Xem mẫu

  1. Đặc điểm của lễ hội truyền thống Việt Nam Về thời gian Lễ hội thường diễn ra vào 2 dịp xuân thu nhị kỳ: mùa xuân thì mở màn vụ gieo trồng, mùa thu để bước vào vụ thu hoạch. Đây chính là các mốc mở đầu và kết thúc, tái sinh một chu trình sản xuất nông nghiệp. Quá trình sản xuất nông nghiệp từ lúc cắm cây mạ, gieo hạt xuống ruộng, nương, người nông dân chỉ còn biết trông chờ vào sự phù hộ của các lực lượng thiên nhiên. Để tăng niềm tin cho sự trông chờ đó, họ đã tìm mọi cách tác động, cầu xin các thế lực thiên nhiên giúp đỡ. Sinh hoạt lễ hội và tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam đều bắt nguồn từ sự cầu mùa. Do đó, thời điểm tổ chức lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng, đều tùy thuộc vào mùa, vụ sản xuất, nhưng do sự phân bố không đồng đều của các dân tộc ở Việt Nam trên các vùng địa lý khác nhau, lịch viết và mùa vụ sản xuất cũng khác nhau. Điều đó khiến thời điểm tổ chức các lễ hội cũng khác nhau. Đa số lễ hội tổ chức vào hai thời điểm mùa xuân và mùa thu, nhưng ở nhiều dân tộc thiểu số, thời điểm tổ chức các lễ hội lại mở vào cuối hè (thường là tháng 6 hay tháng 7 âm lịch). Về không gian Thánh, thần là đối tượng tôn thờ, thiêng hóa của cộng đồng, nhân dân tổ chức lễ hội cũng không ngoài mục đích đó. Có thể nói, không có các vị thánh, thần thì không có lễ hội truyền thống. Trong tâm thức người Việt, thuyết linh hồn chiếm địa vị chủ đạo. Vì thế, người Việt quan niệm rằng: linh hồn các vị thánh, thần cần phải có chỗ trú ngụ và nơi nào linh hồn các vị thánh, thần trú ngụ thì đó là địa điểm linh thiêng. Trong lễ hội truyền thống, những nghi lễ, nghi trình quan trọng thường được tổ chức tập trung tại địa điểm linh thiêng. Đó là một không gian hẹp, có thể là không gian nhân tạo như đình, đền, miếu, chùa, cũng có thể là không gian tự nhiên như gò, đống, bãi… Tại những địa điểm này, cái thiêng được hiện tồn, biểu trưng như: kiểu kiến trúc, tượng, ngai thờ, nghi vật, nghi trượng và cả những ứng xử nghi lễ.
  2. Như vậy, không gian linh thiêng là một đặc điểm chung của lễ hội truyền thống, đó là nơi diễn ra các nghi lễ trọng tâm của lễ hội. Không gian linh thiêng sẽ tạo ra sức lan toả của lễ hội và quyết định đến quy mô, phạm vi của lễ hội. Nói cách khác, tình cảm, niềm tin và sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với những vị thánh, thần được thờ tại không gian linh thiêng sẽ quyết định quy mô, phạm vi của lễ hội. Do đó, cùng thờ một vị thánh, thần nhưng có nơi không khí thờ cúng lạnh lẽo, ít gây nên cảm giác linh thiêng cho khách thập phương, song có nơi lại tạo ra không khí tôn nghiêm, thu hút nhiều người đến tham dự làm cho không gian linh thiêng của lễ hội trở nên rộng lớn. Về nghi thức tổ chức Lễ hội truyền thống là lễ hội lịch sử của cộng đồng được tái hiện, làm sống lại các giá trị tốt đẹp, được tập trung trong các nhân vật mà lễ hội thờ phụng. Trong một lễ hội có rất nhiều nghi thức tuân theo trình tự nhất định, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo, quá trình tập luyện kỹ lưỡng và sự đồng lòng, hợp sức của nhân dân, nhằm làm cho lễ hội diễn ra một cách tốt nhất, thu hút nhiều người tham gia, đồng thời thỏa mãn lòng mong mỏi, chờ đợi của mọi người. Thông thường, người ta đưa ra các chuẩn mực chung về quá trình chuẩn bị và các nghi thức tổ chức lễ hội như sau: Quá trình chuẩn bị gồm hàng loạt công việc phải làm như: chọn địa điểm, trang hoàng nơi thờ tự, chuẩn bị tổ chức các trò chơi và các hoạt động dịch vụ để làm cho không khí hội trở nên sôi động và náo nức hơn; chuẩn bị đồ tế tự, lễ vật (kiểm tra, lau sạch các đồ vật như cờ, tán, lọng…, chuẩn bị lễ vật với loại hoa quả ngon, các loại bánh, gạo…); chuẩn bị về con người: những người tham gia các nội dung tế lễ (quan trọng nhất là ban hành tiết), to nhất là chủ tế (người đại diện cho dân làng hầu hạ thần linh, ngoại hình khỏe mạnh, cao tuổi, phẩm chất tốt, được nhân dân yêu quý, tín nhiệm, gia sự phải là một gia đình văn hóa, con cháu phương trượng, có vị trí trong xã hội), bồi tế (phó tế) là người kề cận chủ tế, nội táng (hai người) giúp chủ tế vào ra, Đông xướng và Tây xướng một người hô hứng, một người hô bái và một loạt những người phục vụ có thể từ 10 đến 12 người chấp sự làm nhiệm vụ dâng đồ cúng; chuẩn bị người khiêng kiệu, người cầm cờ… tất cả đều luyện tập kỹ lưỡng.
  3. Nghi thức tổ chức gồm trình tự các bước: lễ cáo yết: đây là lễ xin phép thần linh được mở hội, lễ vật ở chùa thường là đồ chay, hương, hoa quả, trà… ở những nơi đình, đền thường là xôi, gà, rượu, từ sau lễ này đèn nhang luôn được thắp sáng trên bàn thờ; lễ tỉnh sinh: là lễ dâng con vật cúng lên thần linh, thường là gà, thủ lợn, tam sinh thường ba con; lễ rước nước: người ta rất coi trọng nguồn nước, nghi thức này thường tiến hành trước ngày hội chính một ngày; lễ mộc dục và lễ gia quan: đây là lễ tắm cho tượng hoặc bài vị, lễ này được tiến hành trang nghiêm và kín đáo, thường là vào thời điểm ban đêm, nếu tiến hành ban ngày phải được che chắn cẩn thận. Người làm lễ mộc dục phải là người có đức độ và thường phải trai giới từ mấy hôm trước, khi làm lễ phải bịt miệng bằng một chiếc khăn đỏ để thần khí không xông tới thần linh. Mộc dục xong tiến hành mặc áo cho tượng. Lễ rước là nghi thức mang tính thiêng liêng thể hiện sự nghênh tiếp thần linh và biểu dương uy vũ của thần. Lễ rước cho thấy sức mạnh của cộng đồng đó là sức mạnh về kinh tế, về tình đoàn kết và của niềm tin đối với thần thánh. Lễ rước còn cho thấy trình độ và năng lực thẩm mỹ của cộng đồng đó là thẩm mỹ trong trang phục, trong cờ đoàn, trong âm thanh, văn nghệ… Lễ rước có ý nghĩa lớn về mặt xã hội - văn hóa - chính trị. Nó được coi là thành tố trung tâm, là linh hồn của lễ hội. Đại tế là nghi thức rất quan trọng trong lễ hội,
  4. đoàn tế gồm 17 đến 19 người, những người này phải trai giới trước đó một tuần. Ông chủ tế là người quan trọng nhất mặc áo dài, đội mũ, đi hài. Đại tế nhằm thỉnh mời và đón rước thần linh về dự hội với dân làng đồng thời để dâng lòng tỏ bày biết ơn tới thần linh. Diễn xướng dân gian và tục hèm là nghi thức tế lễ, nghi lễ diễn tả lai lịch và công trạng của thần, thánh với quy mô lớn. Tục hèm là nghi thức nhằm thể hiện một tín ngưỡng hoặc một sự tích gắn với vị thần được thờ. Tục hèm thực chất là một hoạt động thể hiện sự kiêng kỵ của nhân dân địa phương nếu bỏ qua tục này thì sẽ phạm đến sự phồn vinh của làng. Lễ hội truyền thống của dân tộc với những đặc điểm trên đáp ứng một cách thiết thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội. Đồng thời, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng, miền, dân tộc, tri ân công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội, nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa, tạo sự chuyển biến nhận thức biết ơn quá khứ, uống nước nhớ nguồn và giáo dục giá trị chân, thiện, mỹ. Văn hóa dân tộc được bảo tồn và hòa vào dòng chảy chung của văn hóa nhân loại. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Lễ hội truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp rất độc đáo của nền văn hóa dân tộc, mà trong đó các yếu tố tinh hoa là các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng tiêu biểu và khá bền vững thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc, được bảo tồn, lưu truyền và phát huy cao độ trong đời sống xã hội, trải qua nhiều thời đại lịch sử
nguon tai.lieu . vn