Xem mẫu

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 02/2007

Trường Đại học Nha Trang

VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC CỦA HỘI CHỨNG TEO GAN
TRÊN TÔM SÚ (PENAEUS MONODON FABRICIUS, 1798)
NUÔI THƯƠNG PHẨM TẠI NINH THUẬN
ThS. Nguyễn Khắc Lâm1, TS. Đỗ Thị Hòa2
1. Trung tâm Khuyến ngư Ninh Thuận
2. Trường Đại học Nha Trang
Trong vài năm gần đây, hội chứng teo gan (HCTG) đã xảy ra thường xuyên và gây tác hại không
nhỏ trên tôm sú nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận. Bài báo này giới thiệu về một số đặc điểm dịch tễ
học của hội chứng này. Quá trình nghiên cứu được thực hiện trong 2 năm từ 2004-2005 trên 250 hộ
nuôi tôm. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, HCTG có tần số bắt gặp cao (150/250), chiếm 60% hộ
được phỏng vấn và theo dõi, bệnh có một số dấu hiệu đặc thù như bỏ ăn, chậm lớn và chết từ rải rác
tới hàng loạt, gan tụy có thể teo nhỏ và chai cứng hoặc trắng nhợt và hoại tử. Hội chứng này xuất hiện
quanh năm nhưng tập trung vào các tháng 6, 7 và 8, là thời gian có nhiệt độ cao, chiếm 50,6%.
HCTG cũng xảy ra với tần số gặp cao hơn ở các ao nuôi tôm có chất đáy là cát chiếm khoảng 58%,
với các loại chất đáy khác có tần số gặp nhỏ hơn nhiều và có tần số gặp cao hơn ở các ao nuôi tôm
có mật độ cao ≥ 40 con/m2 (chiếm 74,6%) và độ sâu thấp 1,4

20

13,3

4

Tổng

150

100

Chúng ta đã biết độ sâu mực nước trong
các ao nuôi tôm thương phẩm ảnh hưởng rất
lớn tới chất lượng, độ ổn định của môi trường
và sức khoẻ của tôm nuôi [1,5]. Trong nghiên
cứu này, chúng ta lại thấy độ sâu của nước ao
còn ảnh hưởng tới tần số xuất hiện của HCTG
ở tôm nuôi. Các thông số thể hiện ở bảng 4
cho chúng ta thấy trong số 150 hộ nuôi tôm
gặp HCTG, thì có tới 86,7% hộ có độ sâu mực
nước ao < 1,4 m, chỉ có 13,3% số ao bị bệnh
này có độ sâu nước ao > 1,4m. Kết quả này

hoàn toàn không mâu thuẫn với các đặc điểm
dịch tễ đã nêu ở trên, vì hội chứng này xuất hiện
vào thời gian có nhiệt độ cao trong năm, nên ở
các ao có độ sâu thấp, nhiệt độ nước ao tăng
cao vào các tháng nóng bức, đó là điều kiện
thích hợp cho sự bùng phát của hội chứng này.
Phân tích kiểm định trên SPSS cũng cho kết quả
ở độ sâu thấp < 1,4 m thì HCTG dễ xảy ra hơn
ở độ sâu cao > 1,4 m (
P < 0,01).

χ

2

= 28,96, df=2 và

3.6. Liên quan giữa hội chứng teo gan với mật độ tôm nuôi
Bảng 5: Tần số xuất hiện của HCTG ở các mật độ nuôi khác nhau (n=150)
TT

Mật độ nuôi (Post/m2)

Tần số

Tỷ lệ (%)

1

> 60

16

10,6

2

40 - 60

96

64,0

3

25 - 40

24

16,0

4

15 - 25

14

9,4

Qua số liệu ghi trong bảng 5 cho ta thấy,
HCTG đã xuất hiện nhiều hơn ở các hộ nuôi
tôm với mật độ cao, chiếm 74,6 % ở các ao có
mật độ nuôi ≥ 40 con/m2 và chỉ gặp với tần
xuất thấp hơn nhiều ở các hộ nuôi với mật độ
thấp, chỉ chiếm 25,4% ở các ao nuôi có mật độ
< 40 con/m2. Đặc điểm dịch tễ này cho ta thấy
tác hại của HCTG ở các ao nuôi thâm canh,
mật độ cao sẽ lớn hơn các ao nuôi với mật độ
thấp.

3.7. Thiệt hại do hội chứng teo gan gây ra đối
với nghề nuôi tôm Ninh Thuận
Từ các số liệu thứ cấp thu ở các báo cáo
tổng hợp của Sở Thuỷ sản, Chi cục Bảo vệ
Nguồn lợi Thủy sản và Trung tâm Khuyến ngư
Ninh Thuận, chúng tôi đã có thông tin tổng quát
về tác hại của HCTG đã gây ra cho nghề nuôi
tôm của Ninh Thuận. Bảng 6.

Bảng 6 : Mức độ thiệt hại do HCTG gây ra cho nghề nuôi tôm tại Ninh Thuận
TT

Các chỉ tiêu theo dõi

2003

2004

2005

1

Diện tích (DT) bị HCTG (ha)

375

390

80

2

Tỷ lệ DT bị HCTG so với tổng DT nuôi (%)

25,8

26,8

22,6

3

Tỷ lệ DT bị HCTG so với tổng DT bị bệnh (%)

52,3

72,6

60,0

4

Giá trị thiệt hại ước tính do HCTG gây ra (tỷ đồng)

18,75

19,5

4,0

(Nguồn: Sở Thuỷ sản Ninh Thuận)

6

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 02/2007
Các số liệu ở bảng 6, chúng ta thấy
HCTG đã gây tác hại không nhỏ cho các vùng
nuôi tôm sú thương phẩm tại Ninh Thuận,
trong 3 năm từ 2003 đến 2005, mỗi năm có từ
22,6% - 26,8% diện tích ao nuôi tôm bị tác hại
bởi hội chứng này, chiếm từ 52,3%-72,0%
tổng số diện tích bị bệnh hàng năm và giá trị
thiệt hại ước tính do hội chứng này gây ra
khoảng từ 4 tỷ đồng (2005) - 19,5 tỷ đồng
(2004), đây là con số không nhỏ. Thiệt hại của
năm 2005 giảm đi so với 2 năm trước đó là do
các năm trước bị thiệt hại nặng, nên một số
lớn diện tích ngừng nuôi hay chuyển sang
canh tác đối tượng khác.
4. KẾT LUẬN
Từ kết quả điều tra và thu mẫu khảo sát,
chúng tôi có một số kết luận về đặc điểm dịch
tễ của HCTG trên tôm sú nuôi tại Ninh Thuận
như sau: HCTG có tần số bắt gặp cao, chiếm
60% số hộ điều tra (n=250), diện tích tôm nuôi

Trường Đại học Nha Trang
bị nhiễm hội chứng này hàng năm chiếm từ
22,6- 26,8% tổng diện tích nuôi tại địa phương
và gây thiệt hại nhiều tỷ đồng. Bệnh có dấu hiệu
đặc đặc trưng là: giảm bắt mồi, chậm lớn hay
không lớn, gây hiện tượng óp hoặc mềm vỏ,
gan tụy tôm bệnh thể hiện ở 2 dạng: teo nhỏ và
chai cứng (chiếm 64,7% trong số 150 hộ nuôi bị
hội chứng này) hoặc có màu trắng nhợt, hoại tử
(chiếm 24,0%).
Kết quả phân tích thống kê cho thấy của hội
chứng teo gan có thể xuất hiện quanh năm,
nhưng tập trung cao (50,6%) vào các tháng 6, 7
và 8, đây là các tháng có nhiệt độ cao nhất trong
năm tại Ninh Thuận. HCTG cũng xảy ra với tần
số gặp cao hơn ở các ao nuôi tôm có chất đáy
là cát (chiếm khoảng 58%), với các loại chất đáy
khác có tần số gặp nhỏ hơn nhiều. Hội chứng
này cũng có tỷ lệ gặp cao hơn ở các ao nuôi
tôm có mật độ cao ≥ 40 con/ m2 (chiếm 74,6%)
và độ sâu thấp < 1,4 mét (chiếm 86,7%).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chanratchakool.P & ctv (2003): Quản lý sức khoẻ tôm trong ao nuôi. DANIDA - Bộ Thủy Sản
2003. 151 tr.
2. Thái Ngọc Chiến (2004): Mô hình dự báo sinh trưởng của tôm sú (Penaeus monodon Fabricius,
1789) các ao nuôi tôm ở Khánh Hoà, Việt Nam. Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học
công nghệ (1984-2004) - Viện nghiên cứu NTTS 3. NXB NN TP. HCM 2004.Tr 155- 172.
3. Nguyễn Văn Hảo (2004): Một số bệnh thường gặp trên tôm sú (Penaeus monodon) các phương
pháp chẩn đoán và biện pháp phòng trị. NXB NN TP. HCM 2004. 223 tr.
4. Bùi Quang Tề (2004): Dịch tễ học bệnh thủy sản, Hệ đào tạo sau đại học, Bắc Ninh-2004, 111tr.
5. Tạ Khắc Thường (1996): Mô hình nuôi tôm sú đạt hiệu quả cao ở Nam Trung Bộ. Luận án PTS
khoa học nông nghiệp 1996, 140 tr.
6. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005): Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB
Thống kê, 349tr.
7. UBND tỉnh Ninh Thuận (2001): Đặc điểm khí hậu thủy văn tỉnh Ninh Thuận, Ninh Thuận 2001, 151 tr.
CHARACTERISTICS OF EPIDEMIOLOGY OF ATROPHIED HEPATOPANCREATIC
SYNDROME ON CULTURED BLACK TIGER SHRIMP (PENAEUS MONODON FABRICIUS, 1798)
IN NINH THUAN PROVINCE
Abstract
Some years recently, Atrophied Hepatopancreatic Syndrome (AHS) have been occurred
frequently and cause hamful effect on market cultured shrimp ponds in Ninh Thuan province. This
article introduce some characterization of epidemiology of AHS. Our research have carried out in two
years, from 2004-2005 with 250 shrimp cultured farmers Researched results showed that AHS have
occurrence frequency high (150/250) with 60% shrimp ponds ware affected. The disease have specific
signs as anorexia, slowly grow up, hard atrophied hepatopancreas or necrosis, pale white
hepatopancreas and, scattered or mass mortality. AHS can occur all year round, but concentrated in
month June, Iuly and August which it is very hot (50,6%). The syndrome also have higher frequency
in the ponds with sand bottom (58%), in the ponds have density higher 40 shrimp/m2 (74,6%) and
depth < 1,4 m (86,7%).

7

nguon tai.lieu . vn