Xem mẫu
- ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG NHÀ GIÁO
GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Phạm Thị Lan Phượng*
TÓM TẮT:
Bài viết bàn luận về tiêu chuẩn chuyên môn, mô hình đào tạo và phát triển chuyên
môn nhà giáo giáo dục nghề nghiệp (GDNN) ở các nước và từ đó liên hệ với thực tế tại Việt
Nam. Các vấn đề trọng tâm mà Việt Nam có thể thực hiện ngay hoặc trong một tương lai
gần đó là nâng cao năng lực sư phạm dạy nghề thông qua bồi dưỡng nhà giáo, thành lập cơ
sở giáo dục chuyên đào tạo nhà giáo GDNN, tiến tới nâng chuẩn trình độ chuyên môn của
nhà giáo GDNN là có bằng tốt nghiệp đại học trở lên.
Từ khóa: Giáo dục nghề nghiệp, nhà giáo, tiêu chuẩn chuyên môn, đào tạo, bồi dưỡng
nhà giáo
1. Đặt vấn đề
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ngành giáo
dục nghề nghiệp (GDNN) đã chuyển mình cùng các cấp học khác thuộc ngành
giáo dục để tạo ra những thay đổi đáng kể trong thời gian qua. Nhiều văn bản pháp
luật về GDNN đã được ban hành để tạo ra môi trường phát triển thuận lợi hơn
cho khu vực này.
Tuy nhiên, tuyển sinh GDNN trình độ trung cấp và cao đẳng vẫn ảm đạm,
nhiều trường không tuyển đủ chỉ tiêu tuyển sinh. Nguyên nhân của thực trạng này
một phần do chính cơ sở GDNN. Các điều kiện BĐCL đào tạo của một số cơ sở
GDNN còn hạn chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành chưa được chú trọng,
chưa gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp để hỗ trợ người học thực hành, thực tập
và tìm kiếm việc làm, năng lực của một bộ phận đội ngũ nhà giáo không đáp ứng
yêu cầu.
Bài viết này tập trung phân tích về năng lực đội ngũ nhà giáo GDNN, tập
trung vào năng lực chuyên môn và năng lực giảng dạy và không đề cập đến năng
lực ngoại ngữ và tin học. Bài viết bàn luận về tiêu chuẩn chuyên môn, mô hình
đào tạo và phát triển chuyên môn nhà giáo GDNN ở các nước và từ đó liên hệ với
thực tế tại Việt Nam.
* Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh
544
- 2. Tiêu chuẩn chuyên môn như là điều kiện tiên quyết đảm bảo chất lượng
nhà giáo GDNN
Trình độ chuyên môn của một nghề nghiệp quyết định tính chuyên nghiệp
và vị thế của nghề nghiệp đó trong xã hội. Tại nhiều quốc gia, tiêu chuẩn chuyên
môn đối với nhà giáo GDNN thường là không cao bằng so với nhà giáo hàn lâm
và chất lượng nhà giáo GDNN là đang là một thách thức lớn. Quan điểm thắng
thế vẫn là kiến thức và kỹ năng thực tế nên được chuyển giao bởi những người có
nhiều bí quyết hành nghề, ví dụ như công nhân lành nghề, cho các học viên. Do
đó, một thực tế phổ biến diễn ra là học viên đang học trình độ nghề bậc 3 trong cơ
sở GDNN được hướng dẫn bởi người có trình độ nghề bậc 4. Cách thực hành như
vậy không chỉ làm cản trở tính chuyên nghiệp của nhà giáo GDNN mà còn gây ra
hậu quả là nhà giáo không được đào tạo đầy đủ để đáp ứng trình độ cần phải có
(Spöttll, 2009).
Cũng như nhiều nước khác, GDNN Việt Nam nhấn mạnh tới tính thực hành
và lành nghề. Đội ngũ nhà giáo được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như
các trường đại học sư phạm kỹ thuật, các trường cao đẳng sư phạm kỹ thuật, người
có trình độ chuyên môn kỹ thuật được bồi dưỡng kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư
phạm; và một phần không nhỏ từ nguồn công nhân lành nghề được bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm để trở thành nhà giáo; do vậy nên trình độ, năng lực nhà giáo
rất đa dạng và không đồng đều (Viện khoa học GDNN, 2017). Theo Tiêu chuẩn
nhà giáo GDNN ban hành theo Thông tư số 08/2017/TT-BLĐTBXH năm 2017,
đối với giáo viên dạy trình độ sơ cấp yêu cầu về trình độ chuyên môn là có bằng
trung cấp trở lên hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề phù hợp với nghề giảng dạy;
đối với nhà giáo dạy lí thuyết từ trình độ trung cấp tới cao đẳng yêu cầu về chuyên
môn là có bằng tốt nghiệp đại học trở lên; đối với nhà giáo dạy thực hành từ trình
độ trung cấp tới cao đẳng yêu cầu chuyên môn là có chứng chỉ kỹ năng nghề phù
hợp với ngành, nghề giảng dạy. Như vậy có thể thấy là tiêu chuẩn chuyên môn nhà
giáo GDNN Việt Nam là khá thấp, trong khi nhiều nước trong khu vực ASEAN
và láng giềng gần gũi như Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc yêu cầu tiêu chuẩn nhà
giáo GDNN là trình độ đại học trở lên (Paryono, 2015; Grollmann, 2008).
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang dịch chuyển từ một xã hội công
nghiệp sang một xã hội tri thức với các ngành công nghiệp thay đổi với tốc độ
nhanh chóng, nhiều công việc mới và kỹ năng mới xuất hiện. Bản mô tả công việc
và kỹ năng đòi hỏi cho công việc cũng không ngừng phát triển và mở rộng. Vì
thế người lao động cần phải có kỹ năng học tập suốt đời. Học tập trong các cơ sở
GDNN cần phải đi xa hơn học kỹ năng cụ thể của một nghề và cần phải hướng tới
học cách học, hình thành tầm nhìn và tâm thế ứng phó với những thay đổi nhanh
chóng của xã hội. Chính bởi vậy, đội ngũ nhà giáo GDNN cũng cần phải có trình
độ và năng lực tương ứng để có thể trang bị cho học viên một quan điểm về thế
giới việc làm và năng lực học tập suốt đời.
545
- Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương năm 2013 đề ra
nhiệm vụ BĐCL nhà giáo thông qua “chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp
học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo
viên, giảng viên các cơ sở GDNN phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư
phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm”. Ngành giáo dục đã hiện thực hóa chủ trương
này. Trong Luật Giáo dục 2019, chuẩn giáo viên và giảng viên đã được nâng lên, cụ
thể là trình độ chuẩn của giáo viên tiểu học, trung học cơ sở là có bằng cử nhân
thuộc ngành đào tạo giáo viên trở lên; trình độ chuẩn của giảng viên đại học là từ
thạc sĩ trở lên. Để sớm thực hiện hóa chủ trương của Nghị quyết số 29-NQ/TW,
ngành GDNN cần sớm nâng chuẩn nhà giáo, cụ thể: đối với giáo viên dạy trình độ
nghề sơ cấp và trung cấp, trình độ chuẩn cần phải từ đại học trở lên; đối với giảng
viên cao đẳng trình độ chuẩn cần phải từ thạc sĩ trở lên.
3. Mô hình đào tạo nhà giáo giáo dục nghề nghiệp
Grollmann (2009) cho rằng nhìn chung trên bình diện toàn cầu có 2 hai mô
hình tuyển dụng và đào tạo giáo viên đào tạo nghề, gồm (1) mô hình dựa trên
khuôn mẫu tuyển dụng và đào tạo giáo viên hàn lâm và (2) mô hình thường được
gọi là “tuyển dụng thay thế”. Mô hình “tuyển dụng thay thế” tuyển những người
có kiến thức nghề nghiệp cụ thể và kinh nghiệm công việc thực tế làm giáo viên
để truyền đạt lại công nghệ và bí quyết hành nghề cho học viên; đây là những ưu
điểm mà mô hình tuyển dụng giáo viên hàn lâm không có. Thông thường, tiêu
chuẩn bằng cấp giáo viên trong mô hình “tuyển dụng thay thế” sẽ thấp hơn trong
mô hình giáo viên hàn lâm.
Về các chương trình đào tạo giáo viên đào tạo nghề đang được áp dụng tại
các nước, tác giả này cho rằng có 4 kiểu chủ yếu như trình bày trong Hình 1. Một
quốc gia có thể có nhiều kiểu chương trình đào tạo và có một chương trình nổi trội
hoặc điển hình được cho là mô hình.
- Chương trình chỉ đào tạo phương pháp đào tạo nghề: ví dụ như chứng chỉ
đào tạo nghề ở Vương quốc Anh như là một biện pháp chuẩn bị, hoặc các khóa
học tại chức tại Viện đào tạo giáo viên đào tạo nghề Đan Mạch. Mô hình đào tạo
giáo viên đào tạo nghề như thế này thường được kết hợp với mô hình tuyển dụng
giáo viên dạy thực hành trong một số lĩnh vực nghề nhất định. Cần lưu ý là đây là
những tiêu chuẩn chuyên môn riêng cho giáo viên đào tạo nghề; ngoài ra còn có
yêu cầu về chuẩn trình độ học vấn. Mô hình đào tạo chứng chỉ, chứng nhận đào
tạo nghề này phổ biến tại nhiều nước. Một số nước yêu cầu chuẩn trình độ học
vấn của giáo viên đào tạo nghề ít nhất tương đương với giáo viên trung học, tức là
từ trình độ đại học trở lên.
546
- Hình 1. Trình độ chính thức và nội dung của đào tạo giáo viên đào tạo nghề
Nội dung
Trình độ chính thức Đào tạo Kiến thức Lí luận dạy Kiến thức
phương pháp bổ sung nghề tích hợp
Anh, Brazil,
Chứng nhận, chứng chỉ Nhật Bản,
Đan Mạch
Mĩ, Thổ Nhĩ Nga, Na Uy
Đại học
Kì, Pháp Trung Quốc
Thạc sĩ Đức
Nguồn: Grollmann (2009)
- Chương trình đào tạo kiến thức bổ sung: Hay còn gọi là mô hình đào tạo
kế tiếp, được dựa trên chuỗi học tập từ kiến thức chuyên ngành (ví dụ ở bậc đại
học) và sau đó tới kiến thức chuyên môn liên quan đến nghề giáo viên được cung
cấp trong một chương trình học tập được chỉ định. Mô hình này phổ biến ở Mĩ và
Thổ Nhĩ Kì.
- Chương trình đào tạo lý luận đào tạo nghề: Hay còn gọi là mô hình đào
tạo đồng thời cả kiến thức chuyên ngành và khoa học giáo dục để đạt được bằng
đại học hoặc thạc sĩ về GDNN. Thông thường nội dung kiến thức chuyên ngành
được rút gọn hơn so với các chương trình cử nhân kinh doanh hoặc kỹ thuật thông
thường. Một số nước có dạy về lý luận đào tạo nghề.
- Chương trình tích hợp: Dựa vào khái niệm tích hợp kiến thức nghề nghiệp,
theo đó kiến thức chuyên ngành được bắt nguồn từ thế giới việc làm (tức là kiến
thức không phải từ ngành khoa học mà được tích hợp vào quá trình công việc) và
đi kèm với sự phát triển năng lực tương ứng. Mô hình này được gọi là tích hợp vì
nó dựa vào quan niệm hòa nhập giữa học tập và làm việc của một nghề nghiệp.
Kiểu mẫu học nghề hòa nhập được chuyển hóa thành mô hình đào tạo giáo viên
này có thể được nhìn thấy ở trong các cơ sở đào tạo giáo viên miền Bắc nước Đức
và đã xuất hiện trong các chương trình cải cách đào tạo giáo viên đào tạo nghề
ở Na Uy và Trung Quốc. Tuy nhiên, không có quốc gia nào chọn mô hình này là
định hướng chủ đạo.
Nhìn vào Quy định chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo GDNN Việt
Nam và so sánh với các chương trình trong Hình 1 có thể suy luận ra các chương
trình đào tạo nguồn nhà giáo GDNN Việt Nam gồm có:
547
- - Chương trình đào tạo phương pháp dạy học cho giáo viên đào tạo nghề
(chương trình 1) là loại hình phổ biến nhất. Đây là chương trình đào tạo mọi nhà
giáo GDNN phải tham gia để có chứng chỉ yêu cầu;
- Chương trình đào tạo lí luận đào tạo nghề (chương trình 3) cũng được nhìn
thấy tại Việt Nam trong các trường đại học sư phạm kỹ thuật. Đây là chương trình
đã tồn tại trong khứ và sẽ không còn phát huy hiệu quả sau khi chức năng quản lí
GDNN được giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Chương trình đào tạo kiến thức bổ sung (chương trình 2) và chương trình
tích hợp (chương trình 4) chưa thấy tại Việt Nam vì để tổ chức các chương trình
này đòi hỏi một sự liên kết chặt chẽ giữa kiến thức chuyên ngành và kiến thức gắn
với thế giới nghề nghiệp, tức là cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ GD&ĐT và Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội.
Như vậy có thể thấy là mô hình đào tạo nhà giáo GDNN của Việt Nam là đào
tạo phương pháp dạy học (gồm cả đào tạo nghề và dạy học nói chung) cho những
người muốn trở thành giáo viên đào tạo nghề từ nguồn nhân lực đã đáp ứng được
tiêu chuẩn chuyên môn. Nếu Việt Nam giới hạn điều kiện nhập nghề là chứng chỉ
sư phạm đào tạo nghề (không còn chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm) thì mô hình của
Việt Nam là giống với Chương trình 1 như trong Hình 1. Trong tương lai, khi Việt
Nam nâng chuẩn nhà giáo GDNN lên trình độ từ đại học trở lên, cách đào tạo
nguồn nhà giáo GDNN như thế này sẽ vẫn còn phát huy hiệu quả.
Mặc dù Việt Nam đã có các chương trình đào tạo sư phạm đào tạo nghề,
nhưng do chưa có cơ sở giáo dục chuyên về đào tạo nhà giáo GDNN (trong khi
ngành giáo dục có các trường sư phạm chuyên về đào tạo giáo viên, nhà giáo
các cấp) nên có thể nói rằng lĩnh vực khoa học GDNN cũng như phương pháp
sư phạm đào tạo nghề chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Điều này tác động đến
việc thiết kế các tiêu chuẩn trong đào tạo nhà giáo GDNN, chuẩn đầu ra của các
chương trình đào tạo nhà giáo, trong đó có chương trình cấp chứng chỉ đào tạo
nghề đang hiện hữu. Để có được một đội ngũ nhà giáo GDNN được chuẩn bị tốt
hơn về phẩm chất và năng lực phù hợp với ngành GDNN, Việt Nam cũng nên
chú ý tới lĩnh vực sư phạm GDNN và hình thành cơ sở giáo dục đào tạo nhà giáo
GDNN.
IV. BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN LÀ TRỤ CỘT KHÔNG THỂ THIẾU ĐỂ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÀ GIÁO GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Phát triển chuyên môn nghề giáo đòi hỏi nhà giáo phải liên lục trau dồi kiến
thức và kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy, bồi dưỡng thường xuyên được cho là trụ cột
thứ hai trong BĐCL nhà giáo song hành với trụ cột thứ nhất là đào tạo ban đầu.
Theo số liệu của Viện Khoa học GDNN (2017), tỉ lệ nhà giáo có chứng chỉ
548
- kỹ năng nghề là 11.445 người trong tổng số 39.152 nhà giáo, chiếm tỉ lệ 46%. Đặc
điểm của GDNN nghề nghiệp tổ chức hoạt động học tập kiến thức và kỹ năng
ngành, nghề cho học viên thông qua quá trình làm việc trong môi trường công
việc thực tế, vì vậy kỹ năng hành nghề của nhà giáo là rất quan trọng. Ngay cả đối
với nhà giáo dạy lí thuyết, việc đạt các chứng chỉ nghề nghiệp sẽ giúp nhà giáo kết
nối giữa kiến thức lí thuyết và công việc thực tế, giúp học viên mường tượng tốt
hơn về việc vận dụng lí thuyết khi thực hành. Chính vì vậy, bồi dưỡng cho đội ngũ
nhà giáo hiện tại về kỹ năng nghề, tăng tỉ lệ nhà giáo có chứng chỉ kỹ năng nghề là
việc làm cần thiết.
Theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo GDNN, chứng chỉ
nghiệp vụ sư phạm là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, số liệu thống kê năm 2015
cho thấy số nhà giáo có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm là 21.961 người, chiếm tỷ lệ
88,26% (Viện Khoa học GDNN, 2017).
Kết quả đánh giá 4 cơ sở GDNN chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế (của
Vương quốc Anh) cho thấy đội ngũ nhà giáo cần được hỗ trợ để phát triển năng
lực dạy học. Những lĩnh vực mà nhà giáo cần được bồi dưỡng gồm phát triển
chương trình và thiết kế bài học; phương pháp dạy học và sự vận dụng đa dạng
các phương pháp học tập, tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học tích cực,
ứng dụng công nghệ thông tin và các ứng dụng trên thiết bị di động trong dạy học;
dự giờ đồng nghiệp và sinh hoạt tổ chuyên môn (Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp,
2019). Công việc của nhà giáo GDNN đòi hỏi kiến thức và kỹ năng đa dạng có thể
chia thành các mảng gồm:
- Chuẩn bị cho sinh viên về công việc trong tương lai thông qua quá trình hỗ
trợ học tập từ đó dẫn đến hình thành thái độ và năng lực liên quan đến công việc
cũng như vai trò của họ trong xã hội;
- Hỗ trợ quá trình học tập chuyên môn kỹ thuật của sinh viên, việc này đòi
hỏi giáo viên phải tích hợp kiến thức về nội dung môn học với các phương pháp
và hình thức học tập phù hợp;
- Đánh giá quá trình học tập của sinh viên;
- Các nhiệm vụ hành chính liên quan đến tổ chức và triển khai chương
trình giảng dạy;
- Tư vấn cho sinh viên, và cả cho các nhóm đối tượng khác, chẳng hạn
như người sử dụng lao động, người học trưởng thành trong các khóa bồi dưỡng
(Grollmann, 2009).
Để hỗ trợ nhà giáo phát triển chuyên môn, vai trò của lãnh đạo nhà trường là
vô cùng quan trọng trong việc xây dựng môi trường dạy học hướng tới chất lượng
và có cơ chế chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho nhà giáo tâm huyết và có năng lực.
549
- V. KẾT LUẬN
GDNN là một bộ phận rất riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân và gắn
kết rất chặt chẽ với khu vực sản xuất và doanh nghiệp. Đội ngũ nhà giáo GDNN
vì thế cũng có những tiêu chuẩn chuyên môn và nghiệp vụ riêng, đặc biệt là năng
lực tích hợp kiến thức môn học vào quá trình công việc và năng lực đào tạo nghề.
Thực trạng đội ngũ nhà giáo GDNN Việt Nam còn thiếu về số lượng và bất
cập về chất lượng đòi hỏi ngành GDNN phải chú trọng tới bồi dưỡng nhà giáo, đổi
mới đào tạo ban đầu cho nhà giáo cũng như nâng chuẩn nhà giáo GDNN. Các vấn
đề trọng tâm có thể thực hiện ngay hoặc trong một tương lai gần đó là nâng cao
năng lực sư phạm đào tạo nghề thông qua bồi dưỡng nhà giáo, thành lập cơ sở giáo
dục chuyên đào tạo nhà giáo GDNN, tiến tới nâng chuẩn trình độ chuyên môn của
nhà giáo GDNN là có bằng tốt nghiệp đại học trở lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các chủ trương, văn bản chính sách của Nhà nước Việt Nam
2. Grollmann, P. (2008). The Quality of Vocational Teachers: teacher education, institutional
roles and professional reality. European Educational Research Journal, Volume 7 Number 4
2008.
3. Paryono, P.(2015). Approaches to preparing TVET teachers and instructors in ASEAN
member countries. http://www.tvet-asia.info/issue/5/paryono, truy cập ngày 17/8/2019.
4. Spöttll, G. (2009). Teacher Education For TVET In Europe And Asia: The Comprehensive
Requirements. Journal of Technical Education and Training, Vol. 1, No. 1 (2009).
5. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (2019). Khuyến nghị của chuyên gia quốc tế sau đợt đánh
giá 04 trường cao đẳng theo tiêu chuẩn của Vương quốc Anh. http://gdnn.gov.vn/AIAdmin/
News/
6. View/tabid/66/newsid/37098/seo/KHUYEN-NGHI-CUA-CHUYEN-GIA-QUOC-
TE-SAU-DOT-DANH-GIA--04-TRUONG-CAO-DANG-THEO-TIEU-CHUAN-CUA-
VUONG-QUOC-ANH/Default.aspx, truy cập ngày 17/8/2019.
7. Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp (2017). Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam
2015. Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội 2017.
550
nguon tai.lieu . vn