Xem mẫu
- C K.0000067155
TRẦN THỊ A N
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
V Ấ VIỆC VĂN BẢN H Ó A
TRUYỀN* THUYẾT D Â N GIAN
VIỆT N A M
N H À XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
- ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VỆC VĂN BẢN HÓA
• • •
TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
- Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Trần Thị An
Đặc trưng thể loại và văn bản hoá truyền thuyết dân gian Việt
Nam / Trần Thị An. - H. : Khoa học xã hội, 2014. - 360tr. : bảng ;
24cm
Phụ lục: tr. 275-339. - Thư mục: tr. 340-359
1. Văn học dân gian 2. Truyền thuyết 3. Đặc trưng thể loại
4. Văn bản hoá 5. Việt Nam
398.209597 - dc23
KXF0053p-CIP
- TRẦN THỊ AN
ĐẶC
• TRƯNG THỂ LOẠI
• VÀ VIỆC
• VĂN BẢN HÓA
TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ NỘI - 2014
- MỤCLỤC
Trang
Lời nói đầu 9
Chương I
TRUYỀN THUYÉT VỚI TƯ CÁCH
LÀ MỘT THẺ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN 11
l ẳTruyền thuyết trong hệ thống thể loại văn học dân gian 11
1.1. Nghiên cứu truyền thuyết - một cái nhìn toàn cảnh 11
1.1.1. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu truyền thuyết trên
thế giới 12
1.1.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu truyền thuyết ở
Việt Nam 21
1.2. Định vị thể loại truyền thuyết trong bộ phận tự sự dân gian 32
1.2.1. Nhóm, thể loại và tiểu loại trong nghiên cứu tự
sự dân gian thế giới 32
1.2.2. Phân chia thể loại trong nghiên cứu truyền thuyết
ở Việt Nam 38
1.3. Nhận diện bản chất thể loại truyền thuyết - những vấn
đề đặt ra 40
1.3.1. Tiêu chí "nội dung lịch sử" và sự vay mượn hình
thức nghệ thuật của thần thoại và truyện cổ tích 40
1.3.2. Mối quan hệ giữa đơn vị truyện và thể loại 44
1.3.3. Các bộ sưu tập truyền thuyết 46
2. Cảm hứng nội dung thể loại 48
2.1. Khung phân tích và các vấn đề hữu qưan 48
5
- ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA ề,
2.1.1. Khung phân tích: Loại hình nội dung, phạm trù
ngữ nghĩa và nhu câu tâm lý - tinh thần của
người kể/người nghe truyền thuyết 48
2.1.2. Mối quan hệ giữa đề tài và thông điệp của người
kể truyền thuyết 51
2.1.3. Thời đại nảy sinh truyền thuyết: những điểm
khởi đầu 55
2.2. Cảm hứng tôn vinh lịch sừ 59
2.2.1. Sử liệu truyền miệng và truyền thuyết 59
2.2.2. Lịch sử qua lăng kính cảm xúc và phong cách
ngôn ngữ thể loại 65
2.3. Cảm hứng trải nghiệm thế giới siêu hình 68
2.3.1. Một số dẫn liệu từ truyền thuyết dân gian thế giới 68
2.3.2. Nhóm truỵền thuyết về "sự hiện hữu của phép lạ"
(hay "bí ẩn của thế giói tâm linh") trong truyền
thuyết dân gian Việt Nam 73
2.3.3. "Truyền thuyết - tin đồn": sự tương đồng trong
việc kể/nghe và lan truyền truyền thuyết của thế
giới và Việt Nam 75
3. Một số đặc trưng thi pháp 77
3.1. Thời gian lịch sử - cảm giác trong truyền thuyết 77
3.1.1. Thời gian - lịch sử trong cảm giác 79
3.1.2. Tính phi thời gian trong miêu tả 88
3.2. Không gian thiêng trong truyền thuyết 91
3.2.1. Núi - nơi trú ngụ của thần linh 93
3.2.2. Đá - sự sống trong trạng thái tĩnh 97
3.2.3. Cây - sự sống trong trạng thái động 101
3.2.4. Sông và sóng nước - sức mạnh của cả khối 107
3.2.5. Mây mù - công cụ của sự hiển thánh, linh cảm về
điềm báo 109
3.3. Nhân vật truyền thuyết 110
3.3.1. Motif "Ra đời kỳ lạ" 112
- Mục lục
3.3.2. Motif "Chiến công phi thường" 114
3.3.3. Motif "Hóa thân" (hay "cái chết thần kỳ") 118
Chương 2
VÃN BẢN HÓA TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN
TRONG SỬ VÀ THẦN TÍCH 123
1. Truyền thuyết trong sử - niềm tin vào sự huyền diệu có thật 123
1.1. Sử hóa truyền thuỵết - tinh thần dân tộc và phương
châm - dĩ nghi truyên nghi 124
1.2. Truyền thuyết trong bình sử - hai bờ hư thực của
truyền thuyết 141
1.2.1. Hai bờ hư thực của truyền thuyết 142
1.2.2. Người kể chuyện và sử gia - chủ thể kép của
truyền thuyết dân gian trong các bộ sử 147
2. Truyền thuyết trong thần tích - niềm tin vào sự thiêng liêng 152
2.1. Những nhận thức bước đầu 152
2.1.1. Thành hoàng và thành hoàng làng 152
2.1.2. Thần làng và thần tích 155
2.2. Một số dạng cấu tạo thần tích 165
2.3. Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và thần tích:
nghiên cứu trường hợp các ngôi đền thờ thần núi ở
Hưng Nguyên, Nghệ An 173
2.3.1. Thừ tìm hiểu sự ảnh hưởng qua lại giữa thần tích và
truyền dàn gian qua nguồn tài liệu của một địa phương 174
2.3.2. Một vài miêu tả thực địa 174
Chưong 3
VIỆC VĂN BẢN HÓA TRUYÈN THUYÉT DÂN GIAN
TRONG VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI 201
1. Vài nét về tình hình ghi chép truyền thuyết trong văn xuôi
trung đai Viêt Nam
o • •
201
1.1. Ghi chép văn học dân gian - bước đi đầu tiên của văn
học viết 201
- DẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VÃN BẢN HÓA.
1.2. Văn bản hóa và văn học hóa 203
1.3. Chất dân gian của những truyền thuyết được văn bản hóa 208
1.3.1. Đặc trưng thể loại và việc giới hạn tài liệu khảo sát 208
1.3.2. Truyền thuyết được văn bản hóa, một dạng đậc
thù của truyền thuyết dân gian 209
2ỀViệc ghi chép truyền thuyết dân gian trong văn xuôi tự
sự thế kỉ X - XIV 213
2.1. Truyền thuyết dân gian trong "Việt điện u linh" 215
2.1.1. Hệ thống nhân vật trong "Việt điện u linh" 216
2.1.2. Motif truyền thuyết trong "Việt điện u linh" 218
2.1.3. Những yếu tố của nghệ thuật trần thuật trong
"Việt điện u linh" 220
2.2. Truyền thuyết dân gian trong "Lĩnh Nam chích quái" 222
2Ễ2.1. Đề tài của truyền thuyết trong "Lĩnh Nam chích quái" 224
2.2.2. Motif truyền thuyết trong "Lĩnh Nam chích quái" 228
2.2.3. Nghệ thuật trần thuật trong "Lĩnh Nam chích quái" 231
3. Việc ghi chép truyền thuyết dân gian trong văn xuôi thế
kỉ XVIII - XIX 243
3.1. Xu hướng tôn vinh lịch sử trong một số truyền thuyết
được ghi chép 245
3.2. Xu hướng thế sự hóa truyền thuyết 260
Kết luận
Phụ lục: Mục lục Type truyện truyền thuyết 275
Tài liệu tham khảo 340
8
- LỜI NÓI ĐẨU
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là một
thể loại được công nhận muộn hơn các thể loại tự sự dân gian khác.
Có nhiều lý do gây nên hiện tượng này: thứ nhất, do tính chất đặc
biệt của nội dung, thể loại này gắn với lịch sử hoặc dã sử nên tính hư
cấu được cho là giảm thiểu tối đa; thứ hai, do cảm hứng đặc biệt của
người kể chuyện nên những câu chuyện được kể trong truyền thuyết
thường gắn với tín ngưỡng và do vậy, gắn với diễn xướng nhiều hơn
là đọc hoặc kể; thứ ba, do tính tự sự của các câu chuyện được kể
không thật đa dạng, thể loại truyền thuyết nằm trong sự giao thoa
khó tách bạch với thần thoại và truyện cổ tích; thứ tư, truyền thuyết
dân gian sớm được biên soạn theo các "công thức" của thần tích hay
được ghi chép và trở thành một bộ phận của văn xuôi và các thư tịch
khác thời trung đại.
Phải đến cuối thế kỉ XX, khi có nhiều tài liệu sưu tầm truyền
thuyết được công bố, giới nghiên cứu văn học dân gian mới công
nhận sự tồn tại độc lập của thể loại truyền thuyết. Tuy nhiên, từ các
truyền thuyết được sưu tầm trong dân gian, người đọc đã chứng kiến
sự rời rạc của kết cấu, sự trùng lặp của cốt truyện, sự khô khan của
cách kể các câu chuyện truyền thuyết, vì vậy, việc xác định đặc
trưng thể loại truyền thuyết với tư cách là một thể loại văn học dân
gian lại gặp không ít trở ngại. Nhưng cũng có một đặc điểm quan
trọng là, hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào khác, truyền
thuyết có sự gắn bó chặt chẽ với văn hóa dân gian; và như vậy,
nghiên cứu truyền thuyết không thể không nghiên cứu văn hóa dân
gian, hay nói cách khác, nghiên cứu tín ngưỡng, lễ hội dân gian,
không thể không đề cập tới phương diện ngôn từ của niềm tin, đó là
truyền thuyết.
9
- ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA .
Cuốn sách này được hoàn thành dựa trên kết quả nghiên cửu
truyền thuyết từ góc độ văn học dân gian (với việc nghiên cứu truyên
thuyết trên văn bản) từ trước đến năm 2000 và từ góc độ văn hóa học,
nhân học (với việc nghiên cứu truyền thuyết, thực hành tín ngưỡng qua
tư liệu điền dã) của những năm tiếp theo.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu truyền thuyết
từ góc độ ngôn từ (khảo sát ở phương diện thể loại) và từ góc độ văn
hóa dân gian, nhân học văn hóa nhưng cuốn sách này chắc chắn cần
phải hoàn thiện thêm trong quá trình hiểu sâu hơn về thể loại truyền
thuyết với tư cách là một thể loại văn học dân gian và với tư cách là
phần lời của tín ngưỡng, lễ hội dân gian đang bùng phát ở nước ta vài
thập niên gần đây.
Rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc gần xa.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
rw i r _ •
Tác giả
10
- CHƯƠNG 1
TRƯYỂN THUYẾT VỚI T ư CÁCH
LÀ MỘT THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN
• • •
1. Truyền thuyết trong hệ thống thể loại văn học dân gian
1.1. Nghiên cửu truyền thuyết - một cái nhìn toàn cảnh
Theo lối duy danh tên gọi của thuật ngừ truyền thuyết trong văn
học dân gian các nước đều mang nghĩa rất rộng. Thuật ngữ legend
được dùng để chỉ truyền thuyết trong các nước Anh, Hoa Kỳ, Nga,
Pháp... đều xuất phát từ chữ Latinh có nghĩa là "những cái dùng để
đọc"1. Ở Nhật Bản, truyền thuyết có nghĩa gốc là "những điều khó
quên"; còn ở Trung Quốc, từ thòi cổ đại, truyền thuyết có những nét
nghĩa gần với "truyền văn" và "truyền ngoa". Gọi là "truyền văn",
tức là chỉ những sự việc không phải chính tai mình nghe thấy, chính
mắt mình trông thấy. Gọi là "truyền ngoa" tức là chỉ vào những sự
việc, những mẩu chuyện hoang đường kì quái lưu truyền trong dân
gian"2ễ Ở Việt Nam, một số định nghĩa về truyền thuyết như: "truyền
thuyết vốn là những điều được truyền lại từ đời trước qua cửa
miệng các thể hệ"3, hay "truyền thuyết là tất cả những câu chuyện
lưu hành trong dân gian có thật xảy ra không thì không có gì bảo
đảm"4 gần với lối định nghĩa giải thích từ của Từ điển Hán Việt:
1. William - Legend, Microsoft (R) Encarta (R) 97 Encyclopedia (C) 1993-1996.
M icrosoft Corporation
2. Kiều Thu Hoạch, "Thể loại truyền thuyết dưới mắt các nhà nghiên cứu
folklore N hật Bản và Trung Quốc", Tạp chí Văn học, số 1/2000.
3. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn, Văn học dân gian
Việt Nam , Nxb. Giáo dục, Tái bản lần thứ 2, H. 1997, tr.8.
4. Trương Chính. Lirợc thào Ìịchsừvăìĩ học Việt Nam, Nxb. Xây dựng, H. 1957.
11
- ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VẢ VIỆC VĂN BẢN HÓA.
truyền thuyết là "lời nói được kể lại từ đời này qua đời khác"1 đã
làm cho việc nhận diện đặc điểm nội dung và nghệ thuật tự sự của
thể loại truyền thuyết gặp không ít khó khăn. Để hiểu rõ hơn về
thuật ngữ này, cần đặt nó trong việc nghiên cứu thể loại văn học dân
gian trên thế giới.
1.1.1. Tinh hình sưu tầm, nghiên cứu truyền thuyết trẽn thế giới
Trong folklore học thế giới, truyền thuyết là một thuật ngừ chỉ
một bộ phận ngôn từ đặc biệt của folklore, sớm được chú ý với tư
cách là một thể loại. Lịch sử nghiên cứu folklore đã chứng kiến
nhiều cách tiếp cận của các trường phái khác nhau, trong đó, tiếp
cận từ thể loại là một cách tiếp cận xuất hiện gần như đồng thời với
sự hình thành chuyên ngành nghiên cứu văn học dân gian. Việc lấy
thể loại làm tiêu chí để phân loại folklore là một ý tưởng xuất phát
từ các học giả châu Âu mà người có công đầu là Jacob Ludwig Karl
Grimm (1785-1863) và Wilhelm Karl Grimm (1786-1859). Sự phân
biệt bước đầu ba thể loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích được coi
là ba thể loại chính của tự sự dân gian trong bộ sưu tập của anh em
Grimm trong Thần thoại Đức (1835) đã được các nhà nghiên cứu
ngữ văn dân gian coi như có tính chất hướng đạo trong một thời
gian dài. Trong cuốn sách này, Grimm đã phân biệt thần thoại và cổ
tích như sau: "Thông thường, tất cả những truyện cổ tích đều là
những vết tích của một tín ngưỡng thời tối cổ và được thể hiện
trong những khái niệm tu từ về những gì siêu cảm giác. Những yếu
tố thần thoại là những mảnh vụn của một chuỗi ngọc bị vờ ra nàm
trên đất, bị phủ kín bởi hoa cỏ và chỉ có những đôi mắt tinh tường
mới nhận ra được. Ý nghĩa của yếu tố huyền thoại này đã bị tản
mát, tuy nhiên, có thể tìm thấy chúng trong truyện cổ tích, đồng
thời làm thỏa mãn tình cảm tự nhiên trong những điều huyền diệu.
Chúng chắc chắn không phải là vật trang trí cho những trí tưởng
tượng lười biếng"2. Và đây là sự phân biệt giữa cổ tích và truyền
thuyết: "Có nhiều lý do thích đáng để phân biệt truyện cổ tích với
1. Nguyễn Tôn Nhan, Từ điển Hán - Việt, Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2003, tr.767.
2. Jacob Grimm, Thần thoại Đức {Germanic Mythology), Scott-T ounsend
xuất bản, W ashington, D.C., 1997, tr.3.
- ______________________Chương 1 Truyền thuyết vói tư cách là một thể loạịỆ..
truyền thuyết dân gian mặc dù chúng luân phiên kết nối với nhau.
Lỏng lẻo hơn và ít bị giới hạn hơn truyền thuyết, truyện cổ tích
thiếu đi tính địa phương vốn đóng khung truyền thuyết và làm chc
truyền thuyết chất phác hơn. Truyện cổ tích thì bay, truyền thuyết
thì đi và gõ vào cửa từng nhà. Một bên thì có thể nối thẳng với sự
phong phú của thi ca, còn bên kia thì lại gần như có uy quyền với
lịch sử" [Jacob Grimm: 1835/3]. Sự phân biệt này có ý nghĩa hình
thành những khái niệm cơ bản, để từ đó, các nhà nghiên cứu đi sau
triển khai cụ thể hơn.
Cuối thế kỉ XIX, các nhà nghiên cứu thuộc trường phái địa lý -
lịch sử Phần Lan (Historic-geographic Method) là Julius Leopold
Fredrik Krohn (1835-1888), Kaarle Krohn (1863-1933), Antti Amatus
Aame (1867-1925) đã đi sâu nghiên cứu truyện cổ tích bằng việc
tập hợp nhiều dị bản truyện cổ tích của châu Âu và sắp xếp chúng
theo các đơn vị type và motif. Phương pháp này được áp dụng và
phát triển bởi nhà cổ tích học Hoa Kỳ Stith Thompson (1885-1976);
ông đã sưu tầm, tập hợp, lập bảng tra type và motif truyện cổ tích
trên toàn thế giới1. Các công trình của ông lần lượt từ việc dịch và
mở rộng bảng tra type truyện cổ tích do A.Aarne xác lập đến Bảng
tra motif văn học dân gian2 và Truyện cồ tích3 là sự kiên trì ứng dụng
phương pháp địa lý - lịch sử Phần Lan vào việc nghiên cứu truyện
1. Stith Thompson, The Type o f the Folkltale - A Classification and Bibliography,
Antti A arne’s Verzeichnis der Màrchentypen (FF CommuỉúcatioììSS no. 3).
Translated and Enlarged by Stith Thompson (Kiểu truyện cổ tích. Bàng
phân loại và thư mục. Danh mục truyện cô tích của Antti Aarne công bố
trên Thông báo của các nhà folklore số 3 được Stith Thompson dịch và
mở rộng). Xuất bản các năm 1928, 1946, 1964, 1981 tại Helsinki và Hoa Kỳ.
2. Stith Thompson, Motif-index o f Folk-Literatiire, A Classification o f narrative
elements in folk-tale, ballads, myths, fables, medieval romances, local
legends (Bàng tra m otif văn học dân gian. Bàng phân loại các yếu tổ tự sự
trong truyện cô tích, ballad, huyên thoại, truyện ngụ ngôn, văn học trung
đại, tiểu thuyết lãng mạn, tiếu thuyết e.xempìa, truyện thơ tiếu lâm, truyện
cười và truyền thuyết địa phương), Bloomington, Indiana, USA. (Xuất bản
từ 1932 đến 1936)
3. Stith Thom pson, The Folktale (Truyện cổ tích , xuất bàn ờ Hoa Kỳ vào các
năm 1946, 1951, 1977).
13
- ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA.
cô tích nói chung, văn học dân gian nói riêng. Phương pháp này ban
đầu chỉ tập trung vào truyện cổ tích nhưng về sau, s. Thompson đã
mở rộng ra nhiều thể loại khác và kết quả nghiên cứu chung của
Aame và Thompson (được gọi là từ điên A-T) đã được áp dụng đê
sẳp xếp nhiều thể loại truyện cổ dân gian vào các ô type và motif,
trong đó có truyền thuyết1.
Việc sưu tầm truyền thuyết ở châu Âu được bắt đầu vào đầu thế
kỉ XIX nhưng việc nghiên cứu nó như một đối tượng độc lập chỉ
mới bắt đầu vào nửa sau thế kỉ XX. Trong công trình tổng thuật
lịch sử nghiên cứu truyền thuyết của châu Âu và châu Mỹ, nhà
truyền thuyết học người Hoa Kỳ Wayland D. Hand2 cho biết, việc
sưu tầm và nghiên cứu chuyên sâu về truyền thuyết trên thế giới
được bắt đầu từ thể kỉ XIX bởi các học giả người Đức (bộ sưu tập
truyền thuyết được sưu tầm và biên soạn bởi hai anh em Grimm
Truyền thuyết Đức (.Deutsche Sagen, 1816-1818) và đầu thế kỉ XX
ở cuốn Những truyền thuyết (Die sage, 1908) của Karl W ehrhan
(1871-1939). Công trình Những truyền thuyết của Karl Wehrhan
được coi là đã truyền cảm hứng cho các nhà nghiên cứu đi sau,
trong đó, nổi bật nhất là Friedrich Ranke (1882-1950). Tuy nhiên, ờ
châu Âu, bộ phận folklore ngôn từ này không được nghiên cứu
trong một thời gian khá dài và chỉ thực sự được quan tâm khi có
một số bộ sưu tập truyền thuyết được công bổ3. Nó trở thành chủ đề
của nhiều cuộc hội thảo quốc tế của của Hội nghiên círu tự sự dãn
gian quốc tế (The International Society for Folk - Narrative Research -
ISFNR)4, và theo Wayland D.Hand thì hội thảo này là "một mối
1. Reidar Th.Christiansen (1958), The Migratory Legends, FF Communication,
N o 175, Helsinki: Academ ia Scientiarum Fenica; Viện Khoa học xã hội
Trung Quốc (1992), Trung Quốc truyền thuyết co sự đại từ điển, Bắc Kinh.
2. W ayland D. Hand (1965), Status o f European & American Legend Study,
In "Current Anthropology", Volume 6, No 4, Oct. 1965, page 439-466.
3. Reidar Th. Christiansen (1958), The Migratory Legends, sđd.
4. Hội Nghiên cứu tự sự dân gian quốc tế (The International Society for Folk
N arrative Research) là một tổ chức quốc tế gồm các học giả nghiên cứu
lĩnh vực tự sự dân gian, folklore và những lĩnh vực liên quan. Hội được
hình thành từ năm 1959 tại Hội thảo quốc tế các nhà nghiên cứu tự sự dân
14
- Chương 1. Truyền thuyết với tư cách là một thể loại.
quan tâm mới thức tỉnh", "gõ vào sự thờ ơ đối với truyền thuyết dân
gian hơn một thế ki rưỡi qua" (tính từ khi bộ Truyền thuyết Đức
được công bố từ đầu thế kỉ XIX).
Ở Hoa Kỳ, việc nghiên cứu chuyên sâu thể loại truyền thuyết
được bắt đầu muộn hơn so với thần thoại và truyện cổ tích; đồng
thời, thể loại này cũng ít được chú ý hơn. Richard Merce Dorson đã
viết: "Không giống như balad, tục ngừ hoặc các thể loại folkore
khác, truyền thuyết nhận được rất ít sự khảo sát tường tận từ những
nhà folklore Hoa Kỳ, mặc dầu mọi người khi nói chuyện đều nói về
truyền thuyết"1. Theo ông, tập tài liệu sưu tầm truyền thuyết đầu
tiên của Hoa Kỳ được công bố năm 1884 của Drake (.A Book o f
New England Folklore) tập họp các mẩu chuyện ngẩn được lấy từ
sách báo trong thư viện và lời kể của người địa phương về phù
thủy, bóng ma, cướp biển...; và cách thức này được tiếp tục bởi
một số nhà sưu tập khác trong suốt thế kỉ XX. Do xuất xứ của các
truyền thuyết này vừa từ nguồn các sách báo, vừa từ các câu chuyện
truyền miệng, lại được phổ biến rộng rãi nên R.M.Dorson đã gọi
chúng bằng các khái niệm truyền thuyết dân gian ựolkl legend),
truyền thuyết đại chúng {popular legend) hay truyền thuyết thành
văn (literary legend).
Vào đầu thế kỉ XX, một hướng quan tâm khác về thể loại truyện
dân gian được thực hiện bởi nhà nhân học nổi tiếng Hoa Kỳ Franz
Boas (1858-1942). Điểm khác biệt của nhà nhân học F.Boas so với
nhà cổ tích học s.Thompson (hay Drake với bộ sưu tập truyền
thuyết được cắt ra từ các văn bản trong thư viện nói trên) là: trong
khi s.Thompson chỉ tập hợp các văn bản truyện cổ đã được công bố
thì F.Boas và các học trò của ông vừa tiến hành sưu tầm các thể
loại folklore ngôn từ của người da đỏ; F.Boas chủ trương vừa sưu
gian ờ Kiel và Copenhagen, chính thức thành lập năm 1962 trong cuộc
họp ờ Antw erp (Bi), có mục đích phát triển mạng lưới và khuyến khích sự
trao đổi kết quả nghiên cứu cùa các nhà khoa học nghiên cứu tự sự dân
gian. Trona 55 năm hoạt động cùa mình (1959-2014), Hội đã tiến hành 16
Hội thảo quốc tế ờ các châu lục khác nhau.
1. Richard M erce Dorson (1971), American Folklore and the Historian,
University o f Chicago Press, tr.14.
- ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VĂN BẢN HÓA.
tập truyện kể vừa chú ý đến việc thực hành chúng trong các môi
trường cụ thể. Từ thực tế việc lưu truyền và diễn xướng truyện kể,
ông đã phân biệt hai loại truyện dân gian như sau: "Luôn luôn tồn
tại sự phân biệt rõ ràng hai loại truyện cổ. Một nhóm liên quan đến
những sự kiện xảy ra vào thời gian mà thế giới chưa có hình dạng
như bây giờ và loài người chưa sở hữu những phong tục hay nghệ
thuật như chúng ta ngày nay. Nhóm kia thì bao gồm những truyện
kể của thời đại chúng ta. Nói cách khác, truyện kể của nhóm thứ
nhất được gọi là thần thoại, còn truyện kể của nhóm thứ hai thì
được gọi là lịch sử"1. Tuy xác định một nhóm là "truyện lịch sử"
nhưng trong công trình của mình, ông cũng chưa gọi tên thể loại là
truyền thuyết mà chỉ đặt vấn đề nghiên cứu thần thoại và truyện cổ
tích [Franz Boas: 1940].
Một lý thuyết gia lừng danh khác chuyên nghiên cứu thần thoại
là Bronislav Malinowski (1884-1942). Ông không lý giải các "tàn
dư" quá khứ như cách làm của các nhà tiến hóa luận mà tập trung
nghiên cứu sự sống sót của các nhóm xã hội một cách tổng thể.
Mỗi thành tố văn hóa, thể loại là một ví dụ, đều là một nhân tố có
chức năng duy trì và tiếp tục sự tồn tại của nhóm xã hội đó. Chẳng
hạn, "thần thoại thể hiện, củng cổ, mã hóa những tín ngưỡng; nó
bảo vệ và cưỡng chế đạo đức; nó bảo đảm tính hiệu lực của nghi lễ
và chứa đựng những quy định thực hành có tính hướng đạo cho con
người. Thần thoại, vì vậy, là một thành tổ của văn minh nhân loại;
nó không phải là những câu chuyện vu vơ, thiếu căn cứ mà là một
lực lượng hoạt động tích cực; nó không phải là một sự giải thích
thông thái hay một tưởng tượng mang tính nghệ thuật, mà là một
nghị định thực tế của niềm tin sơ khởi và một sự trải nghiệm có ý
nghĩa đạo đức"2. Vì vậy, trong quan niệm của B.Malinowski, thể
loại có mục đích thỏa mãn những nhu cầu tinh thần và xã hội của
]. Franz Boas (1940), Mythology and Folk - tales o f the North American
Indians (Than thoại và truyện cổ tích của người da đỏ Bắc Mỹ), N ew
York: M acmillan.
2. Bronilav M alinowski (1948), Magic, Science and Religion and Other
Essays (Ma thuật, khoa học, tôn giáo và một số tiếu luận khác), Illinois:
The Free Press, tr.79.
16
- Chương 1. Truyền thuyết với tư cách là một thể loại..
con người, chúng có chức năng duy trì xã hội theo từng loại chuẩn
mực mà mỗi thể loại định ra, vì vậy, nghiên cứu thể loại folklore là
nghiên cứu chức năng của chúng. Hơn nữa, chức năng có tính toàn
cầu, vì vậy, theo B.Malinowski, nghiên cứu hệ thổng thể loại cần
nghiên cứu chức năng mang tính toàn cầu của chúng và sơ đồ thể
loại cần phải có tầm bao quát tư liệu văn học truyền miệng trên phạm
vi toàn thế giới. Tuy nhiên, sự khảo sát bổi cảnh của từng nền văn
học dân gian cụ thể cho thấy, chức tìăng thể loại là rất đa dạng, chúng
không giống nhau trong những cộng đồng khác nhau, thậm chí,
chủng không giống nhau trong quan niệm của các thành viên trong
cùng một cộng đồng.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc lý thuyết chức năng của B.Malinowski,
William Bascom (1912-1981) đã chủ trương nghiên cứu thể loại
folklore dựa trên chức năng của chúng, về các thể loại ngôn từ tự
sự dân gian, ông đề nghị như sau: "Thần thoại, truyền thuyết và
truyện cổ tích không được xếp vào những bảng phân loại mang tính
chất toàn cầu nhưng những khái niệm mang tính phân tích của
chúng lại được ứng dụng rộng rãi xuyên văn hóa ngay cả đối với
những bảng phân loại địa phương mang tính vùng đậm đặc. Chúng
được các nhà nghiên cứu folklore châu Âu phân chia thành ba thể
loại, phản ánh những bảng phân loại bản địa của folklore châu Ầu;
nhưng chúng cũng dễ dàng rút gọn lại thành bảng phân chia hai thể
loại trong những xã hội ấy, như chúng ta sẽ thấy, nhóm thần thoại
và truyền thuyết được xếp vào cùng một bảng thần thoại - truyền
thuyết và chúng được phân biệt với cổ tích là những truyện hư cấu"1.
Tuy nhiên, việc coi truyền thuyết như một đổi tượng của nghiên
cứu chuyên ngành, hay nói cách khác, bộ môn truyền thuyết học
Hoa Kỳ chỉ thực sự được bắt đầu vào thập niên 60 của thế kỉ XX,
gắn với tên tuổi của Linda Dégh (1920-2014), người chỉ mới từ
Hungary đến Mỹ vào khoảng những năm 1960. Như vậy là, việc
triển khai nghiên cứu chuyên sâu truyền thuyết dân gian ở Hoa Kỳ
gần như đồng thời với châu Âu (mà chúng tôi nói ở trên) nhưng
1. William Bascom (1965): Folklore Form: Oral Narrath’e (Hình thirc folklore:
Tự sự truyền miệng), Journal of American Folklore, No 78, p. 3-20.
17
- ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀ VIỆC VAN bản h ó a .
ngay từ đầu, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đã chọn một lối đi khác
hẳn. Với những kinh nghiệm từ chuyên môn dân tộc học và từ việc
nghiên cứu truyền thuyết Hungary, Linda Dégh đã nhanh chóng băt
nhịp với những yêu cầu đặt ra từ thực tế tư liệu folklore Hoa Kỳ và
tạo nên một trường phái mới trong nghiên cứu truyền thuyêt thê
giới (còn được gọi là trường phái Indiana) về một bộ phận truyên
thuyết không phải của nông dân mà của dân thành thị, không phải
của người già mà hầu hết là của lớp trẻ, không phải là truyền thống
mà hoàn toàn mới mẻ, thậm chí đang trong giai đoạn thành hình.
Bộ phận truyền thuyết này được gọi là truyền thuyết đương đại -
contemporary legend, hoặc truyền thuyết đô thị - urban legend. Nói
một cách ngắn gọn, truyền thuyết đương đại là mẩu kê rời rạc có
mục đích chia sẻ của một người với cộng đồng về sự hiện hữu của
phép lạ mà người kể chuyện được can dự hay biết chắc đã xảy ra;
những câu chuyện này có màu sắc nửa hư nửa thực. Nhóm truyền
thuyết này chưa tồn tại dưới dạng những truyện độc lập xét từ góc
độ trần thuật, mà chỉ tồn tại dưới dạng các tin đồn. Và điều đặc biệt
của dạng truyền thuyết này là sự ám ảnh, lan tỏa và thu hút sự quan
tâm lớn của cộng đồng, là việc tạo nên một loại "diễn đàn" cho sự
chia sẻ của các thành viên trong cộng đồng. Trong khi các truyền
thuyết về lịch sử trong quá khứ dường như đã hoàn tất và người
đương thời ứng xử với nó theo những mô thức đã được cộng đồng
chấp nhận thì truyền thuyết đương đại là một hệ thống mở, mời gọi
mọi người cùng suy ngẫm về những vấn đề đang xảy ra bàng cách
chia sẻ trải nghiệm của mình. Có một điểm chung ở nhiều quốc gia
là, có những khoảng thời gian khá dài, xã hội ở trong tình trạng
biến chuyển chậm, một số giá trị được định hình, vì thế, con người
sổng trong các giai đoạn đó tuân theo các công thức ứng xử chung
của cộng đồng. Tuy nhiên, ở những giai đoạn xã hội thay đổi với
tốc độ nhanh, các hệ giá trị thay đổi, con người bị rơi vào một trạng
thái ít nhiều chơi vơi thiếu điểm tựa; vì vậy, có nhu câu mãnh liệt
về sự chia sẻ những trải nghiệm của bản thân với cộng đông cũne
như nhận sự sẻ chia của người khác. Tình trạng này đặc biệt điên
hình cho bối cảnh đương đại, không riêng bất cứ quôc gia nào. C ác
nhà nghiên cứu truyền thuyết H o a K ỳ đ ã mau chóng năm b a t n h u
cầu của con người trong những giai đoạn xã hội nhiêu đôi th a y và
18
- ________ Chương 1 Truyền thuyết với tư cách là một thể loại...
từ đó, họ nhận ra và thu thập được những câu chuyện lan truyền trong
các cộng đồng dân cư.
Với hướng đi này, có thể nói, những tìm tòi của các nhà nghiên
cứu truyền thuyết Hoa Kỳ là sự cố gắng bứt phá, thoát ra khỏi ảnh
hưởng của truyền thống nghiên cứu truyền thuyết châu Ầu, từ bóng
trùm rợp của hai anh em Grimm để bắt nhịp được với những chuyển
biến nhanh của đời sống. Với các bộ sưu tập công phu về vô số các
bản kể truyền thuyết đương đại, với các công trình nghiên cứu kỹ
lưỡng, với hội thảo đột phá vào năm 1969, các tên tuổi Linda Dégh,
Jan Harold Brunvand, Wayland D. Hand đã được thế giới biết đến
như phát hiện của nước Mỹ về những khám phá mới mè, những
sáng tạo không ngừng trong việc tìm kiếm sự bí ẩn không cùng của
đời sống tâm linh con người. Có thể kể tên một số công trình tiêu
biểu như: Wayland D.Hand, 1971: Truyền thuyết dân gian Mỹ: Kỷ
yếu Hội thảo; Jan H.Brunvand, 1981: Ngiĩời khách quá giang; Linda
Degh, 2001: Truyền thuyết và niềm tin - Phép biện chứng của một thể
loại folklore; Jan Harold Brunvand, 2001: Bách khoa thư về trưyền
thuyết đô th ị...
Sự tìm tòi của các nhà nghiên cứu truyền thuyết Hoa Kỷ đã gây
một hiệu ứng mạnh mẽ tới các nhà nghiên cứu truyền thuyết châu
Âu. Năm 1982, tại Trường Đại học Sheffield của nước Anh, một
hội nghị quốc tế về truyền thuyết đương đại được tổ chức. Tại hội
nghị này, các nhà khoa học châu Âu và Hoa Kỳ đã cùng bàn bạc
sâu về truyền thuyết đương đại. Kỷ yếu hội nghị được xuất bản sau
đó hai năm, năm 1984. Từ sau hội nghị này, truyền thuyết đương
đại nhận được sự quqn tâm rộng rãi và đó là tiền đề cho sự ra đời
của Hội Nghiên cứu truyền thuyết đương đại quốc tế (International
Society for Contemporary Legend Research)1 vào cuối thập niên 80
thế ki XX và cơ quan ngôn luận của nó, tờ Truyền thuyết đương
đại (Contemporary Legend) (mà số lượng các nhà khoa học Hoa Kỳ
1. Hội Nghiên cứu Truyền thuyết đương đại quốc tế (International Society for
Contemporary Legend Research - ISCLR) được thành lập năm 1988 với
mục đích không chi nghiên cứu truyền thuyết đương đại hay truyền thuyết
đô thị mà mở rộng phạm vi nghiên cứu các truyền thuyết đang được kể
lại, được lưu truyền trong cộng đồng (any legend that circulates actively).
19
nguon tai.lieu . vn