Xem mẫu

  1. CHƯƠNG 2 VĂN BẢN HÓA TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN TRONG SỬ VÀ THẦN TÍCH 1. Truyền thuyết trong sử - niềm tin vào sự huyền diệu có thật Như đã trình bày, bộ phận truyền thuyết thứ nhất có cảm hứng về lịch sử hướng tới mục đích bày tô sự tôn vinh các giá trị truyền thống thông qua các câu chuyện có màu sắc lịch sửằ Điều này bắt gặp ý thức tự tôn dân tộc của các sử gia phong kiến. Chính vì vậy, để bù đắp những thiếu hụt về tư liệu khi chép sử, sử gia phong kiến đã sử dụng truyền thuyết như là một nguồn sử liệu tin cậy. Trong những hoàn cảnh đó, truyền thuyết đã được chép vào chính sử, một loại văn bàn chính trị quan trọng, nơi thể hiện quan điểm chính thống của giai cấp cầm quyền. Ở Chương 1, chúng tôi đã xem xét giá trị sử liệu học từ văn bản truyền thuyết và chi ra những bất cập trong việc sử dụng truyền thuyết với tư cách là một nguồn sử liệu học truyền miệng; đồng thời chi ra những điểm khả thủ trong việc sử dụng nó với yêu cầu sử dụng các phương pháp phân tích đặc biệt với một độ thận trọng cần thiết. Ở đây xin đi từ một xuất phát điểm khác, đó là văn bản sử. Lấy văn bản sử để khảo cứu, chúng tôi muốn tìm hiểu hai mặt: sử đã sử dụng truyền thuyết như thế nào và truyền thuyết đã biến đồi sử như thế nào trong các bộ sử trung đại. Xin dừng lại một chút ở giới hạn tư liệu. Theo Lê Quý Đôn, tác phẩm sử học gồm hai loại: thể biên niên và thể kỉ truyện1 còn có một loại nữa là chí. Ờ đây, chúng tôi chỉ giới hạn sự khảo sát trong phần sử biên niên và chọn hai bộ sử lớn nhất của thời trung đại để 1. Lê Quý Đôn toàn tập , tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, H. 1987. 123
  2. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA . khảo sát, đó là Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Ngoài ra, những tác phẩm khác chỉ dùng đê tham khảo, so sánh trong khả năng có thể. i . / ỆSử hóa truyền thuyết - tình thần dân tộc và phương châm - dĩ nghi truyền nghi Dùng truyền thuyết dân gian như một nguồn sử liệu, có thể nói, đó là hiện tượng phổ biến của các bộ sử thời trung đại. Chẳng hạn ở Trung Quốc, một nước láng giềng có nhiều mối giao thoa lớn về lịch sử và văn hóa với Việt Nam, mối liên hệ giữa truyền thuyết với sử khá đặc biệt. Là một nước sớm có chữ viết, người Trung Quổc đã ghi lại được lịch sử của mình ngay từ rất sớm bằng văn tự. Mốc thời gian ấy được các nhà nghiên cứu gọi là thời đại lịch sử, còn trước đó thì được gọi là thời đại truyền thuyết. Thời đại truyền thuyết ở Trung Quốc được nhận thức như sau: "Lịch sử của bất cứ một dân tộc nào khi bắt đầu toàn là những sự kiện mông lung, nhiều mâu thuẫn. Đó là tình hình chung và không có cách nào khắc phục được của lịch sử các dân tộc. Nhưng sau khi đã nói xong mọi câu chuyện truyền thuyết, vô luận thế nào, những truyền thuyết rất xa xưa đó về mặt lịch sử mà nói, đều có những yếu tố và hạt nhân đáng kể, chứ không phải bịa đặt hoàn toàn"1. Một nhận thức như vậy là chung cho nhiều dân tộc, song điều đáng nói ở đây là, ở Trung Quốc, vị trí của nguồn sử liệu truyền thuyết không được đề cao. Tác giả Lịch sử truyền thuyết Trung Quốc đã viết: "Sử liệu của thời đại truyền thuyết và sử liệu của thời đại lịch sử có nhừne điểm chủ yếu khác nhau vì tính chất đáng tin cậy của sử liệu trước kém tính chất đáng tin cậy của sử liệu sau" [Lịch sử truyền thuyết Trung Quốc, tr.4]. Và nguyên nhân của tình trạng đó đã được các nhà nghiên cứu tổng kết như sau: "Trước kia, nước ta chia sách vờ ra thành 4 loại lớn: Kinh, Sử, Từ, Tập. Trừ Tập là bộ sách khôns có quan hệ gì lắm đến cổ sử thì uy quyền cao nhất là Kinh, sau đó là chính sử. Còn như các pho sách Chư Tử của Tiên Tần, Lưỡng Hán 1. Lịch sứ truyền thuyết Trung Quốc, Tư liệu dịch từ tiếng Trung Quốc. Thư viện Viện Văn học, tr.3. 124
  3. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian.. có giữ được một số tài liệu cổ sử nhưng phải đem tiêu chuẩn kinh và chính sử để quyết định bỏ đi hay sử dụng những tư liệu đó, có nghĩa là, phù hợp với kinh sử là chân, không phù hợp với kinh sử là ngụy" [Lịch sử truyền thuyết Trung Quốc, tr.6]. Đối với lịch sử Trung Quốc, những truyền thuyết được đưa vào địa vị Kinh là Tam hoàng, Ngũ Đe. Ngoài ra, hầu hết những truyền thuyết khác đều bị rơi rụng và khô héo dần. Tác giả cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc nhắc đến tình trạng trọng kinh sử như sau: "Sách vở thời xã hội nô lệ Trung Quốc bảo tồn không được nhiều, ngoài Kinh Thi ra, chỉ còn một ít chương đoạn trong Dịch Quái Hào Từ... Cũng còn một ít tư liệu lịch sử nhưng đều qua bàn tay gia công của người đời sau. Thời bấy giờ học vấn ở nhà quan, không có trước thuật tư nhân mà các sử quan lại chỉ chú trọng ghi chép sự thật nên thần thoại và truyền thuyết không được coi trọng"1. Đến đầu thế kỉ XX, phái "nghi cổ" trong sử học xuất hiện đã dám đụng đến uy quyền tối thượng của Kinh và cố gang dựng lại thời đại truyền nghi từ thời khai thiên lập địa đến thời Tây Chu qua các tư liệu truyền thuyết. Họ còn bày tỏ sự nghi ngờ về độ tin cậy của nhiều tư liệu được chép trong Kinh, cho ràng đó là những tư liệu bịa đặt của các học thuyết gia thời Xuân Thu - Chiến Quốc [Lịch sử ừuyền thuyết Tning Quốc, tr. 18]. Họ cho rằng, ở đẩt nước chịu ảnh hườns sâu sẳc của ý thức hệ Nho giáo này, việc đề cao Kinh, Sử, Tử, Tập đã hạn chế việc ghi chép truyền thuyết; thậm chí, thần thoại, truyền thuyết nhiều khi còn bị bóp méo, xuyên tạc. Hai ví dụ thường hay được dẫn ra: một là việc giải thích của Khổng Tử về nhân vật thần thoại có tên Hoàng Đe. Theo thần thoại, Hoàng Đe là một vị thần có 4 mặt để trông coi 4 phương được Khổng Tử giải thích rằng, Hoàng Đế đã phái 4 người đi trị vì 4 phương. Ví dụ thứ hai là cách giải thích của Khổng Tử về hình ảnh thần thoại "Quỳ nhất túc" tức con Quỳ có một chân. Ông đã bác bỏ sự hoang đường đê giải thích là, con Quỳ hung ác chỉ cần có một điểm khả thủ đó là việc giữ chừ tín là đủ2; 1. Nhiều tác giả, Lịch sư văn học Trung Quốc, Bấc Kinh, Bản tiếng Việt do nhiều người dịch. Tập 1, Nxb. Giáo dục, H. 1997. 2. Nhiều tác giả, Lịch sư văn học Trung Quốc, Bắc Kinh, Bản tiếng Việt do nhiều người dịch, Tàp 1. Nxb. Giáo dục, H. 1997, 700 tr. 125
  4. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA . hay Quỷ đã biến thành một nhạc quan của vua Thuấn và người như Quỳ chỉ cần một là đủ1. Giải thích tình trạng mất mát thần thoại Trung Quốc, Lỗ Tấn viết: "Khổng Tử ra đời, lấy những điều thực dụng sửa mình, yên nhà, trị nước, bình thiên hạ làm giáo lý, không muôn nói việc quỷ thần, những thuyết hoang đường thời thái cổ đều là những điều nhà nho không muốn nói, cho nên về sau, chẳng những không làm gì được cho sáng sủa lớn lao thêm mà còn để cho tản mác, mất mát đi nữa" [Lồ Tấn: Lịch sử tiếu thuyết Trung Quốc, 1928]. Nhưng lịch sử Trung Quốc vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với truyền thuyết mà sự xuất hiện của các ông vua truyền thuyết là Nghiêu và Thuấn, rồi xa hơn là Tam Hoàng, Ngũ Đế... Những vị này đã được đưa vào Kinh Thư, chiếc cầu nối thời đại truyền thuyết với thời đại lịch sử theo quan niệm của người Trung Quốc. Quyền uy của các ông vua này lớn đến mức họ trở thành biểu tượng về một xã hội lý tưởng, thành một chuẩn mực để "đo" các ông vua ở thời đại sau. Như vậy, dù ý thức, dù không thì truyền thuyết vẫn vào lịch sừ theo những con đường riêng của mình, thậm chí có khi còn hòa tan vào lịch sử đến mức khó nhận ra. Khảo sát sự chuyển hóa qua lại giữa truyền thống văn học dân gian và anh hùng ca qua bộ Tam quốc chí, tác giả B.L.Riftin cho ta biết một sự thực khác xa với những tổng kết có tính chất giáo điều của Nho giáo. Ông đã nhìn thấy mối giao thoa giữa lịch sử và truyền thuyết như sau: "Tuy miêu tả cùng một biến cố như sử gia chính thức, truyền thuyết dân gian lại cấp cho chúng một cách thuyết minh khác, bàng cách xây dựne một cách khác những hình tượng của các nhân vật này. Những sự khác nhau này là bị quy định phần lớn bởi những sự khác nhau có tính nguyên tắc về hệ tư tưởng, lập trường của những sử gia ở triều đình với lập trường của những người kể chuyện dân gian, bời việc họ chọn để miêu tả những khía cạnh khác của cùng một biến cố lịch sừ như nhau, cũng như bởi phương thức miêu tả nhằm phản ánh nhửne tình huống thẩm mĩ khác nhau về nguyên tấc của sáng tác truyền miệne và sáng tác thành văn. Và những cái này cũng quy định cả nhừn2 sự 1. Viên Kha. Thần thoại cổ đại Trung Quốc, Thượng Hài, Kiều Thu Hoạch dịch, Tài liệu đánh máy, Thư viện Viện Văn học, 1957, 178 tranơ. Ký hiệu DL/77. 126
  5. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian.. khác nhau có tính thuần tuý thể loại so với sự miêu tả lịch sử chính thức các triều đại. Song bên cạnh đó, lịch sử Trung Quốc bao giờ cũng tích cực sử dụng những truyền thuyết truyền miệng, và truyền thống truyền miệng dễ dàng tiếp nhận những biện pháp của văn xuôi lịch sử đến cả những vay mượn có tính chất văn bản"1. Nhận xét của B.L.Riftin đã đề cập đến việc phản ánh lịch sử của truyền thuyết và sử như là hai loại hình tư duy khác nhau, đồng thời, ông cũng nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa hai hình thức phản ánh này. Sự khái quát này của B.L.Riftin được dựa trên sự khảo sát nhiều bộ sử Trung Quốc từ thế kỉ III đến thế kỉ XII. Điều này cho thấy quá trình thẩm thấu tự nhiên của truyền thuyết vào lịch sử cũng như xu hướng sử dụng truyền thuyết vào lịch sử thường thấy ở nhiều nước. Ờ Nhật Bản, một đất nước có chữ viết khá muộn (thế kỉ VII, người Nhật mới dùng chữ Hán để ghi âm Nhật) thì vai trò của sử liệu truyền miệng là khá lớn. Trong những bộ sử đầu tiên được soạn thào theo sắc lệnh của nhà vua là bộ Kojiki (Co sự ký - 712), và bộ Nihongi (Nhật sử: 720), truyền thuyết truyền miệng được sử dụng rất rộng rãi. Theo Konrat, chủ đề mà các truyền thuyết tập trung sử dụng trong Kojiki là chủ đề xây dựng đất nước. Chủ đề này xâu chuỗi một hệ thống lớn các truyền thuyết dân gian có pha sắc màu thần thoại lẫn cổ tích: Từ các vị thần trong sự phân chia trời đất ở "cõi hồn mang buổi đầu", đến việc miêu tả các vị anh hùng bộ lạc, anh hùng dân tộc trong việc chọn đất và xây dựng cung điện, sự đấu tranh với kẻ thù để xác lập sự tồn tại của bộ lạc mình, cho đến các dũng sĩ chiến đấu với xà tinh..ắ Là một bộ sừ sớm nhất của Nhật Bản phản ánh lịch sử Nhật Bản từ cổ đến năm 720, Kojiki đã xâu chuồi các truyền thuyết để dựng lại thời cổ sử xa xưa của dân tộc. Đồng thời, các sử gia Nhật Bản đã đặt thần thoại truyền thuyết vào cái phông biên niên sử để khẳng định lịch sử dài lâu của dân tộc. Tác giả N.I.Konrat đã viết: "Mặc dầu không còn hồ nehi về việc những tư liệu thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ trong Kojiki và Nihongi thuộc về thời cổ đại rất có thể kéo dài đến những thế kì IV - thê ki VI thì trong những công trình này, 1 B.L.Riftin, Sừ thi lịch sứ và truyền thống văn học dàn gian Trung Quốc, Phan Ngọc dịch, Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2002. 127
  6. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA ằ chúng đã đượe hệ thống hóa, được đặt trên môt cái phông biên niên sử và được sửa chữa theo cái nhìn của một học thuyết chính trị nhất định. Trong việc khai thác những tư liệu khác nhau và sửa chữa nó đêu thấy sự hòa quyện của hai yếu tố khác biệt nhau: tư liệu nguyên gốc và sự võ đoán trong sáng tạo của người biên soạn"1 [N.I.Konrad: bản dịch, tr.30]. Sử dụng thần thoại và truyền thuyết trong việc biên soạn Kojiki, ngoài những lý do như cần bổ sung vì sự khuyết thiểu tư liệu xác thực lịch sử và thực trạng của tình trạng văn - sử - triết bất phân thời trung đại, còn một lý do nữa là các sử gia đã dùng truyền thuyết để đề cao vương quyền. Đe phục vụ mục đích này, các sử gia đã thấm nhuần tư tưởng sắp xếp truyền thuyết theo những khuôn mẫu chẳng những cho hiện tại mà còn với mục đích làm chuẩn mực cho việc trị nước đời sau. Tác giả E.D.Saunders khi nghiên cứu Thần thoại Nhật Bản đã chỉ ra rằng: "Mục đích của những người sưu tập là ca ngợi nhà vua và xây dựng cơ sở vững chắc cho cao vọng của các triều đạiỂVì thế, các huyền tích chép trong Kojiki bị sửa chữa rất nhiều để phục vụ cho mục đích thống nhất quốc gia. Các tác giả này quan niệm rằng, lịch sử là cơ sở của hành động, đồng thời là mẫu mực cho hiện tại. Như vậy, Kojiki là một tuyển tập những huyền tích được đánh giá là xứng đáng truyền lại cho thế hệ sau"2. Do đó, "dù cho trong Kojiki, quá trình lịch sử có thể bị thể hiện sai lệch, các tài liệu có thể bị bóp méo khi sử dụng, nhiều yếu tố vốn độc lập đã bị nối kết một cách võ đoán, nhưng điều này đã được làm một cách thông minh, khéo léo, chứng tỏ tài năng văn học to lớn của tác giả xét từ chính khả năng có thể và yêu cầu giải quyết những nhiệm vụ mà thời đại đặt ra" [N.I.Konrad: bàn dịch, tr.83]. Cách làm đó trong Kojiki có lẽ cũng có nhiều nét tương đồng với việc chép truyền thuyết vào sử ở các nước khác, đó là "nổi dài 1. N.I.Konrad, Văn học Nhật Bàn từ cổ đến cận đại, Trịnh Bá Đĩnh dịch, Nxb. Đà Nang, 1997, tr.30. 2. E.D.Saunders, Thần thoại Nhật Bàn, Nguyễn Từ Chi dịch từ bàn tiếng Pháp: "Thân tỉĩoại miền thảo nguyên, miền rừng và miên hài đào", Paris, 1963. Tài liệu đánh máy, Thư viện Viện Văn học, 29 tr., Ký hiệu D L /2 51. 128
  7. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian.. đường dây phả hệ từ các thần linh, qua các tù trưởng bộ lạc tới các vị vua như là biểu hiện của sự thống nhất và coi việc điều hành đất nước của các vị vua như là sự thực hiện ý chí của các thần linh" [NếI.Konrad: bản dịch, tr.82]. Cũng vậy ở Nga, "các truyền thuyết riêng lẻ đã được kể lại bởi những nhà chép sử đầu tiên mà đối với họ (cũng như các nhà chép sử của các dân tộc khác) truyền thuyết đã trở thành những cứ liệu quan trọng cho việc viết sử"1. Vào các bộ biên niên sử chính thống, truyền thuyết dân gian Nga có áp lực rất mạnh đến những sự kiện lịch sử chính xác khiến màu sắc truyền thuyết trong chính sử là rất rõ. Khảo cứu về thời giạn nghệ thuật trong biên niên sử Nga, tác giả A.X.Likhatrop viết: "Các biên niên sử Nga là một thao trường đồ sộ của cuộc đấu tranh giữa hai quan niệm đối lập nhau về thời gian. Một bên là thời gian sử thi, trước khi cỏ văn tự, và một cái nữa mới hơn, phức tạp hơn, thống nhất tất cả những điều xảy ra thành một thể thống nhất lịch sử nào đó và phát triển do ảnh hường của những quan niệm về lịch sử Nga và lịch sử thế giới, xuất hiện với sự hình thành nhà nước Nga thống nhất, nhận thức được vị trí của nó ở trong lịch sử thế giới, trong các nước trên thế giới" [D.XửLikhatrop, tài liệu đã dẫn, tr.74]. Còn ở Việt Nam, chính sử đã sử dụng truyền thuyết như thế nào? Bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, bộ Đại Việt sử ký do sử thần Lê Văn Hưu (1230-1322), giám tu phụ trách Quốc sử viện đời Trần Thánh Tông (1258-1278), chép từ Triệu Vũ Đế (207-136 TCN) đến Lý Chiêu Hoàng (1224-1225), hoàn thành năm 1272. Đến năm 1445, quan tu sử Quốc sử viện đời Lê Nhân Tông (ở ngôi 1441- 1459) là Phan Phu Tiên (1370-1482) đã kế tục bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu chép tiếp từ đời Trần Thái Tông đến khi người Minh về nước trong bộ sử có tên là Đại Việt sử ký; bộ sử này hoàn thành vào năm 1445. Năm 1479, Ngô Sĩ Liên (?-?), sử quan Quốc sử viện đời Lê Thánh Tông (ở ngôi 1460-1497), soạn xong Đại Việt sử ký toàn thư. Để soạn bộ sử này, Ngô Sĩ Liên cho biết là đã 1. V.K.Xocolova, Truyền thuyết lịch sử Nga, Nxb. Khoa học, Maxcova (bản tiếng Nga), 1970, tr.3. 129
  8. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA. "lấy hai bộ sách của tiên hiền ra, hiệu chính biên soạn lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ”, chép lịch sử từ họ Hồng Bàng đến hết đời An Dương Vương. Với quyển Ngoại kỷ, Ngô Sĩ Liên đã có một đóng góp hết sức đặc biệt vào việc chép sử của nước nhà. "Đây được coi là một cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên. Với phần bồ sung này, thời đại mở nước còn mang tính chất nửa huyền thoại, nửa lịch sử bao gồm các đời Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Hùng Vương - An Dương Vương lần đầu tiên được đưa vào quốc sử"’ . Là một nhà Nho, thấu triệt tư tưởng "kính quỷ thần nhi viễn chi", "bất ngừ quái, lực, loạn, thần" (Luận Ngữ), nên khi chép một thời đại truyền thuyết vào chính sử, Ngô Sĩ Liên không khòi băn khoăn. Nhưng ông đã dũng cảm sử dụng phương châm "dĩ nghi truyền nghi" để thêm phần Ngoại kỷ vào trước bộ sách của hai tiên hiền. Vấn đề mà Ngô Sĩ Liên phải đối mặt với công việc này là: lựa chọn và sử dụng nguồn sử liệu nào? Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, từ tự phát đến khi thành một ngành khoa học, sử liệu học luôn luôn phải đương đầu với câu hỏi đó. Nhà sử liệu học người Đức Sigurd Schmidt đã nói rằng: "Sự định nghĩa nguồn tư liệu lịch sử bao giờ cũng làm nổ ra những cuộc tranh luận khoa học" [Sigurd Schmidt: bản dịch 1985]. Và chính ông đã đề xuất một giới hạn rất rộng của sử liệu, tương đương với thực tại thậm chí còn rộng hơn thực tại vì nó còn bao gồm cả lĩnh vực tưởng tượng của con người. Ông viết: "Chúng tôi cho rằng, người ta sẽ có lợi nếu coi nguồn tư liệu lịch sử không chi bao gồm những phản ánh trực tiếp quá trình lịch sử (những kết quả hoạt động của con người) mà cả toàn bộ những cái gì giúp naười ta hiểu biết quá trình lịch sử trong tính đa dạng toàn diện của nó. Nguồn tư liệu lịch sử tồn tại một cách độc lập với các nhà sử học và chỉ trở thành chính thực là nguồn tư liệu khi nó là đổi tượne của một sự nghiên cứu đặc biệt. Do đó, sẽ là logic khi dự kiến trone sự xếp loại một phạm trù là nguồn lịch sử tiềm tàng (hay "tiêm nguồn") [Sigurd Schmidt: bản dịch 1985]. Chính vì xu hướng mở rộng giới 1. Phan Huy Lê, "Đại Việt sử ký tocm thư: Tác già - Văn bàn - Tác phàm". Bài giới thiệu cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, H. 1993. tr.23. 130
  9. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian. hạn của sử liệu này mà trong giới sử học đã xảy ra nhiều tranh luận. Sau nhiều bàn luận, các nhà sử liệu học trên thế giới đã thống nhất có 6 nguồn sử liệu được công nhận: sử liệu chữ viết, sử liệu vật chất, sử liệu tượng hình, sử liệu ngôn ngừ, sử liệu dân tộc học, sử liệu truyền miệng như đã nói ở Chương 1. Ở Việt Nam, độ tin cậy của các nguồn sử liệu này rất hay được đặt ra để thảo luận, đặc biệt khi nghiên cứu về giai đoạn cổ sử. v ề các nguồn sử liệu giai đoạn này ở Việt Nam, nhà sử học Phan Đại Doãn đã có ý kiến: "Một trong những đặc điểm nổi bật của các nguồn sử liệu ở Việt Nam là càng về các thời kỳ lịch sử xa xưa thì sử liệu chữ viết càng hiếm, mặc dù ở nước ta, văn tự được dùng khá sớm. Vào những thế kỉ trước Công nguyên, nước ta chưa có văn tự riêng (hoặc nếu có thì ngày nay cũng chưa tìm được). Những ghi chép sau này về lịch sử Việt Nam thời đó tất nhiên phải dựa vào truyền thuyết. Cả một thời kỳ dài của lịch sử dân tộc ta từ thế kỉ I đến thế kỉ X chỉ được ghi lại sơ lược trong một số sách do người Trung Quốc biên soạn theo quan điểm của kẻ thống trị ngoại bang, không những thiếu chính xác mà còn đầy rẫy những sự kỳ thị xuyên tạc có dụng ý MlẾ Những quan điểm về sử liệu nói trên chắc cũng là những vấn đề mà Ngô Sĩ Liên phải đương đầu khi tiến hành công việc của mình. Ta có thể thấy sự thận trọng của Ngô Sĩ Liên trong phần Phàm lệ về việc biên soạn sách Đại Việt sử ký toàn thư như sau: "Sách này làm ra gốc ở hai bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và của Phan Phu Tiên, tham khảo thêm Bắc sử, dã sử, các bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền lại rồi khảo đính, biên tập mà thành" [£)ạ/ằ Việt sử ký toàn thư, sđd, trể103]. Cũng trong phần này, ông có nhắc tới chủ trương của vua Lê Thánh Tông: "Hoàng thượng trung hung cơ nghiệp, sùng Nho, trọng đạo, chăm sóc sách vở, khảo xét văn chương, khoảng năm Quang Thuận (1460-1469), xuống tìm các dã sử và các truyện ký xưa nay do tư nhân cất giữ đều ra lệnh dâng cả lên để sẵn tham khảo". Như vậy, ngoài những nguồn sử 1. Nguyễn Xuân Thâm, Phan Đại Doãn, " v ề vấn đề phân loại các nguồn sử liệu Việt Nam", Tạp chí Nghiên cicu Lịch sir, sô 6/1985. 131
  10. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA. liệu khác, ta có thể thấy dã sử, truyện ký xưa nay, những việc nghe thấy truyền lại mà Ngô Sĩ Liên nói đến chính là truyền thuyết dân gian. Sau Đại Việt sử ký toàn thư 32 năm, vào năm 1511, Sừ quan Đô tổng tài Vũ Quỳnh (1452-1516) biên soạn xong bộ Đại Việt thông giám thông khảo, trong đó, "thời đại truyền thuyết" tiếp tục được thể hiện trong phần Ngoại kỷ. Năm 1665, Phạm Công Trứ (1600-1675) và nhóm cộng sự đã khảo lại sử cũ, tham khảo các tài liệu khác để biên soạn tiếp bộ quốc sử và đến năm 1697 (năm Chính Hòa thứ 18), bộ Đại Việt sử ký toàn thư do Lê Hy (1646- 1702) và các cộng sự biên soạn đã hoàn tất và lần đầu tiên được khắc in toàn bộ. Sau Đại Việt sử ký toàn thư, bộ sử lớn thứ hai của nước ta là Khâm định Việt sử thông giảm cưomg mục do Quôc sử quán triều Nguyễn biên soạn (bắt đầu năm 1856 và khẳc in năm 1884) cũng chép phần Ngoại kỷ. Phần này có tham khảo các bộ sử cũ, cụ thể là Đại Việt sử ký toàn thư cùng một số sách khác của Trung Quốc. Trong phần tiếp theo của cuốn sách này, hãy thử xem phần Ngoại kỷ, với sự khởi sự của Ngô Sĩ Liên qua bàn tay nhuận sắc của Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy trong Đại Việt sử kỷ toàn thư và phần Ngoại kỷ trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục, truyền thuyết đã được sử dụng như thế nào. Để tiện phân tích nguồn sử liệu học truyền miệng được sử dụng trong Ngoại kỷ, chúng tôi chia thành hai giai đoạn: giai đoạn dựng nước, còn gọi là thời tiền sử và sơ sử (từ thời viễn cổ đến sự thất thủ của An Dương Vương) và giai đoạn Bắc thuộc (từ kỷ nhà Triệu 207 TCN đến hết kỷ nhà Ngô 967). Trước hết, về thời tiền sử và sơ sử có thể thấy rằng, Ngô Sĩ Liên đã sử dụng nguồn sử liệu duy nhất là truyền thuyết. Mở đầu phần Ngoại kỷ của Đại Việt sử ký toàn thư là kỷ Hồng Bàng Thị, gôm 3 mục: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Nội dung của kỷ này hoàn toàn là thần thoại và truyền thuyết. Chép các thần thoại truyền thuyết vào đây, Ngô Sĩ Liên đã thận trọng đặt câu hỏi: "Nói 50 con theo mẹ về núi, làm sao biết không phải là như thế?" 132
  11. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian.. và nêu quan điểm của mình: "tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ mà thôi". Dù thận trọng và nghi ngờ, sử gia vẫn dùng truyền thuyết để bù đắp vào chồ khuyết thiếu tư liệu với mong muốn viết về lịch sử dân tộc ở một giai đoạn hoàn toàn khuyết sử. Nhìn từ góc độ sử liệu học, để tìm được "cái lõi" như đề xuất của các nhà nghiên cứu (Kiều Thu Hoạch: 1971; Hà Văn Tấn: 1999) từ các ghi chép về Kinh Dương Vương, Hùng Vương, An Dương Virovg, thì cần phải dựa trên sự phân tích kỹ lưỡng của nhiều ngành nghiên cứu; tuy nhiên, nhìn từ góc độ văn học dân gian thì có thể thấy, nhờ việc "truyền lại sự nghi ngờ" của Ngô Sĩ Liên mà những truyền thuyết dân gian đã thoát khỏi tình trạng nôm na nơi bia miệng để được lưu giữ những thông điệp tàng ẩn mà tiền nhân muốn gửi cho hậu thế. Một vấn đề nổi lên trong phần Ngoại kỷ là vấn đề Hùng Vương. Hoàng Hưng khi nghiên cứu về thời đại Hùng Vương đã nhận định: "Vấn đề thời đại Hùng Vương là một vấn đề quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các nhà sử học phong kiến khi viết lịch sử dân tộc ta không thể bỏ qua được thời đại Hùng Vương, v ấn đề thời đại Hùng Vương đã hầu như trở thành cái nút của lịch sử cổ đại Việt Nam. Không cởi được cái nút ấy thì thật khó mà giải quyết thỏa đáng các vấn đề khác trong lịch sử cổ đại của dân tộc Việt Nam"1. Ông cho ràng, tài liệu Trung Quốc xưa nhất chép về Hùng Vương là những bộ sách trong Nhị thập tứ sừ có niên đại đầu Công nguyên như: Sừ ký, Tiền Hán thư, Hậu Hán thư... Còn ờ Việt Nam, theo các tài liệu thư tịch hiện còn, những ghi chép về đời Hùng Vương được xuất hiện sớm nhất là hai bộ sách có từ thời Trần là Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái. Nhưng đến Đại Việt sử kỷ toàn thư ra đời năm 1479 thì Hùng Vương với tư cách là một triều đại, kế tục các triều đại trước mới được chép vào chính sử, lấp đầy khoảng trổng trong cổ sử Việt Nam. về đời An Dương Vương, truyền thuyết dân gian vẫn tiếp tục được các sử gia sử dụng khi biên soạn lịch sử giai đoạn này. Hai sự 1. Hoàng Hưng, "Thời đại Hùng Vương trong thư tịch xưa", Tạp chí Nghiên círu Lịch sử số 123.6/1969. 133
  12. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VẢ VIỆC VĂN BẢN HÓA . kiện được sử dụng là "xây thành" và "chế nỏ", về việc xây thành, Đại Việt sử ký toàn thư đã sử dụng toàn bộ truyền thuyết dân gian kể về quá trình xây dựng ngôi thành "hình con ốc", "rộng nghìn trượng" với các chi tiết "thành xây xong lại đổ", "rùa vàng giúp trừ yêu khí của quỷ để xây thành" và việc "rùa vàng cho lẫy nỏ đê làm Linh quang kim trảo thần nỏ" để giữ nước. Trong phần này, sử đã chép tên của Cao Lỗ, người chế nỏ thần và cả việc ông hiện lên trong giấc mơ của Cao Biền hơn mười thế kỉ sau đó. Các truyền thuyết về sức mạnh của nỏ thần, việc Trọng Thủy ở rể và đánh tráo lẫy nỏ, chuyện Mỵ Châu rắc lông ngỗng trên con đường theo cha trốn chạy, chuyện An Dương chém Mỵ Châu rồi "cầm sừng tê bảy tấc đi xuống biển", chuyện Trọng Thủy ôm xác Mỵ Châu đem chôn ở Loa Thành, xác Mỵ Châu hóa thành đá ngọc, chuyện Trọng Thủy nhảy xuống giếng chết và chuyện "ngọc trai - giếng nước" đều được chép vào sử thành một truyện kể khá trọn vẹn. Bên cạnh đó, truyền thuyết về Lý Ông Trọng có tầm vóc khổng lồ đã giúp Tần Thủy Hoàng đánh đuổi Hung Nô, sau được lập đền thờ cũng được chép vào sử giai đoạn này. Ở phần lời bình, Ngô Sĩ Liên đã tỏ ý nghi ngờ về những truyền thuyết trên; ông đã đặt đi đặt lại các câu hỏi để xét đoán tính xác thực lịch sử (một hình thức "phê phán trong" đối với độ tin cậy của sử liệu) và để ngỏ câu trả lời. Sự nghi vấn này sẽ được bộc lộ mạnh mẽ hơn ở cuốn Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ. Giải thích việc sử dụng truyền thuyết trong sử giai đoạn này phải căn cứ vào tư tưởng thời đại, chính sách của một vương triều đã được cụ thể hóa ở chỉ dụ của nhà vua và việc làm của Quốc sử quán triều Lê. Sau cơn binh lửa tàn khốc của giặc Minh, thư tịch nước ta rơi vào trạng thái tiêu điều: thứ thì bị đốt cháy, thứ thì bị mang về Trung Quốc. Trong cuộc chấn hưng đại định, dân tộc cần phải bắt tay vào gây dựng lại vốn liếng thư tịch của một quốc gia văn hiến. Việc tổ chức biên soạn một bộ chính sử bề thế nằm trong chủ trương đó. Bên cạnh đó, có thể thấy, sự ra đời của bộ sư. đặc biệt là phần Ngoại kỷ với mục đích nối dài quốc thống đã phần nào thể hiện nhận thức về sự hình thành dân tộc của các sử eia phong kiến. 134
  13. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian... Vấn đề sự hình thành của dân tộc Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong hơn một nửa thế kỉ qua. Trong giai đoạn đầu của những tranh luận này, các nhà nghiên cứu đã sử dụng định nghĩa của J.v.Stalin về sự hình thành dân tộc như sau: "Dân tộc là một cộng đồng người, cộng đồng ấy đã ổn định, kết hợp trong quá trình lịch sử và trên cơ sở của cộng đồng ngôn ngữ, cộng đồng lãnh thổ, cộng đồng sinh hoạt kinh tế và cộng đồng tâm lí, thể hiện trong sự cộng đồng về văn hóa"'ệ Soi những đặc điểm ẩy vào Việt Nam, căn cứ vào sự lớn mạnh về ý thức dân tộc, sự ổn định về nhiều mặt, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của xã hội Việt Nam ở giai đoạn này, tác giả Đào Duy Anh (1904-1988) cho rằng, dân tộc Việt Nam đã được hình thành vào thời Lê "dưới khuôn khổ của nhà nước phong kiến tập quyền"2. Các nghiên cứu tiếp theo cho rằng, định nghĩa dân tộc của J.V.Stalin chỉ dành cho khái niệm dân tộc tư sản mà chưa nói đến các dân tộc tiền tư sản, trong đó có sự hình thành dân tộc ở các quốc gia phương Đông, mà các nhà tư tưởng macxit trước Stalin đã bàn luận đến3. Hà Văn Tấn dựa vào việc phân tích khái niệm dân tộc trong các trước tác của Mác và Ảng-ghen để khẳng định về sự ra đời của dân tộc Việt Nam. Hà Văn Tấn viết: "Neu dựa vào khái niệm dân tộc của Mác và Ăng-ghen để nghiên cứu sự hình thành của dân tộc trong lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã hình thành trong thời kỳ Hùng Vương. Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong thời kỳ này, chế độ bộ lạc đã tan rã và nhà nước đã xuất hiện. Thời kỷ nhà nước nảy sinh có thể tương ứng với giai đoạn văn hóa Đông Sơn", ông cũng đã phân tích các dừ liệu khảo cổ học của giai đoạn Đông Sơn được phân bố trên một diện rộng từ biên giới phía Bắc đến miền 1. Dần theo Nguyễn Lương Bích (1955), "Những tiêu chuẩn để nhận định sự hình thành dân tộc", Tạp chí Văn Sừ Địa, số 12, H. 1955. 2. Đào Duy Anh, vắn đề hình thành dân tộc Việt Nam, Xây dựng xb, H. 1957, tr.62. 3. Phan Huy Lê, "Vấn đề hình thành dân tộc và chù nghĩa dân tộc ở Việt Nam", Tham luận tại Hội thảo "Vấn đề dân tộc và Chù nghĩa dân tộc ở Việt Nam cuối thể ki XIX đầu thể ki XX", 2008. 135
  14. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA ề Trung để chỉ ra "tính thống nhất Đông Sơn" như là một minh chứng mạnh mẽ có kết luận của mình1. Xuất hiện vào thời hậu Lê, khi dân tộc Việt Nam đã có lịch sử hình thành hàng nghìn năm, bộ sử lớn của dân tộc lần đầu tiên đặt vấn đề đòi hỏi phải có một cách nhìn thấu suốt lịch sử dài lâu của dân tộc, phải nhìn sự hình thành và phát triển của dân tộc như một quá trình. Những chỗ trống, những chỗ đứt đoạn cần phải được bổ khuyết bằng các loại tư liệu có được, và trong tình hình đó, truyền thuyết là những nguồn tư liệu lý tưởng. Bời những câu chuyện gắn bó chặt chẽ với lịch sử dân tộc và bởi niềm tin mãnh liệt của người kể chuyện, truyền thuyết dân gian như những mạch nguồn đã bắt gặp tư tưởng lớn của thời đại để hòa vào dòng chảy ý thức tự tôn dân tộc. Trong bối cảnh đó, việc Ngô Sĩ Liên xâu chuỗi những truyền thuyết dân gian lại và đặt chúng vào một cái phông biên niên sử trong một bộ sử lớn để khẳng định quốc thống là điều hữu lý. Song, cũng cần phải nhắc lại ràng, Ngô Sĩ Liên đã rất thận trọng khi sử dụng nguồn sử liệu này khi ông đã để toàn bộ phần sử liệu truyền miệng ở phần Ngoại kỳ; và với những chuyện mang đậm màu sắc hoang đường, ông đã nhận xét là "dĩ nghi truyền nghi". Đến Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, nguồn sử liệu này được sử dụng dè dặt hơn nhiều. Những điều được coi là "dĩ nghi truyền nghi" trong Đại Việt sử kỷ toàn thư đến đây đã bị phê phán thẳng thừng. Cũng những truyền thuyết đó, song Khâm định Việt sử thông giảm cưomg mục giản lược đi, thu hẹp bớt phạm vi của cái kỳ diệu; một sổ điều sử cũ chép có đưa vào phụ lục nhưng cũng bỏ bớt đi nhiều. Chẳng hạn, phả hệ các đời vua chỉ được tính từ Hùng Vương (chỉ dụ của nhà vua: "Bộ này chuẩn y cho phép bắt đầu từ thời Hùng Vương để nêu rõ quốc thống nước Việt ta là từ đấy", Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1, tr.30), truyện Lạc Long Quân - Âu Cơ không chép chi tiết bọc trăm trứng mà chép là đẻ 100 con trai, nhóm truyền thuyết An Dương Vương 1. Hà Văn Tấn, " v ề khái niệm "dân tộc" (nation) của Mác, Ăng-ghen và sự hình thành dân tộc Việt Nam", Tạp chí Dân tộc học, sô 1, H. 1972. 136
  15. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian.Ể chi để ở phần phụ lục, cái chết của vua nước Âu Lạc được chép là: An Dương Vương nhảy xuống biển chết. Sự sai lệch ít nhiều giữa Đại Việt sử ký toàn thu và Khâm định Việt sử thông giám cương mục xuất phát từ quan điểm của vua quan triều Nguyễn. Sự thào luận giữa họ được ghi lại trong lời Tấu nghị (của các sử gia) và lời Dụ chi (của nhà vua) ở đầu sách. Tựu trung lại có hai lý do chính: thử nhất, "Sử cũ của nước ta chép về đời Hồng Bàng thị, có danh hiệu Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, nhưng lúc ấy là thời đại thượng cổ, hãy còn hồn độn lờ mờ, tác giả chi dựa vào chỗ bâng quơ mà biên soạn ra, rồi e rằng không có gì là căn cứ để cho người ta tin" [Khâm định Việt sử thông giảm ciỉơng mục, tr.22]. Thứ hai, nếu triều đại nào không thống nhất được thiên hạ thì không được coi là chính thống, chì được chép vào phần phụ lụcệ Hoặc như đời "An Dương Vương không truyền ngôi vua được một đời nào, không thề ví với Hùng Vương đã truyền nước Văn Lang cho con cháu đến 18 đời được. Vậy công việc của An Dương Vương cũng chuẩn cho chép vào phụ lục để tiện đính chính" [Khâm định Việt sử thông giảm cương mục, tr.30]. Xét từ phương diện nhận thức, việc thu hẹp đến mức loại trừ hoàn toàn cái ảo trong sừ là một quy luật dù cho điều này gây thiệt thòi cho văn học dân gian. Đến thời Bắc thuộc, trong các bộ sử, bên cạnh các sử liệu thành văn của Trung Quốc, truyền thuyết dân gian Việt Nam vần được sử dụng với tư cách là một nguồn sử liệu nhưng liều lượng đã giảm đi nhiều. Bên canh các yếu tố mang màu sắc kỳ diệu của truyền thuyết như "Bà Triệu vú dài 3 thước", Triệu Quang Phục được Thánh Chừ Đồng Từ cho mũ đầu mâu khiến giặc vừa trông thấy đã phải thua, Phùng Hưng có sức khoẻ vật được trâu, đánh được hổ... là việc chép về các vị vua, các trung thần của một giai đoạn chưa có sừ thành văn. Đó là gương sáng của các vị anh hùng dám xả thân vì xã tắc, từ Hai Bà Trưng. Bà Triệu, đến Lý Nam Đe, Triệu Quang Phục, rồi Mai Thúc Loan, Phùng Hưng. Đây là những tài liệu rất quý, có giá trị như những tâm điểm sử liệu, mà qua đó, người đời sau xem là những gợi ý quý báu để tìm kiếm những kênh thông tin khác (khảo cổ học, dân tộc học, truyền thuyết dân gian...) nhàm dựng lại 137
  16. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VẢ VIỆC VĂN BẢN HÓA ế diện mạo lịch sử ở những khoảng thời gian chìm trong bóng tối của việc thiếu tư liệu. Căn cứ vào Việt điện u lỉnh và Lĩnh Nam chích quái thì truyền thuyết giai đoạn này không giữ được nhiều, tuy nhiên, có thê thây, các sử gia Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên đã sử dụng tối đa nguồn sử liệu truyền thuyết này. Dĩ nhiên, ghi chép và lắp ghép các sự kiện vào phông biên niên sử thì các chi tiết đều được sửa lại cho ngắn gọn sao cho thể hiện được sự liền mạch lịch sử với cảm hứng tôn vinh sâu đậm nhất. Đặc biệt ở giai đoạn này, Khâm định Việt Sử thông giám cương mục cũng chép những điều diệu kỳ truyền thuyết vào phần chính văn: phần Mục. Đó là những đoạn chép về Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Mai Thúc Loan. Trong khi chê sử cũ chép truyện Chử Đồng Tử là hoang đường thì Khâm định Việt Sử thông giám cương mục lại chép Rồng Vàng trao mũ đầu mâu cho Triệu Quang Phục mà cả ở phần Mục lẫn phần Lời chua đều không có ý chê bai. Những điều này cho thấy, truyền thuyết luôn luôn là đối tượng quan tâm của sử học. Truyền thuyết không chỉ được sử dụng như một nguồn sử liệu trong phần Ngoại kỷ khi chưa có các bộ sử thành văn chính thức, thời nhà nước phong kiến, các sử gia vẫn sử dụng sử liệu truyền thuyết để khắc họa các nhân vật lịch sử. Ở giai đoạn này, cả Đại Việt sử kỷ toàn thư lẫn Khâm định Việt Sử thông giám cương mục đều chép những chi tiết kì diệu về sự ra đời của các ông vua: Tiền Ngô Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thánh Tông, Lê Thái Tổ... M otif "giấc mơ - điềm báo" đã phân tích ở Chương 1 được sử dụng nhiều trong sử giai đoạn này. Khi giải mã các biểu tượng chiêm mộng, các nhà văn hóa trên thế giới đã tìm hiểu các giai đoạn của biểu tượng này trong di sản văn hóa nhân loại và đã chỉ ra rằng, trong thế giới Ai Cập cổ đại, người ta coi chiêm mộng là những giấc mơ của Thượng Đê đê chỉ đường cho loài người, còn đối với cộng đồng thổ dân châu Mỹ, nó được coi là sự củng cố truyền thống, là con dấu của pháp chế và quyền uy. Xét như thể để thấy rằng, như một dòng chảy liên tục của tiềm thức, trong quan niệm của con người giai đoạn trung đại. ý nghĩa huyền bí của giấc mơ vẫn chưa thôi ám ảnh con người và vân 138
  17. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian. tồn tại như những giá trị tiên báo đặc biệt. Sự hiện diện của các điều chiêm mộng trong truyền thuyết rồi trong sử có cội nguồn từ những mạch nguồn có ý nghĩa nhân loại; chúng có sự gần gũi nhau cũng là tự nhiên và tuyệt đối không nên xem xét chúng một cách giản đơn như là những hạn chế của nhận thức hay một lòng tin mù quáng nào đó. Nhưng có một điều thú vị là, các sử gia chi tin vào những điềm báo có tính chất trọng đại, ứng với những sự kiện mang tầm trọng đại, những bước gấp khúc của lịch sử mà người mang sứ mệnh đổi thay đó là các đấng quân vương. Ví dụ, những chi tiết như: Tiền Ngô Vương lúc sinh có ánh sáng lạ đầy nhà (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, tr.204; Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, tập 1, tr.221). Đinh Tiên Hoàng được sinh ra trong động sơn thần, từ bé, đánh nhau cầu bị gãy đã có rồng vàng hộ vệ. (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, tr.214; Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, tập 1, tr.237). Khi mẹ Lê Đại Hành có thai, thấy trong bụng nở hoa sen kết hạt, nhân đó sinh ra vua, lúc bé, vua ngủ có rồng ấp bên trên, có tài phép khiến cho giặc dương cung thì cung đứt, chĩa tên thì tên gãy. (Đạ/ề Việt sừ kỉ toàn thư, tập 1, tr.230; Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, tập 1, tr.267). Lý Thái Tổ được sinh ra do mẹ đi chơi chùa Tiêu Sơn, kết hợp với thần mà có thai, vua đi đánh trận gặp sóng dữ khấn thần biển thì được yên, vua dời đô, thấy rồng vàng bay lên ở chỗ thuyền ngự nhân đấy mà đổi tên thành là Thăng Long. (Đại Việt sử kỷ toàn thư, tập 1, tr.241, Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, tập 1, tr.283). Chi tiết này được sử thần Ngô Sĩ Liên bàn là: "Trời và người cảm ứng nhau rất nhạy, ảnh hưởng rất chóng, ai bảo là trong chỗ tối tăm mặt trời không soi đến mà ta dám dối trời chăng?" (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, tr.243). Còn Khâm định Việt Sừ thông giám cưong mục thì ghi lời phê của vua Tự Đức là: "Lời Lý Thái Tổ khấn trời, tỏ ra rất có đức độ đế vương; thật chẳng khác Thành Thang nhà Thương đem sáu việc trách mình trong khi gặp nạn bảy năm hạn hán; thảo nào giữa trời và người có sự cảm ứng không sai" {Khảm định Việt Sừ thông g iám cương mục, tập 1, tr.290). Trong khi đó. những lời đồn đại huyên truyền thì các sử gia phong kiến đã tỏ lộ sự nghi ngờ. Với các chi tiết như "móc ngọt 139
  18. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA ế tuôn sa, rượu thơm suối chảy, cỏ chi nảy mọc" đến các con vật lạ như rồng phượng rùa lân thi nhau xuất hiện ở đời Lý Nhân Tông, sử thần Ngô Sĩ Liên bàn ràng, "thời Nhân Tông sao các vật nhiều điềm lành đến thế? Là vì nhà vua thích nên bề tôi tâu xằng đấy mà th ô i" {Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, tr.296). Hay chi tiết rồng vàng hiện ở điện Kiền Nguyên, Khâm định Việt Sử thông giám cương mục ghi lời phê của vua là: "Bậy!". Ờ một chồ khác chính nhà vua lại phê ràng, sử cũ ghi quá nhiều điềm lành không thấy ghi điềm dờ như thế cũng chẳng có ích lợi gì {Khâm định Việt Sử thông giảm cương mục, tập 1, tr.376). Thực tế này phần nào cho thấy sự thu hẹp dần phạm vi tồn tại của truyền thuyết trong môi trường các bộ sử. Các sử gia nhà Nho, một mặt giới hạn sự tin tưởng vào quỷ thần, mặt khác, chỉ tin vào những gì có lợi cho vương quyền. Việc sử dụng truyền thuyết dân gian trong các giai đoạn này càng cho thấy tính chính thống hay là lợi ích chính trị được xem như là một quan điểm chỉ đạo quan trọng đối với việc biên soạn các bộ chính sử. Và đó lại chính là lý do để một sổ truyền thuyết dân gian nhất định sống được trong các bộ sử thành văn. Nhưng mặt khác cũng thấy ràng, truyền thuyết khi thoát khỏi môi trường dân gian, tức môi trường diễn xướng thì phải chịu nhiều cách nhìn nhận khác nhau mà yếu tổ kì diệu của thể loại có thể bị làm cho méo mó đi nhiều. Nét đặc thù nội dung của truyền thuyết dân gian (mối liên hệ khăng khít với lịch sử) có thể vẫn giữ được trong sử, thậm chí nhờ chính sử mà truyền thuyết được gìn giữ, được nâng lên một tầm vóc mới. Nhưng đặc trung dân gian thì đã bị những khuôn khổ cứng nhắc, những quan điểm chính thống, những ngôn từ của văn bản... làm đông cứng lại, thành ra một chế phẩm khác. Tìm hiểu vấn đề này, tác giả Kiều Thu Hoạch đã chủ ý đến hai lý do, một là tình trạng văn sử triết bất phân thời trun 2 đại, hai là xu hướng trọng sử cùa nhà Nho đã "nhất loạt chế biến thần thoại, truyền thuyết thành ra sử hết... Họ thường tước bô nhừns tinh tiết thần kì giàu tính chất hư cấu của nghệ thuật dân gian. Theo xu hướng lịch sử hóa thần thoại, truyền thuyết, họ cố tìm mọi cách làm cho các nhân vật anh hùng - dầu là tưởng tượng hay có thật - đều trờ 140
  19. Chương 2. Văn bản hóa truyền thuyết dân gian.. thành nhân vật lịch sử. Bởi vậy, dưới mắt họ, truyền thuyết anh hùng nêu chưa được gọi là chính sử, tín sử, thì cũng phải được gọi là dã sử, dật sử, ngoại sử và nhiều tên gọi tương tự" [Kiều Thu Hoạch: 1971/202]. Việc làm này đã tước đi nhiều vẻ đẹp hồn nhiên, phong phú của truyền thuyết dân gian. Tình trạng này cũng đã được Lỗ Tấn nói đến đối với việc sử hóa thần thoại, truyền thuyết Trung Quốc [Lỗ Tấn: 1928], Trong quá trình lưu truyền của mình, các đặc trưng của truyền thuyết dân gian (tính đặc thù nội dung và đặc trưng nghệ thuật dân gian) chỉ được gìn giữ đúng với bản chất thực sự trong môi trường lễ hội. Đó là một môi trường lý tưởng cho mọi truvền thuyết mà rất tiếc sau một thời gian dài gián đoạn, các lễ hội phải quay trở lại tìm tài liệu truyền thuyết ở các văn bản, đặc biệt là những văn bản được lưu giữ cẩn trọng. Đó là lí do tại sao việc nghiên cứu văn học dân gian ở Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu truyền thuyết lại cần phải nghiên cứu khâu văn bản trong mối liên hệ chặt chẽ với nghiên cứu truyền thuyết ở góc độ lễ hội. 1.2. Truyền thuyết trong bình sử -hai bờ hư thực của truyền thuyết Trong phần này, chúng tôi sẽ xem xét mối quan hệ giữa truyền thuyết với các bộ sử từ hai góc độ. Một là: nhìn truyền thuyết như một nguồn sứ liệu dưới con mắt của các sử gia ờ nhiều đời để thấy các điểm nhìn xuất phát từ hai bờ hư thực của truvền thuyết, sự tác động của các văn bản chính thống tới một thể loại văn học dân gian với tất cả mặt hay và mặt dở của nó. Ngược lại còn có thể thấy sự tác động trở lại của truyền thuyết tới các sử gia từ phía đặc trưng thi pháp thể loại của mình (cách thức phản ánh lịch sử bằng cái ảo). Từ đó để nhìn thấy những yếu tố bền vừng trong sự khúc xạ tất yếu của truyền thuyết từ đời sống dân gian đến văn bản. Hai là: nhìn truyền thuyết như một dạng thông tin để thấy những quy luật của hoạt động thông tin đã tác động như thế nào tới truyền thuyết vượt ra ngoài cả ý định chủ quan của các sử gia. Việc chép truyền thuyết vào sử được xem xét như một hoạt động sáng tạo ở đó tồn tại tính chủ quan kép (của người sáng tạo truyền thuyết và của người chép truyền thuyết vào sử) nên hình hài truyền thuyết với tư cách là một dạng 141
  20. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA. thông tin đã ít nhiều biến dạng khi được sử dụng vào một mục đích thông tin khác. Từ đó xác định được cách tiếp cận, khai thác, phân tích truyền thuyết một cách khoa học hơn từ những thông tin có được. 1.2.1. Hai bờ hư thực của truyền thuyết Coi truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, các nhà folklore học đã tìm hiểu đặc thù truyền thuyết trong hệ thống thể loại, nghĩa là những vấn đề tâm lý sáng tạo, sự hình thành và phát triển thể loại trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của tác giả dân gian, những đặc trưng thi pháp của thể loại... Công việc này nhàm hướng tới khẳng định sự tồn tại của truyền thuyết với tư cách là một chỉnh thể độc lập của văn học dân gian. Song được coi là một nguồn sử liệu, truyền thuyết dân gian phải chịu sự phán xét từ góc độ của các sử gia: khảo cứu phê phán để chắt lọc giá trị lịch sử. Ở Việt Nam, truyền thống bình sử đã có từ lâu đời, ngay từ khi xuất hiện việc chép sử. Bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên nay không còn nhưng phần di văn của hai ông còn hiển thị trong Đạ/ề Việt sử kỉ toàn thư ở 30 đoạn lời bình của Lê Văn Hưu và 11 đoạn lời bình của Phan Phu Tiên. Các sử gia tiếp theo hai ông là Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy đều có những lời bình sau các sự kiện lịch sử mà họ chép lại. Ngoài ra, khi tham khảo các bộ sử khác để biên soạn phần Bản kỷ thực lục và Bản kỷ tục biên, Lê Hy đã chép thêm lời bàn của các tác giả khác, hữu danh hoặc vô danh. Truyền thống này được tiếp tục trong bộ Khâm định Việt Sử thông giám cương mục với những lời Phê (của vua) và lời Cẩn án (của các sử gia) triều Nguyễn. Các lời bình có hai nội dung chính, một là, bình luận công tội, ưu khuyết của đời vua trước, hai là xét đoán sự đúng sai, hư thực của các chi tiết. Nội dung thứ hai có liên quan chặt chẽ tới truyền thuyết với tư cách là một nguồn sử liệu, hay nói cách khác, chính là thao tác "phê phán trong" đối với một nguồn sử liệu nói chung. Đặc biệt, thời đại truyền thuyết là giai đoạn thu hút được sự chú ý bình luận nhiều nhất của các sử gia. Để bình luận về sự đúng sai của các sự kiện lịch sử, các sử gia tiến hành theo 2 cách. Cách thứ nhất là 142
nguon tai.lieu . vn