Xem mẫu
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA HÀN QUỐC ĐƢỢC BIỂU HIỆN
QUA YẾU TỐ “TTEOK” TRONG QUÁN DỤNG NGỮ VÀ TỤC NGỮ
TIẾNG HÀN
Nguyễn Võ Phƣơng Thanh
Trƣờng Đại Học Ngoại Ngữ - Tin Học Thành Phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Tteok đƣợc biết đến nhƣ là một trong những món ăn truyền thống nổi tiếng của Hàn
Quốc. Bài viết vận dụng các lý thuyết văn hóa học, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp,
phƣơng pháp thu thập ngữ liệu và thống kê, để tìm hiểu vị trí của Tteok trong ngôn ngữ
và văn hóa Hàn Quốc. Phong phú và đa dạng với hơn 300 loại, Tteok không chỉ là món
ăn ngày thƣờng mà còn là món ăn không thể thiếu trong những phong tục tập quán truyền
thống của ngƣời Hàn Quốc. Bên cạnh đó, hình ảnh Tteok cũng xuất hiện rất nhiều trong
quán dụng ngữ, tục ngữ, góp phần phản ánh tƣ duy và lối sống của ngƣời Hàn Quốc.
Chính vì vậy, có thể nói rằng Tteok chính là chìa khóa quan trọng giúp ngƣời học tiếng
Hàn tìm hiểu về ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc.
Từ khóa
tteok, văn hóa, ngôn ngữ, Hàn Quốc
1. Mở đầu
Trong ẩm thực Hàn Quốc, Tteok (떡) hay còn đƣợc gọi là ―bánh gạo Hàn Quốc‖, không chỉ là
món ăn đƣợc ƣa chuộng vào ngày thƣờng mà còn là món ăn không thể thiếu trong các phong
tục tập quán truyền thống của ngƣời Hàn Quốc. Lịch sử nghiên cứu các đề tài về văn hóa Hàn
Quốc cho thấy ―Tteok‖ là yếu tố văn hóa luôn đƣợc đề cập đến trong rất nhiều tác phẩm
nghiên cứu tại Hàn Quốc. Hình ảnh và tầm quan trọng của Tteok nói chung trong đời sống xã
hội của ngƣời Hàn Quốc đã đƣợc khái quát trong một số tác phẩm nhƣ: ―한국 문화의 이해
(Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc)‖ của tác giả Im Gyeong Sun (2009), ―의식주 생활 - 한국
민속학 새로 읽기 (Đọc hiểu về dân tộc Hàn Quốc, văn hóa ăn mặc ở)‖ của tác giả Bae
Yeong Dong (2001), ―한국의 풍속 민간 신앙 (Phong tục Hàn Quốc - tín ngƣỡng dân gian)‖
của tác giả Choi Jun Sik (2005), ―한식의 도를 담다 (Đạo trong ẩm thực Hàn Quốc)‖ của tác
giả Kim Sang Bo (2017). Bên cạnh đó, có thể nói rằng trong từ vựng tiếng Hàn, Tteok là một
từ vô cùng đặc biệt bởi vì Tteok đƣợc sử dụng nhƣ là một hình ảnh ẩn dụ trong các biểu hiện
ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt xã hội của ngƣời Hàn Quốc thông qua các câu tục ngữ hay
quán dụng ngữ. Hình ảnh ―Tteok‖ luôn xuất hiện trong các tác phẩm viết về tục ngữ, quán
dụng ngữ tiếng Hàn, ví dụ nhƣ tác phẩm ―속담으로 배우는 한국어 2 (Học tiếng Hàn qua tục
ngữ)‖ của tác giả Choi Gwon Ji (2007), ―속담 한 상 푸짐하네! (Tục ngữ thật phong phú)‖
của tác giả Park Jeong Ah (2015), ―관용어와 속담으로 배우는 한국어 (Học tiếng Hàn qua
quán ngữ và tục ngữ)‖ của tác giả Won Eun Yeong – Lee Gyeong Ah (2018)... Nhìn chung,
đề tài về ―Tteok‖ từ lâu đã nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc. Qua đó
có thể thấy rằng Tteok chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong văn hóa đời sống xã hội của
426
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
ngƣời Hàn Quốc. Đa số các tác phẩm có yếu tố ―Tteok‖ thƣờng đề cập khái quát đến ―Tteok‖
nói chung nhƣ là một đặc trƣng của văn hóa Hàn Quốc. Trong các tác phẩm viết về tục ngữ và
quán dụng ngữ, các tác phẩm tập trung giải thích ý nghĩa các câu tục ngữ và quán dụng ngữ.
Đặc biệt, có tác phẩm ―쉽게 맛있게 아름답게 만드는 떡 (Làm Tteok ngon và đẹp mắt một
cách dễ dàng)‖ xuất bản năm 1999 của tác giả Han Bok Ryeo có nội dung cụ thể và chi tiết
hơn về Tteok. Trong tác phẩm này, tác giả tìm hiểu về cách làm của hơn 100 loại Tteok,
nguyên liệu và dụng cụ làm Tteok, Tteok trong văn hóa Hàn Quốc và các câu tục ngữ có
―Tteok‖.
Việc tìm hiểu và mở rộng kiến thức văn hóa của một nƣớc khi đang theo học hoặc
nghiên cứu ngôn ngữ của đất nƣớc đó là điều tất yếu và cần thiết. Và dựa trên quan điểm
―Đặc điểm ngôn ngữ và bản sắc văn hóa có mối liên hệ hữu cơ. Ngôn ngữ vừa là một trong
những thành tố của văn hóa, vừa là công cụ biểu hiện có hiệu quả nhất của một nền văn hóa.
Hơn thế nữa, ngôn ngữ còn phản ánh tâm hồn, tình cảm của nhân dân mình‖ [Bùi Khánh Thế
(2012), trang 188], có thể nói rằng Tteok là một trong những công cụ biểu hiện tiêu biểu trong
ngôn ngữ Hàn Quốc. Chính vì vậy, trên tinh thần kế thừa và tiếp thu các công trình nghiên
cứu đi trƣớc, thông qua đối tƣợng nghiên cứu là yếu tố ―Tteok‖ đƣợc xuất hiện trong các quán
dụng ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và trên cơ sở vận dụng các lý thuyết văn hóa học, phƣơng pháp
phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp thu thập ngữ liệu và thống kê, chúng tôi phân tích 10 câu
quán dụng ngữ, 28 câu tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố ―Tteok‖ đƣợc tổng hợp từ các tài liệu
tham khảo tiếng Hàn để tìm hiểu vị trí của Tteok trong ngôn ngữ, văn hóa Hàn Quốc. Đồng
thời thông qua đó, góp phần tìm hiểu đặc điểm về ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Hƣớng tiếp cận địa văn hóa
Các lý thuyết về địa văn hóa cho thấy tầm quan trọng của khí hậu và địa lý trong việc
hình thành và phát triển văn hóa của mỗi vùng, mỗi quốc gia dân tộc. Con ngƣời sống trong
môi trƣờng tự nhiên và có mối quan hệ mật thiết với tự nhiên, vì thế quá trình sáng tạo ra các
giá trị văn hóa của một dân tộc một phần phụ thuộc vào môi trƣờng tự nhiên của dân tộc đó.
Quyết định luận địa lý tự nhiên cũng cho rằng môi trường tự nhiên là yếu tố quyết định sự
phát triển của xã hội loài người và văn hóa của con người. Ngày nay, quan điểm của quyết
định luận địa lý đã trở nên lạc hậu bởi vì con ngƣời, với năng lực ƣu tú của mình đã và đang
tiếp tục phát triển, chinh phục tự nhiên để tự quyết định và cải thiện môi trƣờng sống của
mình đồng thời góp phần vào sự phát triển văn hóa, văn minh của xã hội loài ngƣời. Mặc dù
vậy, chúng ta không thể phủ nhận sự tác động và sức ảnh hƣởng của môi trƣờng địa lý, khí
hậu lên đời sống ăn, mặc, ở của con ngƣời và đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong nền văn
hóa truyền thống của mỗi dân tộc.
Tsunesaburo Makiguchi, một nhà giáo dục và địa lý nổi tiếng ngƣời Nhật vào thế kỷ
XX cho rằng: ―Phong tục phản ánh bản chất và tình cảm của một dân tộc. Cũng nhƣ tính khí
con ngƣời bị ảnh hƣởng bởi những đặc điểm địa lý của môi trƣờng, phong tục cũng bị ảnh
hƣởng bởi địa lý‖ [Tsunesaburo Makiguchi (2004), trang 331]. Trong nội dung này, ông đã
bàn luận về phong tục theo ba nhu cầu cơ bản của đời sống con ngƣời đó chính là ăn, mặc, ở.
427
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Dựa trên quan điểm này của ông, có thể thấy rằng khí hậu địa lý tự nhiên có những ảnh hƣởng
quan trọng chi phối đến việc ―ăn‖ của con ngƣời và đƣợc thể hiện cụ thể qua ẩm thực, nhất là
ẩm thực truyền thống.
Trên cơ sở đó, trong văn hóa ẩm thực truyền thống, phần lớn nguyên liệu và cách chế
biến món ăn của một dân tộc sẽ đƣợc quyết định và ảnh hƣởng bởi đặc trƣng địa lý của dân
tộc đó. Đặc trƣng ẩm thực truyền thống và phong tục ăn uống của ngƣời Hàn Quốc cũng
không ngoại lệ. ―Trên cơ sở tƣơng đồng về nền kinh tế trồng lúa nƣớc và các điều kiện tự
nhiên mà lƣơng thực, thực phẩm chính để đảm bảo đời sống trong lĩnh vực ăn uống của Hàn
Quốc và Việt Nam khá tƣơng đồng. Gạo (nếp và tẻ) cũng nhƣ các sản phẩm chế biến từ gạo:
cơm, xôi, bánh làm từ gạo, bún, mì,... là lƣơng thực chính có mặt trong cả bữa cơm thƣờng
ngày cũng nhƣ trong lễ hội của cƣ dân hai quốc gia từ hàng ngàn năm nay‖ [Trần Thị Thu
Lƣơng (2016), trang 203]. Qua đó, có thể nhận định rằng, ngoài cơm lƣơng thực chính, thì
Tteok - món ăn đƣợc làm chủ yếu từ gạo nếp có thể đƣợc xem là lƣơng thực thiết yếu trong
ẩm thực Hàn Quốc.
2.2. Hƣớng tiếp cận chức năng luận
Theo các nhà nhân học văn hóa theo lý thuyết Chức năng tâm lý học, các thiết chế văn
hóa có chức năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản về vật lý và tâm lý của con ngƣời trong xã hội
[R. Jon Mcgee – Richard L. Warms (2010), trang 207]. Bronislaw Malinowski (1884 – 1942),
nhà nhân học văn hóa theo trƣờng phái chức năng về tâm lý cho rằng “mỗi nền văn hóa có
thể hiểu như một toàn thể hữu cơ của những thể chế” và những thể chế này tƣơng ứng với
những nhu cầu cơ bản nhất trong cuộc sống của con ngƣời. Thức ăn, trƣớc hết có chức năng
đảm bảo nhu cầu tất yếu chung của con ngƣời là nuôi sống cơ thể và cung cấp dinh dƣỡng bảo
vệ sức khỏe. Thức ăn thƣờng đƣợc đƣợc chia làm hai loại, đó là thức ăn ngày thƣờng (đƣợc
ăn vào ngày thƣờng) và thức ăn đặc biệt (đƣợc ăn vào những dịp đặc biệt nhƣ hôn lễ, tang lễ,
tế lễ, tiệc mừng thọ 60 tuổi, tiệc sinh nhật,...). Vì vậy, ngoài việc đáp ứng nhu cầu vật lý trong
đời sống thƣờng ngày, thức ăn còn có chức năng phục vụ các nhu cầu tâm lý và tinh thần
trong của con ngƣời thông qua các phong tục, tập quán, lễ nghi.
―Thức ăn Hàn Quốc có thể đƣợc chia thành thức ăn chính, thức ăn phụ, Tteok và
Hangwa (한과)32, chè hoa quả, trà,...‖ [Lim Gyeong Sun (2009), trang 110]. Trƣớc tiên có thể
kể đến Garaetteok (가래떡)33, một loại Tteok có thể đƣợc dùng làm nguyên liệu chính của
một món ăn và món ăn làm từ Garaetteok mà ngƣời Hàn Quốc thƣờng ăn vào ngày Tết chính
là ―Canh Tteok‖ (떡국). Theo phong tục thì ―Canh Tteok‖ là món ăn truyền thống mà ngƣời
Hàn Quốc ăn vào ngày 1.1 Tết âm lịch, với quan niệm là đánh dấu sự kiện con ngƣời thêm
một tuổi mới. ―Canh Tteok‖ cũng là một món ăn ngày thƣờng đƣợc ngƣời Hàn Quốc yêu
thích. Bên cạnh đó, còn có một số món ăn làm từ Garaetteok cũng rất đƣợc ƣa chuộng vào
ngày thƣờng. Đầu tiên chính là món ―Tteok xào cay‖ (떡볶이), một món ăn đại chúng mà
thông qua làn sóng văn hóa Hàn Quốc đã đƣợc phổ biến ra khắp thế giới và đƣợc nhiều ngƣời
32
Hangwa (한과) là một thuật ngữ dùng chung cho tất cả các loại bánh truyền thống của Hàn Quốc.
33
Garaetteok (가래떡) là một loại Tteok dài, hình trụ, màu trắng. Món ăn tiêu biểu nhất đƣợc làm từ Garaetteok
là canh Tteok, đây là món ăn truyền thống vào ngày Tết 1.1 âm lịch của Hàn Quốc.
428
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
yêu thích. Tiếp theo có thể kể đến các món nhƣ là ―Pizza Tteok‖ (떡피자), ―Mì gói Tteok‖
(떡라면), ―Tteok xào cung đình‖ (궁중 떡볶이)34, ―Sườn cuộn Tteok nướng‖(떡갈비),...Bên
cạnh đó, Garaetteok cũng là một nguyên liệu phụ xuất hiện trong nhiều món ăn nhƣ ―Gà hầm‖
(찜닭), ―Sườn ram‖ (갈비찜), ―Canh kim chi‖ (김치찌개), ―Canh cá cay‖ (매운탕), ―Cơm
chiên‖ (볶음밥),...Ngoài ra, các loại Tteok khác đƣợc sử dụng trong những dịp khác nhau và
đều mang ý nghĩa riêng. Chẳng hạn nhƣ món ăn mà ngƣời Hàn Quốc thƣờng ăn vào ngày
chuyển nhà chính là ―Bánh Tteok đỏ‖ (붉은 떡), với ý nghĩa màu đỏ mang lại sự may mắn sẽ
giúp cho việc chuyển nhà đƣợc thuận lợi, suôn sẻ.
Chính vì vậy, có thể nói rằng Tteok là món ăn phục vụ nhu cầu vật lý trong đời sống
vật chất hàng ngày, đồng thời còn thực hiện chức năng tâm lý trong đời sống văn hóa tinh
thần của ngƣời Hàn Quốc.
2.3. Hƣớng tiếp cận ký hiệu học văn hóa
―Ký hiệu học (Semiotik) là một học thuyết nghiên cứu các dấu hiệu, ký hiệu. Ký hiệu
học văn hóa, một học thuyết ra đời muộn hơn đề cập sau đó đã cho chúng ta thấy một điều là
các nền văn hóa không chỉ bao gồm sự chuẩn mực hóa mà còn cả các dấu hiệu trong cùng một
nhóm. Vâng, sự chuẩn mực hóa bản thân nó đã là một dấu hiệu, ký hiệu và ngƣợc lại phần lớn
các ký hiệu đều đƣợc chuẩn mực hóa, và giống nhƣ trong ngôn ngữ những ký hiệu này đã
đƣợc thể chế hóa‖ [Nguyễn Tri Nguyên (2011), trang 22]. Do đó, mỗi hiện tƣợng hay giá trị
văn hóa đều bao hàm một hệ thống ký hiệu ẩn chứa bên trong mà ngƣời làm công tác nghiên
cứu văn hóa cần phải tiến hành giải mã.
Tteok không chỉ đơn thuần là món ăn phục vụ nhu cầu đời sống vật chất của ngƣời
Hàn Quốc mà còn là cả một hệ thống ký hiệu đƣợc dùng rất nhiều trong giao tiếp ngôn ngữ và
giao tiếp văn hóa của ngƣời Hàn Quốc. Với sự đa dạng về chủng loại, mỗi loại Tteok đều
mang một ý nghĩa văn hóa biểu trƣng tùy theo tình huống sử dụng góp phần phản chiếu văn
hóa Hàn Quốc. Ví dụ nhƣ, theo phong tục thì món ăn truyền thống tiêu biểu của ngƣời Hàn
Quốc vào Tết Trung thu chính là ―Songpyeon‖ (송편). ―Songpyeon‖ là món Tteok hấp, có
hình bán nguyệt, đƣợc trang trí với lá thông và là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng tổ
tiên trong dịp Tết Trung thu, một dịp Tết trọng đại của ngƣời Hàn Quốc. Tƣơng truyền rằng
vào dịp này, các cô gái nếu nặn đƣợc một chiếc bánh ―Songpyeon‖ đẹp thì sẽ gặp đƣợc một
chú rể tốt trong tƣơng lai; còn phụ nữ mang thai nếu nặn đƣợc một chiếc bánh ―Songpyeon‖
đẹp thì sẽ sinh ra một cô con gái xinh đẹp. Ngoài ra, hình ảnh Tteok nói chung trong các biểu
hiện ngôn ngữ Hàn Quốc cũng rất phong phú, và mỗi trƣờng hợp đều mang những ý nghĩa ẩn
dụ riêng biệt. Chẳng hạn nhƣ câu ―Bánh Tteok vừa miệng‖ hay ―Bánh Tteok hợp khẩu vị‖
(입에 맞는 떡) là cách nói ẩn dụ, ý chỉ ―một món đồ vật hoặc một sự việc nào đó mà chúng ta
hài lòng, vừa ý‖. Hoặc câu nói ―Tteok rơi xuống từ trên kệ‖ (선반에서 떨어진 떡), nghĩa là
vì Tteok tự rơi xuống nên chúng ta không cần tốn sức cũng có thể lấy đƣợc nó; có ý nghĩa ẩn
dụ là ―may mắn thu đƣợc lợi ích lớn mà không cần phải nỗ lực hay cố gắng hết sức‖.
34
―Tteok xào cung đình”(궁중 떡볶이) là món ăn trong cung từ ngày xƣa; đƣợc làm từ Garaetteok, rau, thịt và
gia vị chủ yếu là nƣớc tƣơng; không cay nên thích hợp với trẻ em hoặc những ngƣời không ăn cay.
429
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Tóm lại, những ý nghĩa ẩn chứa thông qua Tteok đƣợc giải mã sẽ giúp chúng ta hiểu
thêm về phong tục, lối sống của ngƣời Hàn Quốc và tƣ duy nhận thức của họ qua sự thú vị
của ngôn ngữ Hàn Quốc.
2.4. Hƣớng tiếp cận ngôn ngữ học
―Mối liên hệ giữa ngôn ngữ và hoạt động nhận thức là mối liên hệ của một cơ chế hai
mặt thống nhất không tách rời. Vì không có một hoạt động nhận thức nào tách khỏi ngôn ngữ
mà có thể trở thành hiện thực; và ngƣợc lại, không có một dạng ngôn ngữ nào đƣợc định hình
mà tách khỏi nhận thức‖ [Nguyễn Lai (2004), trang 26]. Karl Marx cũng từng nói “Ngôn ngữ
là hiện thực trực tiếp của tư tưởng”. Qua đó, có thể khẳng định rằng ngôn ngữ và tƣ duy có
mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. Ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của tƣ duy hay nói
cách khác, tất cả các hoạt động tƣ duy của con ngƣời đều đƣợc biểu hiện thông qua công cụ là
ngôn ngữ.
―Theo sự khẳng định của F.de.Saussure cũng nhƣ nhiều nhà khoa học xã hội khác, thì
ngôn ngữ và văn hóa nói chung đều là những thiết chế trừu tƣợng, chúng dần dần đƣợc hình
thành cùng với sự phát triển của con ngƣời và xã hội‖ [Nguyễn Lai (2004), trang 192]. Vì thế
ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ tƣơng hỗ với nhau. Và bên cạnh đó, trong quá trình tổ
chức đời sống vật chất và tinh thần, ngôn ngữ là công cụ cần thiết để con ngƣời giao tiếp hay
diễn đạt suy nghĩ của mình. Do đó, các sản phẩm hay giá trị văn hóa sinh ra trong qua trình đó
đều đƣợc thể hiện thông qua ngôn ngữ. Từ mối quan hệ không tách rời giữa ngôn ngữ và tƣ
duy, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ cũng đƣợc xem nhƣ là công cụ để giải
mã các sự vật, hiện tƣợng, hay các giá trị thuộc phạm trù văn hóa.
Trong nhận thức của ngƣời Hàn Quốc, có lẽ Tteok là món ăn quen thuộc và cần thiết
nên đã có một vị trí đặc biệt quan trọng trong ngôn ngữ Hàn Quốc. Chính vì thế mà hình ảnh
Tteok đƣợc sử dụng làm nghĩa ẩn dụ trong rất nhiều các quán dụng ngữ hay các câu tục ngữ
trong tiếng Hàn. Ví dụ nhƣ câu tục ngữ ―Nằm mà ăn bánh Tteok‖ (누워서 떡먹기), ý chỉ
những việc dễ dàng, không cần tốn nhiều công sức cũng có thể làm đƣợc, tƣơng đƣơng với
câu tiếng Việt nhƣ ―dễ nhƣ ăn cháo‖, ―dễ nhƣ trở bàn tay‖. Hay một câu tục ngữ khác là―Đồ
rẻ là bánh Bijitteok‖ (싼 것이 비지떡) có ý nghĩa tƣơng đƣơng với câu ―tiền nào của ấy‖
trong tiếng Việt; bởi vì ―Bijitteok‖ (비지떡) hay ―bánh bã đậu‖ là một loại Tteok đƣợc làm
bằng cách cho bột mì hay bột gạo vào bã đậu rồi làm nên hình ảnh Tteok trong câu tục ngữ
trên là một cách nói ẩn dụ để chỉ những món đồ rẻ và không có chất lƣợng, không có giá trị
nhƣ ―bã đậu‖. Thông qua những câu tục ngữ này, một phần nào đó ta có thể tìm hiểu về tƣ
duy, lối sống, đặc trƣng ứng xử của ngƣời Hàn Quốc với môi trƣờng xã hội.
Đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc đƣợc biểu hiện qua yếu tố “Tteok” có trong
quán dụng ngữ và tục ngữ tiếng Hàn
2.5. Đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc biểu hiện qua yếu tố “Tteok” có trong
quán dụng ngữ tiếng Hàn
Theo Viện ngôn ngữ quốc gia Hàn Quốc, ―quán dụng ngữ‖ là một cụm từ bao gồm hai
hoặc nhiều từ tạo thành, đƣợc sử dụng theo tập quán và mang một ý nghĩa đặc biệt mà nếu chỉ
xét về ý nghĩa của mỗi từ thì không thể nào hiểu đƣợc. Có thể nói ngƣời Hàn Quốc có cảm
430
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
xúc tích cực về Tteok nên nhìn chung, hình ảnh Tteok trong các quán dụng ngữ thƣờng tƣợng
trƣng cho những điều tốt. Ví dụ nhƣ câu “기름떡 먹기” (Ăn Tteok dầu), “떡 먹듯” (Nhƣ ăn
Tteok) là các quán dụng ngữ có ý nghĩa tƣơng tự với câu ―dễ nhƣ ăn cơm bữa‖, ―dễ nhƣ trở
bàn tay‖, ―dễ nhƣ ăn cháo‖ trong tiếng Việt, ý chỉ những việc rất đơn giản và dễ dàng;
“떡같이 믿다” (Tin tƣởng nhƣ Tteok), nghĩa là rất lạc quan và tin tƣởng vào một ngƣời hay
một việc nào đó. Bên cạnh đó, hình ảnh Tteok tƣợng trƣng cho lợi ích và may mắn có thể kể
đến trong các quán dụng ngữ sau: “떡이 생기다” (Có Tteok), câu này ý nói rằng xuất hiện
một nguồn lợi bất ngờ ngoài mong đợi; “웬 떡이냐?” (Ôi, Tteok sao?), câu này thƣờng đƣợc
dùng khi bất ngờ gặp may mắn; “떡고물이 떨어지다” (Bột tẩm rơi xuống), câu này có nghĩa
là thu về lợi ích hoặc có thêm lợi ích trong công việc.
Ngoài ra, hình ảnh Tteok trong một số quán dụng ngữ khác phản ánh hiện thực trong
sinh hoạt đời sống xã hội của con ngƣời. Ví dụ nhƣ câu “떡 주무르듯 하다” (Nhƣ nhào nặn
bánh Tteok), câu này ý chỉ cách giải quyết công việc theo ý muốn của bản thân; “떡국을
먹다” (Ăn canh Tteok), câu này xuất phát từ món canh Tteok là món ăn truyền thống của
ngƣời Hàn Quốc trong ngày Tết và có nghĩa là đƣợc thêm một tuổi mới; “떡을 치다” (Giã
Tteok), câu này chỉ sự đầy đủ về mặt số lƣợng hoặc mức độ, ngoài ra còn có nghĩa là phá
hỏng, làm hỏng một việc gì đó; “그림의 떡” (Tteok trong tranh), câu này có nghĩa là ―bánh
vẽ‖, đƣợc sử dụng khi nói về những cái chúng ta rất thích nhƣng không thể sở hữu đƣợc hoặc
những mong ƣớc khó trở thành hiện thực hoặc không thể trở thành hiện thực.
2.6. Đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc biểu hiện qua yếu tố Tteok có trong tục
ngữ tiếng Hàn
Tục ngữ đƣợc hình thành và lƣu truyền trong dân gian. Tục ngữ phản ánh nhận thức
hoặc triết lý dân gian trong các hoạt động tổ chức đời sống xã hội. Hình tƣợng của tục ngữ
thƣờng đƣợc xây dựng bằng cách ẩn dụ, nhân hóa, so sánh,... Có lẽ đối với ngƣời Hàn Quốc,
Tteok là hình ảnh vô cùng thân quen nên trong kho tàng tục ngữ Hàn Quốc, Tteok chiếm vị trí
quan trọng đáng kể. Các câu tục ngữ thƣờng mang ý nghĩa rất gần gũi với cuộc sống của con
ngƣời và phong phú với nhiều lĩnh vực. Đó có thể là phê phán hoặc cũng có thể là khuyên răn
con ngƣời. Một số ví dụ điển hình nhƣ:
“보고 못 먹는 것은 그림의 떡” (Cái nhìn mà không thể ăn đƣợc là Tteok trong tranh):
câu tục ngữ này có ý nghĩa tƣơng tự nhƣ câu ―그림의 떡‖ (bánh vẽ); ngày nay nó còn mang
thông điệp là khuyến khích ngƣời ta phấn đấu, nỗ lực để có thể làm đƣợc những điều mình
muốn và mua đƣợc những cái mình thích một cách thoải mái.
“(제 떡보다) 남의 떡이 더 커 보인다” (Tteok của ngƣời khác trông lớn hơn của tôi):
câu tục ngữ này ý chỉ lòng tham của con ngƣời. Với tâm lý ―đứng núi này trông núi nọ‖,
ngƣời ta thƣờng không thỏa mãn với những gì mình có mà luôn so sánh với những ngƣời
xung quanh và cho rằng ngƣời khác đƣợc lợi ích nhiều hơn mình.
“떡 줄 사람은 생각도 않는데 김칫국부터 마신다”, “떡 줄 사람은 꿈도 안 꾸는데
김칫국부터 마신다” (Ngƣời cho Tteok còn chƣa nghĩ đến mà ta đã uống nƣớc kim chi):
431
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Tteok làm từ bột gạo hấp nên có thể khó nuốt và khó tiêu hóa. Vì thế, khi ăn Tteok, tổ tiên
ngƣời Hàn Quốc thƣờng hay uống nƣớc kim chi (ở đây ý chỉ nƣớc muối kim chi) để dễ tiêu
hóa. Thói quen này đƣợc đƣa vào câu tục ngữ trên, có nghĩa là ―ngƣời khác còn chƣa nghĩ đến
việc cho mình Tteok mà mình đã đi uống nƣớc kim chi rồi‖, ý chỉ hành động nóng vội dựa
trên suy đoán chủ quan trƣớc khi sự việc xảy ra, tƣơng tự với câu ―tƣởng bở‖ trong tiếng Việt.
Ngoài ra, còn có câu ―떡방아 소리 듣고 김칫국 찾는다‖ (Mới nghe tiếng giã Tteok mà đã
đi tìm nƣớc kim chi), nghĩa là mới nghe tiếng ngƣời khác giã bánh (làm Tteok) mà đã đi tìm
nƣớc kim chi. Các câu tục ngữ này muốn khuyên con ngƣời nên sáng suốt, không nên vội
vàng phán đoán để tránh hiểu lầm và gây khó xử cho đối phƣơng.
“가는 떡이 커야 오는 떡이 크다” (Tteok đi có lớn thì Tteok lại mới lớn): câu tục ngữ
này khuyên chúng ta nên nhẹ nhàng, hòa nhã và đối xử tốt với những ngƣời xung quanh, bởi
vì nếu chúng ta đối xử tốt với ngƣời khác thì ngƣời khác cũng sẽ đối xử tốt lại với chúng ta.
“보기 좋은 떡이 먹기도 좋다” (Tteok nhìn ngon thì ăn cũng ngon): câu tục ngữ này ý
nói hình thức cũng rất quan trọng, nên khi làm việc gì con ngƣời cũng nên chú ý đến hình
thức. Điều này đúng với tính cách của ngƣời Hàn Quốc, bởi vì họ rất ƣa chuộng cái đẹp và đề
cao hình thức. Điều đó đã đƣợc thể hiện rất rõ trong ẩm thực, thời trang, điện ảnh, âm nhạc,...
của ngƣời Hàn Quốc.
“어른 말을 들으면 자다가도 떡이 생긴다” (Nếu biết vâng lời ngƣời lớn thì khi mới
ngủ dậy cũng có Tteok ăn): câu tục ngữ này khuyên ngƣời ta nên nghe theo kinh nghiệm và
những lời chỉ dạy của ngƣời lớn để tránh gây ra sai lầm và đạt kết quả tốt. Câu này có ý nghĩa
tƣơng tự nhƣ câu tục ngữ tiếng Việt ―Cá không ăn muối cá ƣơn. Con cãi cha mẹ trăm đƣờng
con hƣ‖
“떡이 별 떡 있지, 사람은 별 사람 없다” (Tteok thì có nhiều loại nhƣng con ngƣời thì
không có sự khác biệt): câu tục ngữ này ý nói rằng Tteok thì có nhiều loại khác nhau, nhƣng
đã là con ngƣời thì ai ai cũng giống nhau mà không có nhiều khác biệt.
“떡 본 김에 제사 지낸다” (Nhân tiện nhìn thấy Tteok thì liền cúng tế): câu tục ngữ này
ý chỉ hành động biết tận dụng và tranh thủ cơ hội tốt để hoàn thành nhanh chóng công việc.
“미운 놈 떡 하나 더 준다” (Cho kẻ mình ghét thêm một cái Tteok): câu tục ngữ này
khuyên ngƣời ta nên khéo léo trong đối nhân xử thế, đặc biệt với ngƣời mình ghét thì càng
nên đối xử tốt và không làm họ tổn thƣơng để tránh hậu họa về sau.
“떡을 달라는데 돌을 준다” (Xin Tteok nhƣng lại cho đá): câu tục ngữ này ý nói lòng
ngƣời vô tình, thể hiện cách đối xử trái với mong muốn và nguyện vọng của đối phƣơng.
“누워서 저절로 입에 들어오는 떡은 없다” (Chỉ nằm thì không tự dƣng mà có Tteok
vào miệng): câu tục ngữ này khuyên con ngƣời nên cố gắng, bởi vì nếu không cố gắng, không
nỗ lực thì sẽ không có thành quả, nó có ý nghĩa giống nhƣ câu tục ngữ Việt Nam ―Có làm thì
mới có ăn, không dƣng ai dễ đem phần đến cho‖.
432
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
“밥 위에 떡” (Tteok ở trên cơm): câu tục ngữ ý nói rằng những điều tốt và vận may liên
tiếp xuất hiện.
“꽃보다 떡” (Tteok tốt hơn hoa): câu tục ngữ này ý nói đối với ngƣời đang đói thì dù
hoa có đẹp cũng không quan trọng bằng Tteok, đây là cách nói ẩn dụ khẳng định tầm quan
trọng của việc ăn uống, có ý nghĩa giống nhƣ câu tiếng Việt ―Có thực mới vực đƣợc đạo‖.
“천생연분에 보리 개떡” (Tteok lúa mạch hấp trong mối nhân duyên tiền định): Tteok
lúa mạch hấp đƣợc nhắc đến trong câu tục ngữ này ý chỉ loại Tteok đƣợc làm từ cám lúa
mạch còn lại sau khi xay xát nên có thể nói đây không phải là món ăn đƣợc làm từ nguyên
liệu tốt. Vì vậy, câu tục ngữ này có ý nghĩa là ―bất luận dù bạn là ngƣời bình thƣờng hay địa
vị thấp kém nhƣ thế nào chăng nữa thì bạn cũng có đôi nên dù có ăn Tteok lúa mạch hấp thì
cũng hãy sống tốt‖, câu tục ngữ này muốn khuyên con ngƣời rằng dù cuộc sống không giàu
có, dƣ dả cũng nên sống tốt và trân quý ngƣời thƣơng bên cạnh mình.
“떡방아를 찧어도 더 옳은 방아를 찧어다” (Giã Tteok cũng phải giã đúng cách): câu
tục ngữ này khuyên ngƣời ta khi làm việc gì, dù là việc lớn hay việc nhỏ cũng nên đúng đắn,
nghiêm túc và hết lòng.
“떡 주고 뺨 맞는다” (Cho Tteok và bị tát): câu tục ngữ này có nghĩa tƣơng tự nhƣ câu
―làm ơn mắc oán‖ trong tiếng Việt.
“남의 떡으로 제사 지낸다” (Cúng tế bằng Tteok của ngƣời khác): câu tục ngữ này ý
chỉ sự may mắn khi chúng ta đạt đƣợc thành công hoặc thu về lợi ích là nhờ vào ngƣời khác.
“굿이나 보고 떡이나 먹지” (Hãy xem nghi thức Gut35 rồi ăn bánh Tteok đi chứ): ý
nghĩa của câu tục ngữ này là ―Đừng chõ mũi vào chuyện của ngƣời khác‖, ý khuyên con
ngƣời đừng nên can thiệp vào chuyện của ngƣời khác một cách vô ích mà nên chú tâm làm tốt
việc của bản thân mình.
Ngoài ra, Tteok có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng không thể thay thế trong tín ngƣỡng
thờ cúng dân gian của ngƣời Hàn Quốc: ―Tteok đƣợc xếp vào là món ăn hàng đầu trong nghi
lễ vòng đời và các nghi lễ tôn giáo. Trong tín ngƣỡng dân gian Shaman giáo, mỗi loại Tteok
khác nhau đều tƣợng trƣng cho một vị thần. Sau khi thực hiện xong các nghi lễ cúng tế, ngƣời
ta sẽ chia Tteok cho nhau rồi cùng ăn để lấy lộc. Ngoài ra, Tteok còn đƣợc dùng làm quà tặng
ngƣời hàng xóm mới khi chuyển nhà‖ [Lim Gyeong Sun (2009), trang 112]. Có thể thấy rằng
trong văn hóa Hàn Quốc, Tteok là món ăn truyền thống đồng thời là phƣơng tiện trung gian
để kết nối ngƣời với tổ tiên, ngƣời với thần linh, ngƣời với ngƣời. Điều này đƣợc thể hiện qua
một số câu tục ngữ có Tteok liên quan đến tín ngƣỡng dân gian trong văn hóa Hàn Quốc nhƣ:
―제사 떡도 커야 귀신이 좋아한다‖ (Tteok cúng lớn thì quỷ thần thích), ―떡이 있어야 굿도
한다‖ (Phải có Tteok thì mới làm Gut), ―귀신도 떡 하나로 쫓는다‖ (Có thể xua đuổi tà ma
chỉ bằng một cái Tteok), ―귀신은 떡으로 사귀고 사람은 정으로 사귄다‖ (Giao tiếp với quỷ
35
―굿‖ (Gut) là tên gọi của một nghi thức của tín ngƣỡng Shaman giáo, một tín ngƣỡng bản địa của ngƣời Hàn
Quốc; nghi thức này đƣợc thực hiện bởi các pháp sƣ để cầu xin thần linh ban phúc hay xua đuổi những điều xấu
xa.
433
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
thần bằng Tteok và giao tiếp với con ngƣời bằng tình cảm), ―서낭당 떡을 먹으면 재수가
있다‖ (Nếu ăn Tteok cúng miếu Thành Hoàng thì sẽ gặp may mắn), ―귀신에게 비는 데는
시루떡이 제일이다‖ (Để cầu xin quỷ thần thì Tteok đậu đỏ là nhất), ―떡시루번을 먹으면
허리가 아프질 않다‖ (Nếu ăn Tteok đậu đỏ thì sẽ không đau lƣng).
Các loại Tteok tiêu biểu nhất trong văn hóa ẩm thực, văn hóa phong tục, đặc biệt là
trong các nghi lễ cúng bái và dịp lễ đặc biệt của ngƣời Hàn Quốc có thể kể đến nhƣ ―떡국‖
(Canh Tteok), ―송편‖ (Songpyeon), ―시루떡‖ (Sirutteok), ―봉치 떡‖ (Bongchiteok), ―백설기‖
(Beakseolki).
“떡국” (Canh Tteok)
―Canh Tteok‖ là món ăn truyền thống của ngƣời Hàn Quốc vào ngày Tết âm lịch 1.1.
Ăn ―Canh Tteok‖ tƣợng trƣng cho việc thêm một tuổi mới. Vì thế nên ngƣời Hàn Quốc
thƣờng hay hỏi trẻ em là ―Con đã ăn mấy tô canh Tteok rồi?‖ thay vì hỏi ―Năm nay con mấy
tuổi?‖. Ngoài ra, ý nghĩa của việc ăn canh Tteok vào đầu năm mới còn rất đặc biệt. ―Canh
Tteok‖ đƣợc làm từ Garaetteok. Vì Garaetteok là loại Tteok màu trắng, có dạng tròn, hình trụ
và dài nên tổ tiên ngƣời Hàn Quốc cho rằng ―Canh Tteok‖ là một món ăn tinh khiết và giúp
mang lại bình an may mắn nên nếu ăn ―Canh Tteok‖ vào đầu năm mới thì sẽ đƣợc mạnh khỏe
và sống lâu. Thêm nữa, vì Garaetteok có hình dạng tròn nhƣ đồng xu cổ ngày xƣa nên tổ tiên
ngƣời Hàn Quốc cũng đã gửi gắm ƣớc vọng đƣợc dƣ dả, sung túc vào món canh ăn vào đầu
năm mới này.
“송편” (Songpyeon)
Loại Tteok tiêu biểu nhất trong dịp Tết Trung thu ở Hàn Quốc là ―Songpyeon‖.
―Songpyeon‖ là loại Tteok ngọt có nhân, hình dạng đặc trƣng là hình bán nguyệt; ngoài ra còn
có hình tròn, có màu sắc và trang trí đẹp mắt. Hình bán nguyệt tƣợng trƣng cho sự thịnh
vƣợng và tƣơi sáng bởi vì tổ tiên ngƣời Hàn Quốc có quan niệm rằng ―trăng khuyết rồi sẽ
tròn‖. Từ ngày xƣa, vào dịp Tết Trung thu, ―Songpyeon‖ đƣợc làm bằng gạo mới thu hoạch
và dâng lên tổ tiên để bày tỏ lòng biết ơn và cầu mong một năm đƣợc mùa. Tổ tiên ngƣời Hàn
Quốc cũng có truyền thống làm ―Songpyeon‖ vào ngày 1.2 âm lịch (ngày bắt đầu vụ mùa mới)
và chiêu đãi những ngƣời làm công để bày tỏ lòng biết ơn và động viên họ cố gắng làm việc.
Ngoài ra, từ ngày xƣa, ―Songpyeon‖ còn là một trong những món ăn tiêu biểu mà ngƣời Hàn
Quốc làm dâng lên tổ tiên để cầu xin phúc lộc vào ngày rằm tháng giêng âm lịch, ngày Tết
Đoan ngọ hoặc trong các nghi lễ quan hôn tang tế,...
3. “시루떡” (Sirutteok)
―Sirutteok‖ hay còn gọi là Tteok đậu đỏ, là loại Tteok hấp đƣợc làm từ bột gạo trộn với
đậu đỏ. Nhƣ đã kể trên, hai câu tục ngữ ―Để cầu xin quỷ thần thì Tteok đậu đỏ là nhất‖ và
―Nếu ăn Tteok đậu đỏ thì sẽ không đau lƣng‖ là hai câu nói thể hiện tƣ duy tín ngƣỡng của
ngƣời Hàn Quốc từ thời xa xƣa. Theo quan điểm của ngƣời Hàn Quốc, màu đỏ thẫm của đậu
đỏ tƣợng trƣng cho điều lành. Chính vì vậy, ngƣời Hàn Quốc thƣờng làm Tteok đậu đỏ để
dâng lên các vị thần linh với hy vọng tránh đƣợc tai ƣơng, xui xẻo, bệnh tật và luôn đƣợc
khỏe mạnh. Đó cũng chính là lý do vì sao ngƣời Hàn Quốc có phong tục ăn Tteok đậu đỏ khi
434
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
chuyển nhà. Ngoài ra, Tteok đậu đỏ cũng đƣợc ngƣời Hàn Quốc lựa chọn để làm quà tặng cho
những ngƣời hàng xóm mới khi chuyển nhà, với ý nghĩa cầu chúc cho mọi ngƣời đều gặp
nhiều may mắn và tốt lành.
“봉치떡” (Bongchiteok)
Theo phong tục kết hôn của ngƣời Hàn Quốc, chú rể chuẩn bị nhà ở sau khi cƣới còn
cô dâu chuẩn bị quà và sính lễ. ―Bongchiteok‖ nổi bật nhất trong số các loại Tteok mà gia
đình cô dâu chuẩn bị làm sính lễ kết hôn. ―Bongchiteok‖ có hình tròn, đƣợc làm từ đậu đỏ và
gạo nếp, gồm có hai lớp bánh nếp và đƣợc trang trí với bảy hạt táo tàu và hạt dẻ ở chính giữa.
Theo quan niệm của ngƣời Hàn Quốc, đậu đỏ là biểu tƣợng của điều lành và sự may mắn; gạo
nếp tƣợng trƣng cho sự kết nối giữa hai vợ chồng; hai lớp bánh nếp tƣợng trƣng cho việc có
cặp có đôi; táo tàu và hạt dẻ tƣợng trƣng cho ―con đàn, cháu đống‖; số 7 của bảy hạt táo tàu
tƣợng trƣng cho sự viên mãn và trƣờng thọ. Chính vì vậy, chiếc bánh ―Bongchiteok‖ đƣợc
xem nhƣ là biểu tƣợng hạnh phúc và may mắn của đôi vợ chồng khi kết hôn.
“백설기” (Beakseolki)
―Baekseolki‖ là loại Tteok hấp có hình chữ nhật hoặc hình vuông và có màu trắng tinh.
Từ ―Baek‖ trong ―Baekseolki‖ có nghĩa là ―100‖, là con số tƣợng trƣng cho sự hoàn hảo và
phúc lành. Màu trắng là màu tƣợng trƣng cho sự trong sạch và tinh khiết nên từ xa xƣa
―Baekseolki‖ đã đƣợc ngƣời Hàn Quốc xem là một món ăn sạch sẽ và linh thiêng. Vì thế, từ
ngày xƣa, nó đƣợc sử dụng nhiều nhƣ là món đồ cúng dâng lên tổ tiên và các vị thần linh.
Ngoài ra, trong xã hội truyền thống, những phụ nữ bị thiếu sữa khi nuôi con cũng có thể cắt
―Baekseolki‖ thành từng lát rồi phơi khô và dùng nó để nấu cháo loãng cho con trẻ khi cần
thiết. Ngày nay, ―Baekseolki‖ cũng thƣờng đƣợc dùng nhƣ một món ăn nhẹ trong ngày
thƣờng.
Có thể nói rằng Tteok là một công cụ biểu hiện tiêu biểu trong ngôn ngữ Hàn Quốc, và
trong mỗi một tình huống sử dụng, hình ảnh Tteok đều chứa đựng những ý nghĩa sâu xa phản
ánh suy nghĩ cũng nhƣ phƣơng thức ứng xử của ngƣời Hàn Quốc trong đời sống xã hội từ xƣa
đến nay, từ đó góp phần thể hiện bản sắc văn hóa của ngƣời Hàn Quốc.
3. Thảo luận và Đề xuất hoặc Kiến nghị
Trong bối cảnh mối quan hệ hữu nghị Việt Nam và Hàn Quốc đang ngày càng tốt đẹp
hơn trên tất cả mọi mặt lĩnh vực đời sống xã hội trong đó có giáo dục, thì việc mở rộng vốn
kiến thức về ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc cho những ngƣời học tiếng Hàn là điều vô cùng
cần thiết. Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất một số vấn đề nhƣ sau:
Đối với nhà trƣờng: bổ sung vào thƣ viện nhà trƣờng thêm một số sách mới chuyên về
Tteok nói riêng cũng nhƣ văn hóa ẩm thực Hàn Quốc, văn hóa và ngôn ngữ Hàn Quốc nói
chung. Tạo điều kiện tổ chức các buổi trải nghiệm văn hóa ẩm thực và văn hóa phong tục Hàn
Quốc dành cho sinh viên học tiếng Hàn.
Đối với giảng viên: nên bổ sung thêm vào danh mục tài liệu tham khảo của các môn học
tiếng Hàn một số sách chuyên về tục ngữ, ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc. Tổng hợp, biên
soạn và lồng ghép các kiến thức văn hóa Hàn Quốc vào bài học để giúp sinh viên mở rộng
435
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
vốn kiến thức. Ngoài ra, giảng viên cũng cần thƣờng xuyên học hỏi nâng cao trình độ ngôn
ngữ và văn hóa Hàn Quốc, hƣớng dẫn sinh viên tìm kiếm tài liệu và tiếp cận với các tài liệu
liên quan, khuyến khích sinh viên tự học tập và tham gia các hoạt động trải nghiệm văn hóa.
Đối với sinh viên: có thái độ hợp tác, tích cực, chủ động trong học tập và rèn luyện để
mở rộng và nâng cao vốn kiến thức về ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc.
4. Kết luận
Ngôn ngữ và tƣ duy, ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ biện chứng không thể tách
rời. Có thể khẳng định rằng, cách con người nghĩ quyết định cách con người làm, nghĩa là
hoạt động nhận thức có tác động mạnh mẽ đến các hoạt động khác của con ngƣời trong đời
sống văn hóa xã hội. Hoạt động nhận thức của một dân tộc thông qua công cụ biểu hiện là
ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc hình thành bản sắc văn hóa của dân tộc đó.
Hàn Quốc là đất nƣớc có nền văn hóa gốc nông nghiệp. Trải qua quá trình lịch sử lâu
dài, bên cạnh cơm là lƣơng thực chính thì Tteok cũng là món ăn quan trọng không chỉ có mặt
trong đời sống hàng ngày mà còn đồng hành với ngƣời Hàn Quốc trong những sự kiện nghi lễ
quan trọng. Có thể nói trong từ vựng tiếng Hàn, hiếm có một từ nào đƣợc sử dụng và bao hàm
nhiều ý nghĩa nhƣ ―Tteok‖. Chiếm một vị trí quan trọng trong quán dụng ngữ, tục ngữ và các
phong tục tập quán truyền thống, Tteok có thể đƣợc xem là một ký hiệu ngôn ngữ phản chiếu
văn hóa nhận thức của ngƣời Hàn Quốc. Thông qua các biểu hiện quán dụng ngữ, tục ngữ, có
thể thấy đƣợc triết lý sống cũng nhƣ quan niệm của ngƣời Hàn Quốc về cách ứng xử trong
mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Bên cạnh đó, theo quan niệm truyền thống của ngƣời Hàn
Quốc, Tteok cũng tƣợng trƣng cho sự linh thiêng và những điều tốt đẹp. Tteok còn là sản
phẩm văn hóa biểu trƣng cho tấm lòng thành của ngƣời Hàn Quốc đối với tổ tiên, thần linh,
đó cũng là một nét đẹp văn hóa truyền thống của ngƣời Hàn Quốc. Từ xƣa đến nay, ngƣời
Hàn Quốc đã thông qua Tteok để gửi gắm ƣớc vọng một cuộc sống bình an, sung túc và tốt
lành. Vì thế, đối với ngƣời Hàn Quốc, Tteok không chỉ đơn thuần là món ăn vật chất mà còn
mang đến những giá trị văn hóa tinh thần lớn lao.
Văn hóa vốn dĩ là những giá trị do con ngƣời sáng tạo ra từ những điều bình dị nhất
trong cuộc sống. Do đó, có thể nói Tteok đã trở thành một sản phẩm văn hóa chứa đựng cả
yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần của ngƣời Hàn Quốc. Hay nói cách khác, Tteok là sản
phẩm của văn hóa ẩm thực Hàn Quốc nói riêng và là sản phẩm của văn hóa truyền thống Hàn
Quốc nói chung. Tteok cũng đƣợc xem là một công cụ ngôn ngữ mà thông qua đó, chúng ta
có thể tìm hiểu về tƣ duy, lối sống, đặc trƣng ứng xử của ngƣời Hàn Quốc với môi trƣờng xã
hội. Trong xã hội Hàn Quốc ngày nay, vị trí của Tteok trong ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc
ngày càng đƣợc khẳng định và thông qua Tteok, những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
vẫn đƣợc bảo tồn và phát triển. Chính vì vậy, có thể nói rằng Tteok chính là chìa khóa quan
trọng giúp chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa Hàn Quốc. Ngƣời học tiếng
Hàn cũng có thể thông qua Tteok để nâng cao vốn kiến thức về ngôn ngữ và văn hóa Hàn
Quốc.
436
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Tài liệu tham khảo
- Sách tiếng Việt
Bùi Khánh Thế (2012). Phong cách ngôn ngữ và văn hóa. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Lai (2004). Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương (Tập I – Mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và tư duy). Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.
R. Jon Mcgee – Richard L. Warms (2010). Lý thuyết nhân loại học: giới thiệu lịch sử (Lê Sơn Phƣơng
Ngọc, Đinh Hồng Phúc biên dịch). Hà Nội: Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa.
Trần Thị Thu Lƣơng (2016). Đặc trưng văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc, tương đồng và khác biệt. Hồ
Chí Minh: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Tsunesaburo Makiguchi (2004). Địa lý nhân sinh (Trƣơng Hớn Huy, Lê Nguyễn Minh Thọ biên dịch).
Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- Sách tiếng Hàn
김상보 (2017). 한식의 도를 담다. 고양시: 와이즈북 출판사.{Kim Sang Bo (2017). Đạo trong ẩm
thực Hàn Quốc. Goyang (Hàn Quốc): Nhà xuất bản Wise Book}
박정아 글 – 이덕화 그림 (2015). 속담 한 상 푸짐하네!. 서울: 개암나무 출판사. {Park Jeong Ah,
tranh Lee Teok Hwa (2015). Tục ngữ thật phong phú. Seoul (Hàn Quốc): Nhà xuất bản Gaeamnamu}
임경순 (2009). 한국 문화의 이해. 서울: 한국 외국어 대학교 출판부. {Lim Gyeong Sun (2009).
Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc. Seoul (Hàn Quốc): Nhà xuất bản Trƣờng Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc}
원은영 – 이경아 (2018). 관용어와 속담으로 배우는 한국어. 서울: (주) 도서출판 참. {Won Eun
Yeong – Lee Gyeong Ah (2018). Học tiếng Hàn qua quán ngữ và tục ngữ. Seoul (Hàn Quốc): Nhà
xuất bản ChamKorean}
한복려 (1999). 쉽게 맛있게 아름답게 만드는 떡. 서울: 궁중음식연구원. {Han Bok Ryeo (1999).
Làm Tteok ngon và đẹp mắt một cách dễ dàng. Seoul (Hàn Quốc): Nhà xuất bản Viện nghiên cứu ẩm
thực cung đình}
- Tài liệu từ Internet
Bách Khoa toàn thƣ về dân tộc Hàn Quốc. Từ điển đời sống ăn mặc ở của người Hàn Quốc. Tham
khảo nội dung về Canh Tteok, Songpyeon, Sirutteok, Bongchiteok, Beakseolki. Truy cập từ
https://folkency.nfm.go.kr/kr/dic/61/summary
- Tài liệu khác
Nguyễn Tri Nguyên (2011). Đề cương môn học Ký hiệu học văn hóa (Dành cho học viên cao học). Hồ
Chí Minh: Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
437
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
KOREAN LANGUAGE AND CULTURE CHARACTERISTICS
EXPRESSED THROUGH THE "TTEOK" IN KOREAN
IDIOMS AND PROVERBS
Abstract
Tteok is known as one of the famous traditional Korean dishes. The article applies the
theories on culture and literature, and the methods of analysizing - synthesizing, data
collection and statistics to figure the position of Tteok in Korean language and culture.
With the diversity of Tteok, more than 300 types, Tteok is not only a daily dish but also
an indispensable dish in the traditional Korean customs. Besides, Tteok also appears in
many idioms and proverbs, which helps reflect the thinking and lifestyle of Koreans.
Therefore, it can be said that Tteok is an important key to studying Korean languages and
cultures.
Keywords
tteok, culture, language, Korean
438
nguon tai.lieu . vn