Xem mẫu
- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN
ĐỒNG BẰNG TỈNH QUẢNG NAM (1997 - 2017)
Nguyễn Văn Thi1, Vũ Thị Phương Anh2
Tóm tắt: Các huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Nam hiện nay 07 đơn vị hành
chính cấp huyện, gồm 02 thành phố Hội An và Tam Kỳ, thị xã Điện Bàn và 06 huyện Đại
Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Phú Ninh, Núi Thành. Có 141 đơn vị hành chính
cấp xã trực thuộc (trong đó, có 25 phường, 06 thị trấn và 112 xã) với dân số là 951.484
người [1, tr. 27]. Tổng diện tích tự nhiên của các huyện đồng bằng 274.283,2 héc ta,
diện tích đất nông nghiệp chiếm 198.894,7 héc ta, diện tích đất phi nông nghiệp chiếm
67.180,6 héc ta và diện tích đất chưa sử dụng chiếm 8.290 héc ta [15, tr. 6]. Cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng có vị trí,
vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam. Thực tiễn quá trình phát
triển của kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam trong 20 năm (1997
- 2017) cho thấy những điều kiện thuận lợi, cũng như khó khăn, thách thức và bài học
kinh nghiệm trong quá tình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của từng địa
phương. Bằng phương pháp sử học, tổng hợp, phân tích số liệu, nghiên cứu và đánh giá
để rút ra những đặc điểm kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng (1997-2017); trên
cơ sở đó, đưa ra các kiến nghị và bài học lịch sử, kết hợp với những chủ trương, chính
sách phát triển nông nghiệp của Trung ương, của tỉnh nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Từ khóa: Kinh tế nông nghiệp; Các huyện đồng bằng; Quảng Nam; Phát triển
nông nghiệp.
1. Đặt vấn đ
Các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam có nền kinh tế nông nghiệp được hình
thành từ rất sớm. Sau khi tỉnh (1997), hoạt động sản xuất nông nghiệp các huyện đồng
bằng bên cạnh những thuận lợi và thời cơ còn có những khó khăn, thách thức trong tình
hình mới. Thời k buổi đầu chia tách tỉnh, trình độ và năng lực sản xuất hạn chế, cơ
sở hạ tầng, phương tiện kỹ thuật chưa được đầu tư... Trong quá trình xây dựng và phát
triển, thông qua việc thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế
nông nghiệp của Trung ương, của tỉnh và việc phát huy những thế mạnh của địa phương,
kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1997 - 2017 đã có
những chuyển biến rõ nét, khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp quan trọng đối
với nền sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, quá trình phát triển của
kinh tế nông nghiệp vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết nhất định, điều này
thể hiện ở việc hoạch định chính sách, cũng như quá trình triển khai thực hiện. Chính vì
1 ThS., Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam
2 PGS.TS., Trường Cao đẳng Quảng Nam
101
- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG...
vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra những đặc điểm của quá trình phát triển kinh tế
nông nghiệp các huyện đồng bằng giai đoạn 1997-2017, góp phần hoạch định đường lối,
chính sách và chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng
Nam những năm tiếp theo.
Nghiên cứu đề tài này, tác giả đứng trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, kết hợp với việc sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ đạo của khoa học lịch
sử là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tác giả còn vận dụng một số
phương pháp nghiên cứu khác như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, điền dã... rút
ra những thông tin có giá trị cần thiết nhất phục vụ quá trình nghiên cứu đề tài.
2. Đặc đi m
2.1. Chuy n dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp diễn ra chậm
Trước những năm chia tác tỉnh (1997), kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng
chủ yếu là nền sản xuất lương thực tự cung, tự cấp; cây lúa giữ vai trò chủ đạo với diện
tích lớn với 82.234/87.837 héc ta [3, tr. 93-94], chiếm 93,62% tổng diện tích sản xuất
lương thực, song vẫn không đảm bảo được vấn đề lương thực của người dân. Nguyên
nhân chính là do trình độ sản xuất còn lạc hậu, yếu kém, phương thức sản xuất nhỏ l ,
manh mún; chưa có sự phát triển của khoa học, công nghệ để áp dụng trong sản xuất
nông nghiệp; công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền cũng như việc triển
khai các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp chưa được quan tâm đúng
mức. Sau khi chia tách tỉnh, nền sản xuất nông nghiệp các huyện đồng bằng từng bước
được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và nguồn vốn phục vụ sản xuất.
Trên cơ sở Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND, ngày 17/11/2011 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Nam về quy định cơ chế hỗ trợ đẩy mạnh cơ giới hoá một số khâu trong sản
xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2011-2015 trong năm 2012
[14], các ngành chức năng và chính quyền các địa phương, gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Duy
Xuyên, Quế Sơn, Núi Thành, Phú Ninh, Thăng Bình, Hội An, Tam K đã giải ngân 6 tỷ
đồng hỗ trợ cho các hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ nông dân mua 93 máy cày 4 bánh, 72 máy
gặt đập liên hợp, 3 máy sấy, để phục vụ việc làm đất, thu hoạch, sơ chế biến các loại nông
sản, nhất là sản phẩm lúa [12, tr. 4]. Nhờ đó, nông nghiệp các huyện đồng bằng đã có
những chuyển biến tích cực, giá trị sản xuất không ngừng được cải thiện qua từng năm,
góp phần nâng cao đời sống của người nông dân.
2.1.1. Giai đoạn 1997 - 2006
Từ một nền sản xuất lạc hậu, yếu kém, nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh
Quảng Nam trong giai đoạn 1997 - 2006 đã từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con
vật nuôi, phát triển đồng bộ trên các lĩnh vực của nền sản xuất nông nghiệp. Trên lĩnh
vực trồng trọt, diện tích trồng lúa (thống kê theo 2-3 vụ trồng) giảm do sự tác động của
chủ trương chuyển từ sản xuất 3 vụ sang 2 vụ lúa/năm, thay vào đó là các loại cây trồng
có năng suất cao được triển khai ở những diện tích trồng lúa năng suất thấp. Có thể thấy
102
- NGUYỄN VĂN THI, VŨ THỊ PHƯƠNG ANH
rõ, diện tích trồng lúa năm 1997 từ 89.551 héc ta, chiếm 96,5% tổng diện tích trồng cây
lương thực; đến năm 2006, diện tích trồng lúa giảm xuống còn 65.826 héc ta, chiếm
88,7% tổng diện tích trồng cây lương thực (Bảng 1) [4, tr. 114]. Năng suất lúa bình quân
tăng liên tục từ 33 tạ/ha năm 1997 lên 46,7 tạ/ha năm 2006.
Bảng 1: So sánh diện tích và sản lượng lúa năm 1997 và 2006
Đơn vị: ha - tấn
Năm 1997 2006
TT
Đơn vị Di n tích Sản lư ng Di n tích Sản lư ng
1 Tam K 13344 40972 2424 11950
2 Hội An 1049 4342 856 4825
3 Đại Lộc 13560 52467 8925 57689
4 Điện Bàn 14935 59676 10894 62762
5 Duy Xuyên 10432 39732 6890 38017
6 Quế Sơn 11754 33450 9013 42082
7 Thăng Bình 16237 41951 12840 59353
8 Núi Thành 8140 22957 7171 31818
9 Phú Ninh - - 6813 36290
T ng c ng 89551 295547 65826 344786
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, 2006, Kinh tế - xã hội Quảng Nam 10 năm
(1997 - 2006), tr. 114, 115.
Với cơ cấu giảm dần diện tích trồng lúa, tăng diện tích cây rau, đậu các loại và cây
công nghiệp hằng năm, trong giai đoạn này, các huyện đồng bằng đã tập trung phát triển,
mở rộng diện tích gieo trồng các loại cây ngô, lạc, sắn, khoai lang, vừng (m )... Trong đó,
đáng chú ý, diện tích cây ngô năm 1997 chỉ có 3.888 ha, đến năm 2006 tăng lên 8.130
ha [4, tr.124]; diện tích cây rau, đậu các loại năm 1997 là 9.915 ha, năm 2006 tăng lên
16.142 ha [4, tr.128]; ngoài ra, diện tích các loại rau đậu cũng tăng dần qua các năm. Số
liệu thống kê cho thấy, sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng của ngành trồng trọt đã được đẩy
mạnh thực hiện, từng bước đa dạng hóa cây trồng, góp phần nâng cao giá trị sản xuất
trong lĩnh vực trồng trọt của các huyện đồng bằng.
Ngành chăn nuôi trong giai đoạn 1997 - 2006 đã có sự chuyển biến tích cực, từ
chăn nuôi nhỏ l chuyển sang chăn nuôi tập trung. Đáng chú ý, đàn lợn được tập trung
phát triển ở thị xã Điện Bàn và huyện Thăng Bình. Số liệu Bảng 2 cho thấy: năm 2006,
tổng đàn trâu các huyện đồng bằng đạt 49.146 con (năm 1997 là 36.827 con); đàn bò đạt
145.664 con (năm 1997 là 135.565 con); lợn các đạt 495.816 con (năm 1997 là 382.570
con) [4, tr.132-135]. Chăn nuôi gia cầm đã đạt được những kết quả vượt bậc cả về số
lượng, chủng loại và chất lượng sản phẩm, tổng đàn gia cầm ở các huyện đồng bằng năm
2006 đạt 2.647 nghìn con (năm 1997 là 2.580 nghìn con) [4, tr.132].
103
- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG...
Bảng 2: So sánh số lượng gia súc năm 1997 và 2006
Đơn vị: con
Năm 1997 2006
TT
Đơn vị Trâu Bò L n Trâu Bò L n
1 Tam K 7803 22612 50520 2784 5787 18958
2 Hội An 487 2042 7103 248 2036 10975
3 Đại Lộc 4708 14361 43588 3983 19580 60500
4 Điện Bàn 1971 22249 78569 1427 22994 108495
5 Duy Xuyên 4793 11278 51058 3952 16021 61247
6 Quế Sơn 7020 17967 52400 7696 21554 64316
7 Thăng Bình 4201 29038 68435 8435 26531 91860
8 Núi Thành 5844 16018 30897 10402 15809 38150
9 Phú Ninh 0 0 0 10219 15352 41315
Tổng cộng 36827 135565 382570 49146 145664 495816
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, 2006, Kinh tế - xã hội Quảng Nam 10 năm
(1997-2006,), tr. 133-135.
Trên lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản, lớn với diện tích mặt hồ ước tính gần 5.780
ha và hệ thống sông ngòi khá phong phú [5, tr. 19]. Nuôi trồng thủy sản ở các huyện
trong những năm đầu chia tách tỉnh chủ yếu phát triển ở vùng ven biển, từ năm 2000 đến
năm 2017, nuôi trồng thủy sản ở vùng nước ngọt mới được phát huy thế mạnh về diện
tích mặt nước ở các lòng hồ, sông ngòi và các cửa sông lớn. Mặc dù vậy, ngành nuôi
trồng thủy hải sản đã có sự chuyển dịch cơ cấu từ nuôi trồng nhỏ l , manh mún sang nuôi
trồng tập trung, diện tích từng bước được mở rộng, tập trung ở các địa phương như Hội
An, Thăng Bình và Núi Thành.
2.1.2. Giai đoạn 2007 - 2017
Trong giai đoạn này, sự tích tụ trong sản xuất và phát triển kinh tế đã tạo tiền đề
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Nền sản xuất nông nghiệp
của các huyện đồng bằng có sự chuyển biến tích cực cả về quy mô sản xuất, chất lượng
sản phẩm và cơ cấu ngành. Cùng với đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn cũng đã có những tác động tích cực đến nền kinh tế nông nghiệp của
các huyện đồng bằng; việc ứng dụng những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật trong sản xuất
nông nghiệp được thực hiện rộng rãi, hiệu quả và giá trị sản phẩm nông nghiệp không
ngừng được tăng lên rõ rệt. Các huyện đồng bằng Quảng Nam đã triển khai áp dụng một
số kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, như tưới nước tiết
kiệm cho lúa “ướt khô xen k ”, giảm phát thải khí nhà kính cho đối với một số vùng thiếu
nước trồng lúa từ năm 2014, ứng dụng kết quả nghiên cứu đề tài “Xác định liều lượng
phân bón hợp lý cho các chân đất lúa chính tại Quảng Nam” tại các cánh đồng của thị xã
104
- NGUYỄN VĂN THI, VŨ THỊ PHƯƠNG ANH
Điện Bàn, huyện Duy Xuyên và huyện Thăng Bình [7]. Quy mô sản xuất từ kinh tế hộ
gia đình chuyển sang hình thức hợp tác xã sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh;
sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo hướng hàng hóa, đảm bảo cung ứng nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Trên lĩnh vực trồng trọt, cùng với việc mở rộng diện tích và áp dụng các tiến bộ
của công nghệ sinh học, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã được đẩy mạnh thực hiện
theo hướng giảm dần diện tích và nâng cao năng suất cây lương thực, tăng diện tích cây
rau, đậu các loại, cây công nghiệp hằng năm và cây công nghiệp lâu năm. Trong đó, việc
đưa các giống ngô lai cho năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất đại trà, đã tạo ra
sự chuyển biến tích cực về năng suất và sản lượng ngô. Đặc biệt, một số huyện đã hình
thành những vùng chuyên canh tập trung ngô như: thị xã Điện Bàn gần 2.000 ha, năng
suất đạt 53 tạ/ha và sản lượng trên 10.000 tấn [10, tr.89]; huyện Duy Xuyên với 1.800 ha,
năng suất đạt 56 tạ/ha và sản lượng trên 10.000 tấn [11, tr. 92]. Cũng trong thời k này,
lĩnh vực trồng trọt đã tiến hành đa dạng hóa các loại cây trồng, từng bước xóa dần thế
độc canh cây lúa. Năm 2017, diện tích trồng lúa giảm đáng kể, còn 67.690 ha (năm 1997
là 89.451 ha), trong khi đó sản lượng lúa tăng từ 295.547 tấn (năm 1997) lên 388.867
tấn (năm 2017)
Bảng 3. So sánh diện tích trồng lúa giai đoạn 1997 - 2017
Đơn vị: ha - tấn
Năm 1997 2007 2017
TT
Đơn vị D. tích S. lư ng D. tích S. lư ng D. tích S. lư ng
1 Tam K 13344 40972 2315 11950 2342 12397
2 Hội An 1049 4342 845 4825 719 4485
3 Đại Lộc 13560 52467 8645 48855 8601 52954
4 Điện Bàn 14935 59676 10894 62762 11301 65218
5 Duy Xuyên 10432 39732 6790 38017 7455 45056
6 Quế Sơn 11754 33450 8852 38575 6865 37430
7 Thăng Bình 16237 41951 12840 59353 15934 89777
8 Núi Thành 8140 22957 7155 31818 7828 42737
9 Phú Ninh - - 6713 36290 6645 38813
T ng c ng 89451 295547 65049 332445 67690 388867
Nguồn: Cục thống kê Quảng Nam, Niên giám thống kê năm 1997, 2007, 2017
Chăn nuôi phát triển ổn định theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp, trước
hết là đàn heo và các loại gia cầm gắn với việc triển khai các dự án đầu tư nước ngoài.
Đàn trâu và đà bò cũng được chú trọng phát triển ở dọc các bãi bồi ven sông như sông
Thu Bồn, sông Trường Giang... Các địa phương đã chú trọng đến công tác quy hoạch
105
- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG...
các vùng chăn nuôi tập trung, đầu tư xây dựng về chuồng trại, con giống, các điều kiện
phòng dịch, phương tiện kỹ thuật... nhằm tăng năng suất và hiệu quả trong hoạt động
chăn nuôi. Điển hình hoạt động chăn nuôi ở các địa phương như: thị xã Điện Bàn năm
2017, đàn lợn thị xã Điện Bàn đạt 82.577 con, tăng 3.918 con so với năm 1997 [8,
tr.131]; huyện Thăng Bình đạt 91.577 con, tăng 23.142 con [9, tr.129].
Có thể thấy rằng, kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam đã có
sự chuyển dịch mạnh m trong cơ cấu sản xuất. Đặc điểm này xuất phát từ những điều
kiện kinh tế - xã hội của địa phương còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhất là trong giai
đoạn đầu chia tách tỉnh chưa có điều kiện đầu tư để phát triển nông nghiệp. So với một
số vùng đồng bằng khu vực duyên hải miền Trung thì công tác quy hoạch và chính sách
phát triển nông nghiệp được triển khai khá sớm. Tuy nhiên, các huyện đồng bằng Quảng
Nam sau khi chia tách tỉnh thì nền sản xuất nông nghiệp mới có điều kiện để phát triển.
Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp ở các huyện đồng
bằng giai đoạn 1997 - 2017 mới trong thời k đầu phát triển, cũng là những tiền đề cho
sự phát triển trong những năm tiếp theo.
2.2. Sản xuất nông nghiệp các huyện đ ng bằng Quảng Nam còn nhỏ lẽ, chưa
được tích t ruộng đất đ h nh thành nh ng cánh đ ng mẫu lớn.
Các huyện đồng bằng với diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn, nhưng phần lớn
tập trung vào ngành trồng trọt, trực tiếp là sản xuất các loại cây lương thực, song chưa quy
hoạch được những cánh đồng mẫu lớn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn 1997 - 2006, hoạt động sản xuất
lương thực còn mang nặng hình thức kinh tế hộ gia đình, đất sản xuất bị chia thửa nhỏ, khó
khăn cho việc thực hiện cơ giới hóa trong nông nghiệp; trong hoạt động chăn nuôi, chưa
phát triển mô hình kinh tế trang trại và chưa hình thành các khu chăn nuôi tập trung.
Giai đoạn 2007 - 2017, nông nghiệp các huyện đồng bằng đã có những tiến bộ về
quy mô và hình thức sản xuất, hướng đến một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa phát triển
bền vững. Tuy nhiên, so với các vùng đồng bằng ở một số tỉnh thành trong nước thì quy mô
sản xuất vẫn còn ở mức vừa và nhỏ. Việc dồn điền, đổi thửa triển khai còn chậm, chưa đồng
bộ; hoạt động canh tác nhỏ l gây ảnh hưởng đến việc triển khai các phương tiện máy móc,
trang thiết bị phục vụ trong sản xuất. Đặc điểm này cũng xuất phát từ điều kiện tự nhiên của
khu vực đồng bằng tỉnh Quảng Nam, đó là do địa hình bị chia cắt bởi nhiều sông, suối, ao
hồ, diện tích trải dài theo hướng bắc - nam tạo nên những cánh đồng nhỏ, hẹp...
2.3. Sản xuất nông nghiệp các huyện đ ng bằng tỉnh Quảng Nam còn ph
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên mang tính thời v cao
Đây là một trong những đặc điểm của kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng
nói riêng, cũng như nền nông nghiệp của tỉnh nói chung. Các huyện đồng bằng Quảng
Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, thường có mưa nhiều và xuất hiện những
đợt lũ từ thượng nguồn đỗ về khu vực hạ lưu vùng đồng bằng vào các tháng 9, tháng 10
106
- NGUYỄN VĂN THI, VŨ THỊ PHƯƠNG ANH
và tháng 11 hàng năm, nên tác động không nhỏ đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, quá trình sản xuất nông nghiệp ở các huyện đồng bằng Quảng Nam gắn
liền với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen lẫn
với nhau, nhưng lại không đồng nhất nên đã tạo ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp.
Tuy nhiên, các huyện đồng bằng Quảng Nam chưa thực hiện tốt việc xen canh hoặc
chuyển đổi mùa vụ phù hợp với các thời điểm trong năm, nên chưa phát huy tối đa lực
lượng lao động trong nông nghiệp. Từ đặc điểm này có thể thấy rằng, trong giai đoạn
1997-2017, kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng chưa phát huy hết nguồn nhân lực
lao động trong nông nghiệp, thời gian nông nhàn của người lao động trong sản xuất nông
nghiệp dư thừa nhưng chưa có giải pháp khắc phục.
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, hằng năm có lượng mưa trung bình
tương đối lớn, đảm bảo nguồn nước ngọt dồi dào cung cấp cho hoạt động sản xuất nông
nghiệp và đời sống của người dân, bên cạnh đó còn có nguồn năng lượng mặt trời phân
bổ đều khắp, tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng và con vật nuôi phát triển. Đặc điểm
này đem lại cho hoạt động sản xuất nông nghiệp các huyện đồng bằng những thuận lợi
cơ bản về điều kiện khí hậu. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi của khu vực khí hậu
nhiệt đới gió mùa ẩm, kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng cũng gặp rất nhiều khó
khăn, như lượng mưa nhiều s gây ra hiện tượng lũ lụt, ngập úng, làm hư hại hoa màu và
các hoạt động sản xuất khác, nhất là trong tháng 10 và tháng 11 hằng năm; nắng nhiều
vào các tháng 4 và tháng 5 gây khô hạn và tạo ra hiện tượng xâm nhập mặn ở những
vùng ven biển [13, tr. 9]; với khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm cũng tạo điều kiện cho sâu bọ,
dịch bệnh phát triển, lây lan, gây ảnh hưởng đến lớn đến ngành trồng trọt và chăn nuôi.
Vì vậy, kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam cần phát huy những
lợi thế về điều kiện khí hậu nhằm khai thác tốt giá trị của các loại giống cây trồng, con
vật nuôi vùng nhiệt đới gió mùa ẩm; đồng thời, có giải pháp khắc phục những mặt trái
của khí hậu tác động đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho nền kinh tế
nông nghiệp phát triển nhanh và bền vững.
2.4. Kinh tế nông nghiệp các huyện đ ng bằng Quảng Nam là chịu tác động và
ảnh hưởng lớn bởi quá tr nh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá tr nh đô thị hóa
nông thôn
Một trong những đặc điểm của kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng Quảng
Nam là chịu tác động và ảnh hưởng lớn bởi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp do việc hình thành các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp như: Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc (thị xã Điện Bàn), Khu
công nghiệp Tam Thăng, Khu công nghiệp Trường Xuân (thành phố Tam K ), Khu kinh
tế mở Chu Lai, Khu công nghiệp Nam Chu Lai (huyện Núi Thành)... Bên cạnh diện tích
đất nông nghiệp bị thu hẹp(3), một phần lực lượng lao động trong sản xuất nông nghiệp
3. Diện tích cây lương thực: Điện Bàn (năm 1997 là 15.656 ha, năm 2017 giảm còn 13.612 ha), Tam K
(năm 1997 là 13.424 ha, năm 2017 giảm con 2.457 ha) [4, tr. 93; 6, tr. 117]
107
- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG...
cũng dần chuyển sang lao động trong ngành công nghiệp, cũng làm cho thay đổi không
nhỏ trong sản xuất nông nghiệp.
Quá trình đô thị hóa cũng có những tác động rất lớn đôi với sản xuất nông nghiệp ở
các huyện đồng bằng Quảng Nam. Trong giai đoạn 1997-2017, cùng với sự phát triển của
ngành công nghiệp và dịch vụ, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, đã tác động không
nhỏ đến hoạt động sản xuất nông nghiệp các huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Nam. Điều
này thể hiện rõ nét trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Tam K và thị xã Điện Bàn; ngoài
ra đô thị hóa cũng diễn ra ở khu vực thị trấn, khu dân cư ở các huyện đồng bằng. Tốc độ đô
thị hóa đã làm cho diện tích đất sản xuất bị thu hẹp; một số hoạt động sản xuất nông nghiệp
như chăn nuôi hộ gia đình không có điều kiện tiếp tục tồn tại và phát triển.
Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi các cấp, các ngành và các địa phương cần phải sớm
xây dựng quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp, gắn với việc thực hiện các chính sách ưu
tiên phát triển nông nghiệp, chú trọng xây dựng nền sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng
hóa; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ nhằm giải phóng sức lao động và nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Đồng thời, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế,
quản trị kinh doanh trong nông nghiệp, đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
3. Kết luận
Nông nghiệp các huyện đồng bằng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam, góp phần đảm bảo an ninh lương thực của người dân địa
phương, cung cấp thực phẩm cho đời sống; đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành
công nghiệp chế biến. Đồng thời, nông nghiệp các huyện đồng bằng còn là thị trường rộng
lớn của các ngành kinh tế khác trên địa bàn tỉnh.
Phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những
nội dung và định hướng phát triển kinh tế chủ yếu của thời k công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước, của tỉnh nói chung và các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế nông nghiệp của các huyện đồng bằng tỉnh
Quảng Nam 20 năm qua (1997 - 2017) đã tạo tiền đề quan trọng cho quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận
lợi, thời cơ, những đặc điểm nêu trên đồng thời cũng là những khăn, thách thức cần được
các cấp chính quyền, các ngành chức năng và các địa phương tháo gỡ, tạo động lực thúc
đẩy nền nông nghiệp các huyện đồng bằng Quảng Nam tiếp tục phát triển.
Để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh
Quảng Nam trong những năm đến, cần triển khai thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất là hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển toàn diện đối với nông nghiệp,
nông thôn đồng bằng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một trong những
giải pháp cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo nền tảng vững chắc cho
108
- NGUYỄN VĂN THI, VŨ THỊ PHƯƠNG ANH
quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng trong những năm tới. Trên
quy hoạch tổng thể của tỉnh, các huyện đồng bằng cần triển khai công tác quy hoạch cụ địa
phương mình nhằm hướng đến một nền nông nghiệp phát triển bền vững.
Thứ hai là phát triển sản xuất một số mặt hàng nông sản chủ lực được xem là thế
mạnh của các huyện đồng bằng nhằm hướng tới xuất khẩu. Đối với sản xuất lúa, cùng với
sản xuất lúa đại trà đảm bảo an ninh lương thực, các huyện đồng bằng cần phải quy hoạch
vùng sản xuất tập trung, chuyên canh sản xuất lúa chất lượng cao, năng suất cao, tập trung
chủ yếu ở các địa phương như Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình và Núi Thành. Đây là
những địa phương có diện tích sản xuất lúa tương đối lớn, đất đai màu mỡ, phì nhiêu, hệ
thống thủy lợi được đầu tư khá hoàn thiện, thuận lợi cho việc thâm canh, áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật để phát triển các giống lúa mới có chất lượng cao.
Thứ ba là quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn. Cần hoàn thiện hệ
thống mạng lưới giao thông phục vụ cho việc liên kết với các vùng kinh tế trọng điểm trong
khu vực, đảm bảo lưu thông hàng hóa. Trong đó, tập trung đầu tư hạ tầng giao thông các
khu kinh tế trọng điểm, gắn với việc xây dựng các khu đô thị mới. Sớm hoàn thiện và đưa
vào sử dụng tuyến đường 129 ven biển giáp với Đà Nẵng, nối từ Hội An khớp nối với sân
bay Chu Lai vào Quảng Ngãi. Đồng thời, đầu tư xây dựng hệ thống giao thông kết nối giữa
các địa phương với tuyến đường 129 và tuyến quốc lộ 1A, tạo thành hệ thống giao thông
liên hoàn, tạo điều kiện lưu thông sản phẩm nông nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, 2017, Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam năm
2017, Tam K
[2] Chi cục Thống kê Quảng Nam - Đà Nẵng, 1979, Số liệu thống kê tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng 1975-1979, Đà Nẵng
[3] Cục Thống kê Quảng Nam (2005), Quảng Nam 30 năm xây dựng và phát triển, Sở Văn
hóa - Thông tin tỉnh Quảng Nam, Tam K
[4] Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, 2006, Kinh tế - Xã hội Quảng Nam 10 năm (1997-
2006), Tam K
[5] Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, 2017, Quảng Nam 20 năm một chặng đường phát triển
(1997-2017), Tam K .
[6] Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, 2017, Niên giám thống kê 2017, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
[7] Võ Văn Nghi (2017), Xác định liều lượng phân bón hợp lý cho các chân đất lúa chính
tại Quảng Nam, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Tam K
[8] Phòng Thống kê thị xã Điện Bàn, 2017, Niên giám thống kê số liệu 2017, Điện Bàn
[9] Phòng Thống kê huyện Thăng Bình, 2017, Niên giám thống kê năm 2017, Thăng Bình
109
- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG...
[10] Phòng Thống kê huyện Điện Bàn, 2006, Niên giám thống kê năm 2006, Điện Bàn
[11] Phòng Thống kê huyện Duy Xuyên, 2006, Niên giám thống kê năm 2006, Duy Xuyên
[12] Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Quảng Nam (2011), Báo cáo số 132/
BC-SNN&PTNT, ngày 27/12/2011 về sơ kết 1 năm thực hiện Quyết định số 33/2011/
QĐ-UB của UBND tỉnh về việc hỗ trợ đẩy mạnh cơ giới hóa một số khâu trong sản
xuất nông nghiệp trên địa bàn Quảng Nam, lưu tại Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Nam, Tam K
[13] Nguyễn Trọng Uyên, 1990, Đánh giá khả năng khai thác sử dụng tài nguyên thiên
nhiên Việt Nam phục vụ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
[14] Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2011), Quyết định quy định cơ chế hỗ trợ đẩy mạnh
cơ giới hoá một số khâu trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam,
giai đoạn 2011-2015, trên trang https://hethongphapluat.com/quyet-dinh-33-2011-qd-
ubnd-quy-dinh-co-che-ho-tro-day-manh-co-gioi-hoa-trong-san-xuat-nong-nghiep-
tren-dia-ban-tinh-quang-nam-giai-doan-2011-2015-do-uy-ban-nhan-dan-tinh-quang-
nam-ban-hanh.html, (truy cập ngày 18/5/2020)
[15] Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2017), Số 53/BC-UBND, ngày 07/5/2018, Báo cáo
kết quả thống kê đất đai năm 2017, lưu tại Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Nam, Tam K .
Title: CHARACTERISTICS OF AGRICULTURE IN PLAIN DISTRICTS OF
QUANG NAM PROVINCE (1997-2017)
NGUYEN VAN THI, VU THI PHUONG ANH
Abstract: The Quang Nam provincial plain districts covers an area of 190,713.7
hectares (until December, 2017), of which agricultural land accounts for 68.633%
(equivalent to 130,892.7 hectares) [1, p.15]. There are 7 administrative units on the
2nd tier in this area, including 2 cities (Hoi An and Tam Ky), 1 town (Dien Ban), and 4
districts (Duy Xuyen, Thang Binh, Phu Ninh, Nui Thanh), with 110 administrative units
on the 3rd tier (consisting of 25 wards, 4 townships and 81 communes) and a population
of 951,484 people [1, p.12]. Along with the provincial socio-economic development,
agriculture plays an important role in Quang Nam agriculture. The study is carried
out to nd out characteristics of agricultural sector in the plain districts of Quang
Nam province in the 1997-2017 period by using historical methods. Thereby, the paper
gives a historical lesson and has some suggestions in combination with the Central and
provincial guidelines and policies so as to promote the provincial rural and agricultural
modernisation.
Keywords: Agricultural economics; Plain districts; Quang Nam; Agricultural
development
110
nguon tai.lieu . vn