có chất lượng và luôn chủ động, tích cực hoàn thành công việc đạt
hoặc vượt mức chất lượng đó.
Song song với việc nâng cao nhận thức, các trường CĐDL cần đặc biệt chú trọng
nâng cao năng lực về ĐBCL cho đội ngũ của nhà trường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
quản lý và nhân viên chuyên trách về ĐBCL. Chất lượng của lực lượng chuyên trách
và lực lượng phối hợp trong lĩnh vực ĐBCL của mỗi nhà trường quyết định tới chất
lượng, hiệu quả của công tác ĐBCL. Để tạo bước chuyển mới trong công tác ĐBBCL,
nhân lực, đặc biệt là cán bộ quản lý và nhân viên chuyên trách về ĐBCL cần được
nâng cao về năng lực chuyên môn ĐBCL và ngoại ngữ một cách xứng tầm. Chất
lượng đội ngũ nhân lực về ĐBCL có tác động trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả triển
khai hoạt động ĐBCL của nhà trường. Bên cạnh năng lực ngoại ngữ (tiếng Anh) đủ
tốt (tối thiểu tương đương Bậc 3 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt
Nam), đội ngũ chuyên trách về ĐBCL tại các trường CĐDL trong bối cảnh HNQT
cần hội tụ những yêu cầu, phẩm chất và năng lực cốt lõi sau:
(1) Được đào tạo, có kinh nghiệm công tác, được đào tạo hoặc có kinh nghiệm
về ĐBCL, cụ thể: Được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cơ bản về ĐBCL GDNN;
có kinh nghiệm trong lĩnh vực nghề nghiệp hặc GDNN; kinh nghiệm làm việc trong
lĩnh vực ĐBCL hoặc quản lý chất lượng sẽ được ưu tiên; hoàn thành khóa đào tạo
cơ bản theo quy định của cơ quan quản lý GDNN của Việt Nam và của đối tác nước
ngoài...
(2) Phẩm chất và đặc điểm cá nhân, có thể gồm: có thái độ và đạo đức tốt như
công bằng, chân thành, trung thực, kín đáo; cởi mở, có khả năng ngoại giao và khéo
léo trong ứng xử; có óc quan sát và nhậy bén với những bất ngờ xảy ra trong quá trình
564
- thực hiện công tác ĐBCL; có khả năng điều chỉnh nhanh nhạy với tình huống; kiên trì
để đạt mục tiêu của quy trình ĐBCL; quyết đoán, độc lập, tự chủ, giao tiếp hiệu quả...
(3) Kiến thức chuyên môn ĐBCL trong GDNN: Kiến thức về hệ thống GDNN
và khung đảm bảo chất lượn GDNN của Việt Nam và nước, khu vực trường đối tác
hoạt động; hiểu về hoạt động của các loại hình cơ sở GDNN; các nguyên lý, quy trình,
công cụ và phương pháp ĐBCL; thuật ngữ và khái niệm trong ĐBCL; tiêu chuẩn và
tiêu chí ĐBCL GDNN; bộ công cụ ĐBCL GDNN; hệ thống quản lý chất lượng các cơ
sở GDNN; bối cảnh GDNN và nâng cao chất lượng GDNN quốc tế.
(4) Kỹ năng chuyên môn ĐBCL trong GDNN: Kỹ năng áp dụng các nguyên lý,
quy trình, công cụ và phương pháp ĐBCL; kỹ năng áp dụng các chuẩn đánh giá; kỹ
năng lập kế hoạch đánh giá; kỹ năng tổ chức và lập kế hoạch quản lý dự án; kỹ năng
công nghệ thông tin và xử lý dữ liệu; kỹ năng phân tích, giải quyết vấn đề và học tập
thường xuyên; kỹ năng giao tiếp cả khẩu ngữ và bút ngữ; kỹ năng lãnh đạo và hợp
tác với các thành viên; kỹ năng quản lý thời gian và quản lý nhóm; kỹ năng ưu tiên và
tập trung trọng điểm; kỹ năng quản trị xung đột; kỹ năng lưu trữ và báo cáo; kỹ năng
đánh giá tài liệu...
Để nâng cao năng lực về ĐBCL cho đội ngũ, các trường CĐDL cần chủ động
tổ chức các khóa tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về ĐBCL ngắn hạn tại chỗ;
tăng cường tìm kiếm sự hỗ trợ của các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước trong
việc đào tạo, tập huấn kỹ triển khai các mô hình quản trị chất lượng hiện đại; cử cán
bộ, giảng viên, nhân viên đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ về đo lường và đánh giá trong giáo
dục hoặc quản trị chất lượng giáo dục; tích cực tìm kiếm cơ hội hợp tác song phương,
đa phương về nghiên cứu và ứng dụng triển khai các mô hình ĐBCL trên thế giới.
Thứ ba, phát triển văn hóa chất lượng và xây dựng hệ thống thông tin ĐBCL ở
các trường CĐDL:Phát triển VHCL cần được xem là một nhiệm vụ trọng tâm trong
kế hoạch công tác ĐBCL của các trường CĐDL. Với các trường CĐDL, xây dựng và
phát triển VHCL sẽ là cơ sở giúp các nhà trường xây dựng các kế hoạch chiến lược
phù hợp, định hướng rõ ràng và phù hợp với sứ mạng, tầm nhìn và mục tiêu của
mình; đánh giá được vị thế của mỗi nhà trường và đưa ra các chương trình hành
động cụ thể về ĐBCL. VHCL giúp mọi thành viên tuân theo các giá trị, nguyên tắc
và chuẩn mực của mỗi nhà trường với tinh thần tự giác, thái độ hợp tác, trách nhiệm
và chia sẻ. Nhờ vậy, mỗi nhà trường và các cá nhân có khả năng thích ứng với những
thay đổi của bên ngoài, thể hiện rõ cam kết chất lượng với người học, với xã hội. Với
công tác ĐBCL, VHCL đóng vai trò là một trong những thành tố then chốt của hệ
thống ĐBCL trong các trường CĐDL: VHCL quyết định tính bền vững của hoạt động
ĐBCL; VHCL giúp tạo ra bản sắc và sản phẩm riêng của mỗi nhà trường; VHCL đảm
bảo cho mỗi thành viên của nhà trường luôn chủ động, sáng tạo trong mọi công việc
để đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng ở vị trí mình đảm nhận. VHCL có
thể được hình thành nhờ sự gắn kết giữa nhà trường với các bên liên quan; sự bình
đẳng giữa các thành viên trong mối quan hệ công tác; hệ thống thông tin ĐBCL bên
565
- trong nhà trường... Việc xây dựng và phát triển VHCL ở các trường CĐDL có thể
được triển khai qua các bước chính là: (1) xác lập chuẩn chất lượng đạt chuẩn quốc
gia và tiếp cận hoặc đạt chuẩn khu vực/thế giới; (2) triển khai thực hiện; (3) kiểm tra,
đánh giá và (4) điều chỉnh, bổ sung thường xuyên.
Hệ thống thông tin ĐBCL ở các trường CĐDL cần bao gồm cơ sở dữ liệu ĐBCL
(thông tin sơ cấp từ các khảo sát các bên có liên quan; thông tin thứ cấp gồm tất cả
các số liệu thứ cấp của nhà trường như số liệu về học vụ, giảng viên, sinh viên, cơ sở
vật chất, nghiên cứu khoa học, tài chính… và các thông tin liên quan đến hệ thống
ĐBCL) và hạ tầng thông tin (bao gồm: máy móc, thiết bị, phần mềm và công nghệ
phục vụ việc xây dựng, vận hành hệ thống ĐBCL). Khi xây dựng hệ thống thông tin
ĐBCL, các nhà trường cần chú tới một số nguyên tắc: (1) cơ sở dữ liệu mở, có khả
năng mở rộng, cập nhật khi cần thiết; (2) phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác các
thông tin phục vụ quản lý của nhà trường và vận hành hệ thống ĐBCL; (3) ứng dụng
công nghệ thông tin, bảo đảm kết nối với hệ thống thông tin quản lý của cơ quan quản
lý các cấp; (4) phân quyền truy cập hệ thống theo cấp độ quản lý phục vụ việc ra quyết
định quản lý, điều hành các hoạt động ĐBCL.
3. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh HNQT, các cơ sở GDNN du lịch nước nhà đang đứng trước
nhiều sự cạnh tranh gay gắt với các mô hình đào tạo, liên kết đào tạo, du học tại
chỗ…; trong quá trình thay đổi, vươn lên để khẳng định chất lượng; cơ sở GDNN nào
triển khai tốt công tác ĐBCL cơ sở đó sẽ có được thế mạnh và tiềm năng để thẳng tiến
trên con đường hội nhập, vươn đến đỉnh cao chất lượng.
Hiện nay, các trường CĐDL đang có đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên đông
đảo có trình độ, nghiệp vụ, năng lực và đầy tâm huyết với nghề. Học sinh, sinh viên,
học viên của các trường là những người thông minh, năng động đầy hoài bão thực
tế. Thiết nghĩ, các trường CĐDL cần tích cực triển khai công tác ĐBCL, trước hết
xây dựng, hoàn thiện hệ thống ĐBCL trong mỗi nhà trường gắn với xây dựng, phát
triển VHCL. Trong quá trình triển công tác ĐBCL, các trường cần xây dựng khung/
mô hình ĐBCL phù hợp với thực tiễn của mỗi nhà trường trên cơ sở nghiên cứu lý
luận về ĐBCL trong GDNN, nghiên cứu thời cơ, xu thế phát triển của GDNN và
thách thức chính mà HNQT có thể mang lại, tác động tới công tác ĐBCL. Các trường
CĐDL cần tích cực nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các mô hình, phương
pháp, công cụ ĐBCL trong GDNN tiên tiến trên thế giới.
Để triển khai hiệu quả công tác ĐBCL trong các trường CĐDL, mỗi nhà trường
cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trước tiên cần tập trung vào: xây dựng được
hệ thống ĐBCL theo hướng đạt chuẩn chất lượng Việt Nam, tiếp cận hoặc đạt chuẩn
chất lượng khu vực và thế giới, trong đó lấy phương thức giáo dục, đào tạo và đánh
giá dựa trên năng lực làm thành tố cốt lõi giúp gắn kết tốt hơn giữa công tác giáo dục,
đào tạo trong nhà trường với thế giới nghề nghiệp du lịch; tăng cường bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức về ĐBCL và năng lực triển khai công tác ĐBCL cho đội ngũ cán
566
- bộ quản lý, giảng viên, nhân viên với trọng tâm vào năng lực ngoại ngữ (tiếng Anh),
kiến thức và kỹ năng chuyên môn về ĐBCL trong GDNN; phát triển VHCL và xây
dựng hệ thống thông tin ĐBCL tương thích với yêu cầu chất lượng ở từng thời kỳ phát
triển của mỗi nhà trường.
Chất lượng GDNN ở mỗi trường CĐDL là sản phẩm của tập thể, của cả quá
trình, của tổng thể các hoạt động và quy trình liên quan đến chất lượng của nhà
trường. ĐBCL tại các trường CĐDL chỉ bền vững khi được đặt đúng vị trí, nhận được
sự quan tâm, sự tự giác, sự chủ động, sự tích cực của mọi thành viên ở trong và liên
quan tới mỗi nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.Y.Chua, A.W.C. Oreta, R.R.Seva. (2016). Implementing a outcomes-based quality
assurance process for program level assessment at DLSU Gokongwei college of engineering,
Phiippine Journal of Engineering Education, 4 (1), Oct 2016.
2. Khổng Hữu Lực, Phạm Vũ Quốc Bình. (2016). Đảm bảo chất lượng đào tạo tại các cơ sở
dạy nghề trong bối cảnh hiện nay, Tạp chí Giáo dục số 376 (kì 2-2/2016).
3. Nguyễn Đình Phan. (2005). Quản lý chất lượng trong các tổ chức, Nxb Lao động – Xã hội.
4. Nguyễn Trùng Khánh – Tổng cục trưởng Tổng cục du lịch. (2019). Thư chúc mừng, Tạp
chí du lịch, Số tháng 7/2019Trần Khánh Đức (2014), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực
trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục.
5. Nguyễn Quang Việt, Hoàng Ngọc Vinh, Đặng Thị Huyền, Lê Thị Thảo, Britta van Erckelens,
Hoàng Bích Hà, Vũ Minh Huyền. (2018). Thuật ngữ giáo dục nghề nghiệp, Nxb Thanh Niên.
6. Phạm Thành Nghị. (2000). Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb ĐHQGHN.
7. Tổng cục thống kê - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. (2019). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý
II và 6 tháng đầu năm 2019, Báo cáo số 99/BC-TCTK ngày 27 tháng 6 năm 2019.
567
nguon tai.lieu . vn