Xem mẫu
- Đặc điểm sinh học và sinh thái của tôm sú
PHÂN LOÀI
Tôm sú (Tên tiếng Anh: Giant/Black Tiger Prawn) được
định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Monodon
Tên khoa học: Penaeus monodon Fabricius
CẤU TẠO
Nhìn từ bên ngoài, tôm gồm các bộ phận sau:
chủy: dạng như lưỡi kiếm, cứng, có răng cưa. Với tôm
sú, phía trên chủy có 7-8 răng và dưới chủy có 3 răng.
mũi khứu giác và râu: cơ quan nhận biết và giữ thăng
bằng cho tôm
- 3 cặp chân hàm: lấy thức ăn và bơi lội
5 cặp chân ngực: lấy thức ăn và bò
cặp chân bụng: bơi
đuôi: có 1 cặp chân đuôi để tôm có thể nhảy xa, điều
chỉnh bơi lên cao hay xuống thấp.
bộ phận sinh dục (nằm dưới bụng)
Tôm sú thuộc loại dị hình phái tính, con cái có kích thước
to hơn con đực. Khi tôm trưởng thành phân biệt rõ đực cái,
thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài.
Con đực: cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía
trong phần đầu ngực, bên ngoài có cơ quan giao phối phụ
nằm ở nhánh ngoài đôi chân ngực thứ 2, lỗ sinh dục đực
mở ra hốc háng đôi chân ngực thứ 5. Tinh trùng thuộc dạng
chứa trong túi.
Con cái: Buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai
ống dẫn trứng mở ra ở khớp háng đôi chân ngực thứ 3. Bộ
phận chứa túi tinh gồm 2 tấm phồng lên ở đôi chân ngực
thứ 4 và thứ 5 dưới bụng tôm.
PHÂN BỐ
- Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ ấn Độ Dương qua
hướng Nhật Bản, Đài Loan, phía Đông Tahiti, phía Nam
châu Úc và phía Tây châu Phi (Racek - 1955, Holthuis và
Rosa - 1965, Motoh - 1981, 1985) Nhìn chung, tôm sú phân
bố từ kinh độ 30E đến 155E từ vĩ độ 35N tới 35S xung
quanh các nước vùng xích đạo, đặc biệt là Indonesia,
Malaixia, Philippines và Việt Nam.
Tôm bột (PL.), tôm giống (Juvenile) và tôm gần trưởng
thành có tập tính sống gần bờ biển và rừng ngập mặn ven
bờ. Khi tôm trưởng thánh di chuyển xa bờ vì chúng thích
sống vùng nước sâu hơn.
Chu kì sống của tôm sú
Các giai đoạn phát triển ấu trùng tôm sú :
Nauplli: 6 giai đoạn: 36-51 giờ, các Nauplli bơi từng đoạn
ngắn rồi nghỉ, lột vỏ 4 lần, mỗi lần khoảng 7 giờ, tự sống
bằng noãn hoàng, không cần cho ăn
N1: dài khoảng 0.40mm, dày 0.20mm
N2: dài khoảng 0.45mm, dày 0.20mm
N3: dài khoảng 0.49mm, dày 0.20mm
- N4: dài khoảng 0.55mm, dày 0.20mm
N5: dài khoảng 0.61mm, dày 0.20mm
Zoea: 3 giai đoạn: 105-120 giờ
, các Zoea bơi liên tục gần mặt nước, lột vỏ 2 lần, mỗi lần
khoảng 36 giờ, ăn thực vất phiêu sinh.
Z1: dài khoảng 1mm, dày 0.45mm, xuất hiện hai phần
dầu và bụng rõ rệt.
Z2: dài khoảng 1.9mm, xuất hiện mặt và chủy.
Z3: dài khoảng 2.7mm, xuất hiện gai trên bụng.
Mysis: 3 giai đoạn : 72 giờ, các Mysis bơi hướng xuống
sâu, đuôi đi trước, đầu đi sau.
M1: dài khoảng 3.4mm, có hình dạng của tôm trưởng
thành, xuất hiện các cặp chân bụng, đuôi và quạt đuôi, các
gai bụng thu nhỏ lại.
M2: dài khoảng 4.0mm.
M3: dài khoảng 4.4mm, chân bụng dài hơn, phân
thành đốt nhỏ, xuất hiện răng trên chủy.
Postlarvae: giai đoạn gần trưởng thành
- Juvenile: giai đoạn trưởng thành.
Tuổi thành thục: tuổi thành thục sinh dục của tôm đực và
tôm cái từ tháng thứ 8 trở đi. Xác định sự thành thục của
tôm cái dễ hơn, chỉ cần quan sát có túi tinh ở cơ quan sinh
dục phụ. Phương pháp xác định thành thục ở con đực khó
hơn, chỉ khi nào tìm thấy được tinh trùng ở cuối ống dẫn
tinh. Thường dựa vào trọng lượng để xác định khi con đực
nặng từ 50g trở lên.
Hormone điều khiển sự thành thục sinh dục (GIH, gonal
inhibiting hormone) được sản xuất bởi tế bào thần kinh
trong cơ quan X của cuống mắt, vận chuyển tới tuyến giáp
sinap đưa vào kho dự trữ và khi cần thì tiết ra. Sự thành
thục sinh dục của tôm sú thông qua tác động của tuyến nội
tiết, khi cắt mắt tức là thúc đẩy chu kỳ lộ xác, đem lại sự
thành thục mau chóng hơn.
Số lượng trứng đẻ của tôm cái: nhiều hay ít là phụ thuộc
vào chất lượng buồng trứng và trọng lượng cá thể: trọng
lượng lớn cho trứng nhiều hơn. Khi con cái thành thục
ngoài tự nhiên có trọng lượng từ 100-300g cho 300.000 -
1.200.000 trứng. Nếu cắt mắt nuôi vỗ trong bể xi măng,
- thành thục và đẻ, cho số lượng trứng từ 200.000- 600.000
trứng.
Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ)
trứng sau khi đẻ được 14-15 giờ, ở nhiệt độ 27-28C sẽ nở
thành ấu trùng (Nauplii). Tôm sú đẻ quanh năm, nhưng tập
trung vào hai thời kỳ chính: tháng 3-4 và tháng 7-10.
Tuổi thọ tôm sú con đực khoảng 1,5 năm, con cái chừng 2
năm.
TẬP TÍNH ĂN
Tôm sú là loại ăn tạp, thích các động vật sống và di chuyển
chậm hơn là xác thối rữa hay mảnh vụn hữu cơ, đặc biệt ưa
ăn giáp xác, thực vật dưới nước, mảnh vụn hữu cơ, giun
nhiều tơ, loại 2 mảnh vỏ, côn trùng. Tôm sống ngoài tự
nhiên ăn 85% là giáp xác, cua nhỏ, động vật nhuyễn thể hai
mảnh vỏ, còn lại 15% là cá, giun nhiều tơ, thuỷ sinh vật,
mảnh vụn hữu cơ, cát bùn.
Trong tự nhiên, tôm sú bắt mồi nhiều hơn khi thuỷ triều
rút. Nuôi tôm sú trong ao, hoạt động bắt mồi nhiều vào
sáng sớm và chiều tối. Tôm bắt mồi bằng càng, sau đó đẩy
- thức ăn vào miệng để gặm, thời gian tiêu hoá 4-5 giờ trong
dạ dày.
LỘT XÁC
Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng và kích thước
tăng lên mức độ nhất định, tôm phải lột bỏ lớp vỏ cũ để lớn
lên. Sự lột xác thường xảy ra vào ban đêm. Sự lột xác đi
đôi với việc tăng thể trọng, cũng có trường hợp lột xác
nhưng không tăng thể trọng.
Khi quan sát tôm nuôi trong bể, hiện tượng lột xác xảy ra
như sau: Lớp biểu bì giữa khớp đầu ngực và phần bụng
nứt ra, các phần phụ của đầu ngực rút ra trước, theo sau là
phần bụng và các phần phụ phía sau, rút ra khỏi lớp vỏ
cứng, với động tác uốn cong mình toàn cơ thể. Lớp vỏ mới
mềm sẽ cứng lại sau 1-2 giờ với tôm nhỏ, 1-2 ngày đối với
tôm lớn. Tôm sau khi mới lột xác, vỏ còn mềm nên rất
nhạy cảm với môi trường sống thay đổi đột ngột. Trong quá
trình nuôi tôm, thông qua hiện tượng này, có thể điều chỉnh
môi trường nuôi kịp thời.
- Hormone hạn chế sự lột xác lột xác (MIH, molt - inhibiting
hormone) được tiết ra do các tế bào trong cơ quan của
cuống mắt, truyền theo sợi trục tuyến xoang, chúng tích
luỹ lại và chuyển vào trong máu, nhằm kiểm tra chặt chẽ
sự lột xác. Các yếu tố bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ
mặn, điều này có ảnh hưởng tới tôm đang lột xác.
nguon tai.lieu . vn