Xem mẫu

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” ĐA DẠNG GIỚI TRONG CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG NHẬP CƢ TẠI ĐÀ LẠT TS. Vũ Thị Thùy Dung Khoa Công tác xã hội, Trƣờng Đại học Đà Lạt Email: dungvtt@dlu.edu.vn Tóm tắt: Đà Lạt trong nhiều năm gần đây đã đánh dấu sự chuyển mình rất lớn trong bức tranh kinh tế xã hội của mình. Góp phần vào sự chuyển mình đó phải kể đến vai trò của lao động nữ nhập cư ở Đà Lạt. Bài viết này tập trung vào sự chuyển đổi việc làm của lao động nữ nhập cư và các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển đổi đó trong thị trường lao động ở Đà Lạt. Sự đa dạng giới được xem xét không chỉ ở sự tham gia của các giới vào nhiều lĩnh vực việc làm, khu vực việc làm, vị thế việc làm mà còn ở quá trình chuyển đổi đa dạng của các nhóm lao động nhập cư. Hai phát hiện thú vị của nghiên cứu này cho thấy, 1/trong khi ở nhiều thị trường khác, trong khi ở nam giới xu hướng chuyển sang các ngành nghề, việc làm phi nông chiếm ưu thế thì ở thị trường lao động ở Đà Lạt, nữ nhập cư lại là xu hướng chuyển sang lĩnh vực nông nghiệp; 2/Rất nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò to lớn của vốn xã hội đối với sự thay đổi nghề nghiệp, việc làm của người lao động, thì ở nghiên cứu này, so với các yếu tố (động cơ, mục đích, học vấn..), thì yếu tố vốn xã hội của họ trở nên mờ nhạt. Số liệu của bài viết được lấy từ dữ liệu trong luận án tiến sĩ của tác giả91. Từ khóa: Đa dạng giới, thị trường lao động, chuyển đổi việc làm, lao động nhập cư. Abstract: In the recent years, Đa Lat has marked a great transformation in its socio- economic picture. Contributing to this shift is the role of female migrant workers in Da Lat. This article focuses on the transition of employment of female migrant workers and the factors that influence that transition in the labor market in Dalat. Gender diversity is considered not only in the employment sectors, but also in the diversification of immigrant workers. Two interesting findings of this study indicate that, while in many other markets, while in men the tendency to shift to occupations, non-farm employment dominates, in the labor market in Da Migrant women are the tendency to move to agriculture; 2 / Many studies have shown that the great role social capital plays in the change of occupation and employment of workers in this study, compared to other factors (motives, education, etc., their social capital becomes blurred. The data of the article is taken from the data in the doctoral thesis of the author. Key words: labor market; employment conversion; immigrants 91 Luận án đã đƣợc bảo vệ năm 2016 tại trƣờng ĐHKHXHNV Hà Nội. Bằng phƣơng pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, hệ thống, phân tầng, nhiều giai đoạn, nghiên cứu đã chọn ra đƣợc 600 khách thể bao gồm 200 ngƣời nhập cƣ dài hạn, 200 ngƣời dân nhập cƣ ngắn hạn, 200 ngƣời dân địa phƣơng. 177
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 1. Đặt vấn đề Chủ đề dân nhập cƣ và lao động nhập cƣ trong nhiều năm gần đây đang là chủ đề quan tâm của rất nhiều quốc gia từ các nghiên cứu hàn lâm đến thực tiễn chính sách, ở cả trong và ngoài nƣớc (Pieter Bevelander, 2005; Shahamak Rezaei, 2007; Donald E.Eggerth & Michael A.Flynn, 2012…). Tất cả đều có những nghiên cứu rất sâu về cơ hội việc làm của dân nhập cƣ trên thị trƣờng ở nhiều nƣớc nhƣ Thủy Điển, Đan Mạch, Mỹ và Việt Nam. Pieter Bevelander, [Pieter Bevelander, 2005, 173 - 202] và Yanyi K.Djamba [Yanyi K.Djamba, 2000] cùng đề cập đến các cơ hội việc làm và sự thay đổi việc làm, nghề nghiệp của phụ nữ và nam giới di cƣ trong thị trƣờng lao động. Tuy nhiên, những cơ hội này khó khăn hơn đối với phụ nữ vì họ phải gặp rất nhiều rào cản từ phía gia đình và thể chế, từ định kiến giới, đặc biệt ở Việt Nam. Cả ở Thủy Điển hay Việt Nam thì cơ hội tham gia thị trƣờng của phụ nữ đều thấp hơn nam giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam khoảng cách này càng gia tăng do định kiến giới ở Việt Nam vốn đã sâu sắc. Cả hai nghiên cứu đều cho thấy cơ hội thay đổi nghề nghiệp việc làm của phụ nữ và nam giới trên thị trƣờng lao động trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế là rất lớn, họ có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn việc làm của mình. Với phƣơng pháp chọn mẫu phân tầng tỷ lệ, trong nghiên cứu của mình Pieter đã rất thành công trong việc lựa chọn mẫu là ngƣời di cƣ dài hạn, di cƣ ngắn hạn và ngƣời địa phƣơng. Qua đó so sánh đƣợc sự khác biệt cũng nhƣ sự thay đổi của từng nhóm di cƣ cụ thể, và vì thế chính sách đề ra phù hợp với từng nhóm đối tƣợng cụ thể. Khi bàn về các yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình di cƣ, nhiều nghiên cứu chỉ rõ vai trò của vốn xã hội, mạng lƣới xã hội (Halpern, D., 2005; Nguyễn Quý Thanh, 2005; Phạm Quốc Thắng, 1992; M.Granovestter, 1973; Corcoran, G.Ducan, 1980), cũng nhƣ vai trò của yếu tố nhân khẩu học nhƣ giới tính, học vấn, tôn giáo có ảnh hƣởng nhiều tới quyết định di chuyển và lựa chọn việc làm của họ (J.Harper, B.Wheaton, 1995; Đặng Nguyên Anh, 2005, 2007). Trong đó, yếu tố giới tính ảnh hƣởng nhiều đến khả năng di cƣ của nữ giới không chỉ trong thị trƣờng lao động mà còn hạn chế khả năng thích nghi và hòa nhập vào đời sống cộng đồng mới nơi nhập cƣ. Nghiên cứu này của chúng tôi rất đáng chú ý vì các lý do sau, thứ nhất, sự đa dạng giới và bình đẳng giới đƣợc coi là chính sách phát triển của nhiều nƣớc trong khu vực và trên thế giới, nhất là đặt nó làm một thành tố trong phát triển bền vững. Thứ hai, không giống với các nghiên cứu trƣớc đó về đánh giá tác động vốn xã hội, nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy logistic (mô hình loại bỏ các biến nhiễu) để đánh giá tác động của vốn xã hội, phát hiện ra rằng, so với các yếu tố khác (mục đích, động cơ, học vấn của ngƣời nhập cƣ), vốn xã hội có vai trò mờ nhạt đến sự thay đổi việc làm của dân nhập cƣ. Thứ 3, có một xu hƣớng chuyển đổi khác biệt của lao động nữ so với xu hƣớng chuyển đổi của nam giới, song việc làm, ngành nghề nông nghiệp của nữ nhập cƣ ở Đà Lạt khác biệt căn bản so với việc làm nông nghiệp ở các địa phƣơng khác. 178
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 2. Dữ liệu và phƣơng pháp Bài viết này sử dụng dữ liệu điều tra trên 2 phƣờng và 1 xã của Đà Lạt năm 2014 của tác giả. Với phƣơng pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, hệ thống, phân tầng, nhiều giai đoạn, nghiên cứu điều tra trên 600 khách thể là ngƣời dân ở Đà Lạt, chia đều ở ba nhóm: 200 ngƣời nhập cƣ dài hạn, 200 ngƣời nhập cƣ ngắn hạn, 200 ngƣời dân địa phƣơng. Nhập cư dài hạn là những ngƣời từ từ 15 - 59 tuổi, di chuyển từ tỉnh khác đến Đà Lạt, ở tại hộ điều tra từ 1 năm trở lên tính đến thời điểm điều tra, có đăng ký KT1, KT2, KT3 tại Đà Lạt từ 1 năm trở lên và dƣới 10 năm kể từ thời điểm điều tra. Nhập cƣ ngắn hạn là Nhập cư ngắn hạn là những ngƣời từ 15 - 59 tuổi, nhập cƣ từ tỉnh khác đến Đà Lạt, ở tại hộ điều tra dƣới 1 năm tính đến thời điểm điều tra, có đăng ký KT3, KT4 tại Đà Lạt. Dân địa phương (không di cƣ): Những ngƣời từ 15 - 59 tuổi, sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt, có hộ khẩu thƣờng trú và nơi thƣờng trú ở Đà Lạt. Những ngƣời di chuyển từ các huyện trong tỉnh đến Đà Lạt, hay từ các phƣờng của Đà Lạt cũng tính là dân địa phƣơng. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Bức tranh chung về đa dạng giới trong thị trƣờng lao động ở Lâm Đồng Nghề nghiệp của dân số phần lớn phụ thuộc vào các điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở địa phƣơng. Lâm Đồng là một tỉnh nông nghiệp, vì vậy phần lớn dân số từ 13 tuổi trở lên có công việc chính là nông nghiệp, chiếm 77,28% dân số. Các ngành nghề phi nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ thấp nhƣ: Công nghiệp chiếm 7,0%, thƣơng nghiệp chiếm 5,39%. Đối với những nghề phi nông nghiệp có sự khác nhau rõ nét giữa nam và nữ về tỷ lệ làm việc. Nam giới thƣờng đảm nhận các công việc nặng hay có yêu cầu kỹ thuật phức tạp nhƣ trong các nghề khai thác, cơ khí, điện - điện tử với tỷ trọng làm việc là 2,05%, trong khi đó phụ nữ làm việc ở các ngành này chỉ chiếm 0,09%. Tƣơng tự, phần nam giới làm việc trong các ngành sản suất vật liệu xây dựng, khai thác và chế biến lâm sản, vận tải. Còn nữ giới, phần lớn làm công việc ít nặng nề nhƣ trong ngành dƣợc và may mặc chiếm 5%, còn nam giới ở ngành này chỉ có 0,72%, hoặc trong nghề buôn bán, dịch vụ nữ là việc chiếm18%, còn nam giới chỉ 2,70%. Số ngƣời từ 15 tuổi trở lên ở Lâm Đồng có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 33.622 ngƣời chiếm 8,8% tổng dân số, tỷ lệ này đạt xấp xỉ so với toàn quốc (8,9%). Trong đó công nhân kỹ thuật có bằng và không có bằng chiếm 3,67%, sau đó là số ngƣời có trình độ trung cấp chiếm 3,22% dân số, còn nhóm cao đẳng, đại học trở lên chiếm 2% dân số. Trong khi nam giới số ngƣời có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 11,31% thì ở nữ giới tỷ lệ này chỉ là 6,44%. Đặc biệt số công nhân kỹ thuật nam giới chiếm ƣu thế với tỷ lệ 5,98% còn nữ giới chỉ chiếm 1,5%. Điều này cũng dễ hiểu bởi Lâm Đồng có nhiều ngành đòi hỏi công nhân kỹ thuật chủ yếu là nam giới nhƣ trong ngành xây dựng, cơ khí sửa chữa, công nghiệp khai thác, chế biến lâm sản... nữ có trình độ chuyên môn kỹ thuật chủ yếu là bậc trung cấp, chiếm 3,44% trong tổng số phụ nữ từ 15 tuổi trở lên. Sự cách biệt giữ nam và nữ về trình độ chuyên môn kỹ thuật thể hiện rõ theo từng độ tuổi. Ở các nhóm tuổi già, tỷ lệ nữ có trình độ chuyên môn rất nhỏ so với nam giới. Tỷ trọng này 179
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” trong độ tuổi từ 40-44 nam gấp 2,5 lần nữ, từ 45-49 gấp 4 lần, từ 50 tuổi trở lên thì tỷ trọng này của nữ chỉ bằng 1/10 của nam giới. Ở độ tuổi trẻ từ 30 tuổi trở xuống thì tỷ lệ này đƣợc thu hẹp dần. 3.2. Đa dạng giới trong thị trƣờng lao động nhập cƣ ở Đà Lạt Đặc trƣng của dân nhập cƣ ở Đà Lạt là nhập cƣ lao động, nên ngay khi họ nhập cƣ đến Đà Lạt thì điều đầu tiên là họ tìm việc và ổn định cuộc sống. Nên trƣớc khi quyết định di chuyển, họ có những tính toán, mục đích hết sức rõ ràng và chắc chắn. Có tới 47,5% tỷ lệ ngƣời nhập cƣ cho rằng họ đã “xác định rõ” khi đến Đà Lạt sẽ làm công việc gì ở đó. Mặc dù nghề nghiệp chủ yếu của các nhóm dân cƣ là lao động giản đơn (47%) và làm nhân viên dịch vụ bán hàng (22,7%), còn lại là các ngành nghề khác. Nhƣng đặc thù nghề nghiệp này lại mang một màu sắc khác biệt với các địa phƣơng khác. Ngoài các ngành nghề khác, một đặc trƣng của nhóm lao động giản đơn ở Đà Lạt đó là lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, đặc thù của lao động nông nghiệp ở Đà Lạt mang một đặc trƣng khác biệt cơ bản so với các địa phƣơng khác đó là nông nghiệp công nghệ cao. Do vậy, làm theo các công đoạn khác nhau từ trồng, chăm sóc, bảo vệ và thu hoạch cũng đòi hỏi yêu cầu nghiêm ngặt, vốn đầu tƣ lớn. Do vậy, thu nhập từ ngành này tuy vất vả nhƣng lại cao hơn nhiều so với lao động nông nghiệp ở nhiều địa phƣơng khác, thậm chí hơn cả nhiều ngành nghề, việc làm phi nông. 3.1.1. Sự tham gia và chuyển đổi lĩnh vực việc làm của lao động nhập cư Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 2 loại hình mà tỷ lệ giữa hai giới là khác nhau đó là trong khi nữ giới làm nhiều trong loại hình “cá nhân” (56%), thì nam giới làm nhiều trong loại hình “hộ gia đình kinh doanh tập thể” (100%) và “nhà nƣớc” (63,6%). Lý giải điều này liên quan đến xu hƣớng chuyển đổi việc làm của mỗi giới. Có hai xu hƣớng chuyển đổi lĩnh vực việc làm chính của ngƣời dân ở Đà Lạt hiện nay đó là 1/ xu hƣớng chuyển sang các ngành nghề, việc làm phi nông và 2/ xu hƣớng chuyển sang các ngành nghề nông nghiệp. Giữa hai xu hƣớng này thì tổng tỷ lệ xu hƣớng chuyển các ngành nghề sang phi nông (49,3%) cao hơn sang nông nghiệp (47.%). Nhƣng tỷ lệ vƣợt trội lại là nhóm từ phi nông chuyển sang nông nghiệp (chiếm 27,8%) trong khi ở nhóm phi nông sang phi nông chỉ chiếm 20% và nhóm nông nghiệp chuyển sang nông nghiệp chỉ chiếm 14,2%. Đây là một đặc trƣng nổi trội của sự chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm của ngƣời dân ở Đà Lạt. Bảng 1: Sự thay đổi lĩnh vực việc làm của nam và nữ nhập cƣ (%) Nhập cƣ Nhập cƣ Dân địa phƣơng Tổng Chuyển đổi lĩnh vực việc làm dài hạn ngắn hạn Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ HS, SV=>PN 21,0 16,0 4,0 9,0 42,0 19,0 22,3 14,7 NN=>PN 6,0 1,0 10.0 9,0 15,0 24,0 10,3 11,3 PN=>PN 29,0 27,0 32,0 10,0 10,0 12,0 23,7 16,3 HS, SV=>NN 0,0 0,0 3,0 3,0 11,0 13,0 4,7 5,3 PN=>NN 28,0 46,0 34,0 59,0 0,0 0,0 20,7 35,0 NN=>NN 16,0 10,0 15,0 10,0 16,0 18,0 15,7 12,7 Khác 0,0 0,0 2,0 0,0 6,0 14,0 2,7 4,7 180
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Dữ liệu điều tra, 2014 Với bảng số liệu 1 cho thấy sự khác nhau trong xu hƣớng chuyển đổi lĩnh vực việc làm của lao động nam và nữ giới nhập cƣ ở Đà Lạt. Trong khi nữ giới chỉ có một xu hƣớng chuyển đổi lĩnh vực việc làm từ phi nông sang nông nghiệp, thì nam giới có hai xu hƣớng chuyển đổi lĩnh vực việc làm của họ, đó là vừa từ phi nông sang nông nghiệp và từ phi nông sang phi nông. Trong khi ở nhóm dân địa phƣơng, nữ và nam giới đều có xu hƣớng từ học sinh, sinh viên sang phi nông. Xu hƣớng này cũng khác nhau ở từng nhóm nhập cƣ. Nhóm nữ nhập cƣ ngắn hạn có xu hƣớng chuyển từ phi nông sang nông nghiệp nhiều hơn nhóm nữ nhập cƣ dài hạn và nhóm dân địa phƣơng. Điều này về cơ bản có hai góc độ để lý giải, ở nhóm nữ nhập cƣ ngắn hạn, bản thân họ thiếu vắng các điều kiện và cơ hội (trình độ, kỹ năng, học vấn..) để tìm kiếm các việc làm các việc làm phi nông và thứ hai, quan trọng hơn là đối với việc làm nông nghiệp ở Đà Lạt có một đặc trƣng khác biệt là trồng trọt (rau và cà phê) trên một diện tích lớn nên thu nhập từ các việc làm này khá cao, trong khi so với các nghề khác, thu nhập từ nông nghiệp cao hơn rất nhiều. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì trong thời đại công nghiệp 4.0 bùng nổ, thị trƣờng ngày càng khắc nghiệt hơn thì phụ nữ lại có sự lựa chọn hoàn toàn khôn ngoan, an toàn mà lại mang lại lợi ích kinh tế tốt nhất cho họ. Đây là một sự lựa chọn có tính toán và đầu tƣ của nhóm phụ nữ nhập cƣ trong thị trƣờng lao động đầy tiềm năng ở Đà Lạt. Trong kiểm định mô hình hồi quy cho thấy, nam giới có xu hƣớng thay đổi lĩnh vực việc làm cao hơn nữ giới. Cụ thể, so với nhóm lao động nữ, nhóm nam giới có xu hƣớng chuyển lĩnh vực việc làm cao hơn (hệ số hồi quy mang dấu dƣơng: 0,437), tỷ số chênh là 1,5 lần, dao động trong khoảng 95% độ tin cậy từ 1- 2,3. Điều này phản ánh phù hợp với bảng số liệu 1 ở trên, trong khi nữ giới có 1 xu hƣớng chuyển đổi lĩnh vực việc làm thì nam giới có nhiều hơn 1 xu hƣớng chuyển đổi lĩnh vực việc làm. 3.1.2. Sự tham gia và chuyển đổi khu vực việc làm của lao động nhập cư Kết quả điều tra cho thấy có một sự thay đổi về khu vực việc làm của ngƣời lao động nhập cƣ trong mƣời năm gần đây. Nếu nhƣ trƣớc kia, có ba khu vực việc làm đƣợc ngƣời dân lựa chọn nhiều, đó là ở khu vực “cá nhân” chiếm 54,4%, khu vực “Nhà nƣớc” chiếm 24,4%, khu vực “tƣ nhân” chiếm 16%. Thì hiện nay, vẫn ba khu vực đó chiếm ƣu thế, song tỷ lệ ở khu vực nhà nƣớc và khu vực cá nhân giảm, trong khi ở khu vực tƣ nhân tăng lên từ 24,4% (trƣớc đây/trƣớc di cƣ) lên đến 37,8% (hiện nay). Bảng 2: Thay đổi khu vực việc làm của lao động nữ và lao động nam trƣớc và sau nhập cƣ (%) Thay đổi khu vực việc làm của nam giới Khu vực việc làm trƣớc di Khu vực việc làm sau nhập và nữ giới trƣớc và sau khi nhập cƣ cƣ (%) cƣ (%) Nam Nữ Nam Nữ Cá nhân 49,5 59,3 37,0 47,0 Hộ SXKDCT92 4,0 1,7 8,7 6,7 Tập thể 0,3 1,0 0,7 0,0 92 Hộ sản xuất kinh doanh cá thể 181
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Tƣ nhân 16,1 16,0 39,0 36,7 Nhà nƣớc 28,8 20,0 11,7 6,7 DNCVĐTNN93 0,7 1,7 3,0 3,0 Nguồn: Số liệu điều tra, 2014 Cùng chung xu hƣớng chuyển đổi việc làm nói trên, giữa lao động nam và lao động nữ nhập cƣ không có quá nhiều sự khác biệt. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động nữ vẫn lựa chọn xu hƣớng khu vực việc làm “cá nhân” (47%) cao hơn lao động nam (37%). Xu hƣớng chuyển từ khu vực “cá nhân” sang khu vực “tƣ nhân” cùng đƣợc hai giới lựa chọn. Cùng chung xu hƣớng giảm ở khu vực “Nhà nƣớc” nhƣng tỷ lệ lao động nam vẫn lựa chọn khu vực này (11,7%) nhiều hơn so với tỷ lệ lao động nữ (6,7%). Điều này càng tiếp tục khẳng định xu hƣớng lựa chọn bền chặt của nữ giới với lĩnh vực và khu vực việc làm mà họ theo đuổi. 3.1.3. Sự thay đổi vị trí việc làm của người lao động nhập cư Một đặc trƣng của lao động nhập cƣ ở Đà Lạt chiếm tỷ lệ lớn là lao động nông nghệp, trồng café, do vậy, việc di động việc làm, đặc biệt là vị thế nghề nghiệp khó khăn hơn so với nhiều ngành nghề khác, vì liên quan đến vốn đầu tƣ để mở rộng quy mô hoặc đầu tƣ phát triển việc làm của mình. Tuy nhiên, cũng có một tỷ lệ đáng kể nói “tăng vị thế” so với trƣớc di cƣ. Nếu xét trong tỷ lệ vị thế việc làm “tăng”, có sự khác nhau giữa nhóm nhập cƣ ngắn hạn và nhóm nhập cƣ dài hạn. Vị trí việc làm “tăng” ở nhóm nhập cƣ ngắn hạn (11,5%) và nhóm dân địa phƣơng (14,6%), thì tỷ lệ này ở nhóm nhập cƣ dài hạn lại chỉ chiếm 6%. Và xu hƣớng vị trí việc làm hiện nay so với trƣớc kia “giảm” lại rơi vào nhóm nhập cƣ dài hạn (45,5%) và nhóm dân địa phƣơng (42,7%). Điều này không cùng chung xu hƣớng với sự chuyển đổi ngang trong nghề nghiệp của hai nhóm này. Và nhƣ vậy, cho thấy trong khi nhóm nhập cƣ dài hạn và nhóm dân địa phƣơng có xu hƣớng di động nghề nghiệp theo chiều ngang, thì nhóm nhập cƣ ngắn hạn lại có xu hƣớng theo chiều dọc. Điều này phù hợp với nhóm nhập cƣ ngắn hạn. Họ vào Đà Lạt làm thêm là để có bƣớc đệm cho việc học hành của họ. Trong tƣơng quan 3 biến giữa tình trạng nhập cƣ, giới tính của ngƣời trả lời và sự thay đổi vị trí công việc thì có một số khác biệt rõ rệt. Ở nhóm nhập cƣ dài hạn, nhóm nữ giới lại có xu hƣớng thay đổi vị trí công việc theo xu hƣớng “tăng lên” so với nhóm nam giới (8% ở nữ so với 4% ở nam). Và vì thế, ở loại hình nhập cƣ này, nhóm nam giới có xu hƣớng “giảm” ở sự thay đổi vị trí công việc. Đối với nhóm nhập cƣ ngắn hạn, thì xu hƣớng lại ngƣợc lại, nhóm nam giới lại có xu hƣớng thay đổi vị trí công việc theo xu hƣớng đi lên cao gấp đôi nhóm nữ giới (16% ở nam so với 7% ở nữ). Cả hai xu hƣớng trên không phản ánh ở nhóm dân địa phƣơng. Điều này phản ánh tính năng động trong quá trình chuyển đổi việc làm của lao động nữ nhập cƣ. Đặc biệt, khi họ có điều kiện về thời gian và kinh nghiệm, “sức bật” của họ tƣơng đối lớn hơn so với nam giới. 3.3. Vai trò của vốn xã hội đối với sự thay đổi việc làm của ngƣời lao động nhập cƣ ở Đà Lạt 93 Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 182
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Có nhiều yếu tố đƣợc đƣa ra xem xét trong mối quan hệ đến sự thay đổi việc làm của lao động nhập cƣ trong đó có lao động nữ nhập cƣ. Tuy nhiên, ở bài viết này chúng tôi đƣa ra và sử dụng yếu tố vốn xã hội để làm rõ thêm bức tranh và vai trò của vốn xã hội thực sự đến việc làm của lao động nhập cƣ nhƣ thế nào. Có một xu hƣớng đánh giá giống nhau giữa ngƣời nhập cƣ và dân nhập cƣ về vai trò của các mối quan hệ xã hội đến sự thay đổi việc làm của họ. “Theo em là có. Vì điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi việc làm của bản thân mình. Không chỉ là tạo được nhiều mối quan hệ mà phải có những mối quan hệ mà đáng để chúng ta thân thiết, tin tưởng nữa. Chỉ có chỗ quen biết thân thiết với nhau thì họ mới chia sẻ thông tin việc làm cho mình… ” (PVS 9, Nữ, 29 tuổi, NVVP, Nhập cƣ dài hạn). “…Đa số là nhờ người thân, ở Đà Lạt ít có công ty nên họ phải nhờ người thân ở Đà Lạt chủ yếu là quan chức làm nhà nước, chính quyền là nhiều. Mà việc xin vào Nhà nước thì lại càng khó khăn hơn nên cần có người hỗ trợ nữa. Còn những công việc làm ở khách sạn thì cũng cần có người quen biết mới xin vào làm chỗ tốt được” (PVS 5, Nam, 30 tuổi , Nhân viên kế toán, Nhập cƣ ngắn hạn) “Chị vào trước, nhưng mà nhà chị cũng có mấy anh con bác vào đây trước rồi. Chị gái chị cũng vào đây trước rồi. Đầu tiên chỉ có một anh con ông bác vào thôi sau đó mới kéo tất cả những anh em và bố mẹ vào hết” (PVS 6, Nữ, 39 tuổi, Buôn bán, Nhập cƣ dài hạn) Nhƣ vậy, qua kết quả phỏng vấn sâu trên cũng trùng khớp với kết quả của định lƣợng là những ngƣời nhập cƣ vào Đà Lạt ban đầu đều nhờ qua ba nguồn đang sống ở Đà Lạt giới thiệu vào đó là “ngƣời thân ruột thịt” (27,3%), “họ hàng và đồng hƣơng” (17 – 18,3%), và “bạn bè” (27%). Và nhƣ các dẫn chứng ở phỏng vấn sâu ta có thể thấy ban đầu, đó là các mối quan hệ họ hàng thân thích, ngƣời thân quen trong gia đình giới thiệu họ vào. Và nhƣ vậy, vốn xã hội của ngƣời nhập cƣ ban đầu đó là dạng vốn xã hội dạng co cụm (Bonding Social Capital). Mọi ngƣời giới thiệu nhau dựa trên tình cảm thuần túy và giúp đỡ phi vật chất là chủ yếu, mà cụ thể ở đây là cung cấp thông tin. “Họ có liên kết với người dân bản địa. Họ cũng liên kết với người cùng nhập cư. Họ thường sống theo nhóm rồi đùm bọc lẫn nhau. Ví dụ như bạn vô trước, bạn có người anh em họ, người quen, người thân thì người kia cứ thế họ vô. Vì đã có người quen ở đây. Như ở khu trọ này cũng có nhiều người nhập cư từ miền Bắc vô phần lớn là như vậy.… Họ sống thành nhóm, đó là giúp đỡ nhau về mặt tinh thần rồi. Về tài chính, họ vẫn thường hay cho nhau vay mượn. Ví dụ, hôm nay mình có tiền nếu bạn cần thì mình cho bạn mượn và ngược lại. Hay là chơi huê, chơi hụi với nhau” (PVS 1, Nam, 25 tuổi, Giáo viên, Dân địa phƣơng). “Có liên kết chứ. Nếu họ không liên kết sao họ tồn tại được. Họ vào đây phải liên kết với người bản địa để có công ăn việc làm hay là để hết hợp làm ăn. Sự liên kết này là từ cả hai phía đều cần. Người Đà Lạt cần nhân công lao động còn người nhập cư thì họ cần phải có việc mà làm ăn sinh sống” (PVS 10, Nam, 55 tuổi, Buôn bán, Dân địa phƣơng). Và ta còn thấy ở đây, không chỉ là sự đó là sự liên kết, hợp tác của những ngƣời cùng nhập cƣ, của những ngƣời nhập cƣ với ngƣời dân địa phƣơng trong trao đổi làm ăn, thậm chí 183
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” trong cả các hoạt động hội nhập vào cộng đồng nơi đến. Ở đây, thì rõ ràng từ vốn xã hội co cụm, ngƣời nhập cƣ đã biết mở rộng ra thành vốn xã hội bắc cầu (Bridging social capital) và vốn xã hội liên kết (Linking social capital). Ở đây, đúng nhƣ quan điểm của Putnam khi bàn về vốn xã hội. Ông cho rằng vốn xã hội là có tính sản xuất, khiến cho cá nhân có thể đạt đƣợc những mục đích nhất định, mà nếu thiếu nó sẽ không thể đạt đƣợc (Putnam, 1993: 167). Điều này có nghĩa là vốn xã hội là một nguồn lực mà các nguồn lực khác có thể đầu tƣ vào đó với kỳ vọng cho tƣơng lai, cho dù lợi nhuận là không chắc chắn. Thông qua việc đầu tƣ xây dựng vào những mạng lƣới quan hệ bên ngoài, các tác nhân cá nhân và tập thể có thể làm tăng vốn xã hội của họ và bằng cách đó có đƣợc sự tiếp cận với thông tin, quyền lực và bản sắc. Vốn xã hội nhƣ là “chất bôi trơn” để đẩy nhanh các tiến trình sớm đi đến kết quả. Ngƣời dân đều nhận thức đƣợc vai trò của các mối quan hệ trong môi trƣờng xã hội nói chung, và môi trƣờng của ngƣời nhập cƣ nói riêng. Tuy nhiên, khi đƣa vào mô hình hồi quy trong tƣơng quan với nhiều biến độc lập khác kết quả lại cho thấy một điều khá thú vị. Với 4 mô hình hồi quy, kiểm định về sự thay đổi các khía cạnh của việc làm (lĩnh vực việc làm, khu vực việc làm, vị trí việc làm, thu nhập chi tiêu từ việc làm), đều cho thấy vốn xã hội và sự thay đổi việc làm của ngƣời nhập cƣ không có ý nghĩa thống kê. Bảng số liệu dƣới đây là một ví dụ. Bảng 3: Mô hình hồi quy về ảnh hƣởng của các biến độc lập đến sự thay đổi vị trí việc làm Khoảng tin cậy 95% Tỷ số của Exp (B) Hệ số hồi Mức ý Biến số Phân tổ biến số chênh Exp quy B nghĩa Sig. Cận dƣới Cận trên (B) Lower Upper Học vấn Trên THPT (nhóm đối -- -- -- -- -- sánh) THCS trở xuống -0,987 0,002** 0,373 0,201 0,691 ** THPT -0,931 0,003 0,394 0,211 0,736 Động cơ Có xác định rõ việc làm 0,651 0,006** 1,918 1,211 3,039 mục đích di trƣớc khi đến Đà Lạt cƣ Không xác định rõ việc làm trƣớc khi đến Đà Lạt (nhóm đối sánh) Vốn xã hội Có ngƣời quen ở Đà Lạt -0,149 0,587 0,861 0,502 1,476 Không có ngƣời quen ở Đà -- -- -- -- -- Lạt (Nhóm đối sánh) Hằng số -0,899 0,092 0,407 Chú thích: * sig
  9. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Tiếp tục kiểm định mô hình hồi quy tƣơng tự đến sự thay đổi khu vực việc làm và thay đổi vị thế việc làm, kết quả vẫn nhận đƣợc mức ý nghĩa sig= 0.860 (đối với thay đổi khu vực việc làm) và sig = 0.284 (đối với thay đổi vị thế việc làm), vẫn lớn hơn rất nhiều so với mức ý nghĩa 0.05. Do vậy, càng khẳng định vai trò của vốn xã hội đối với sự thay đổi việc làm của dân nhập cƣ là tƣơng đối mờ nhạt. Hay nói cách khác, so với các yếu tố khác, vốn xã hội chỉ giống nhƣ “chất bôi trơn” thúc đẩy khi có đầy đủ các yếu tố cần nhƣ động cơ, mục đích, hay trình độ tay nghề của ngƣời nhập cƣ. Điều đó, một lần nữa cho ngƣời nhập cƣ lao động ở Đà Lạt nói riêng và ngƣời dân lao động nhập cƣ nói chung, không nên trông chờ vào vốn xã hội, khi chƣa có đủ các yếu tố cần thiết khác thuộc về bản thân họ. 4. Kết luận và bàn luận Từ những phân tích trên cho thấy tính đa dạng giới thể hiện trên rất nhiều khía cạnh đa dạng và phong phú của việc làm. Không chỉ là sự khác biệt giữa hai giới mà còn là sự năng động trong quá trình chuyển đổi việc làm của từng giới. Ngay trong bản thân nữ giới, cũng có màu sắc đa dạng khác nhau theo từng loại hình nhập cƣ. Trong thay đổi lĩnh vực việc làm, nữ giới có một xu hƣớng chuyển đổi việc làm sang nông nghiệp, trong khi nam giới có hai xu hƣớng chuyển đổi là sang nông nghiệp và cả phi nông. Nhƣ vậy, một đặc trƣng có thể thấy đối với lao động nhập cƣ ở Đà Lạt là nữ giới làm chuyên nghề hơn so với nam giới làm đa nghề, và vì thế sự thay đổi vị thế việc làm của họ có thể đã tốt hơn nam giới (có thể cần chứng minh thêm). Trong xu hƣớng chuyển đổi khu vực việc làm, nữ giới cũng ít sự lựa hơn nam giới. Trong khi nữ giới có một xu hƣớng chuyển nhiều từ khu vực “cá nhân” sang khu vực “tƣ nhân”, thì nam giới vẫn có xu hƣớng lựa chọn cả ba khu vực “tƣ nhân”, “cá nhân”, “nhà nƣớc”. Điều này cho thấy đứng trƣớc xu hƣớng phát triển của thị trƣờng, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và công nghệ 4.0 thì xu hƣớng của việc làm của nữ lao động nhập cƣ lựa chọn “vùng an toàn” cho chính họ. “Vùng an toàn” ở đây là lĩnh vực và khu vực việc làm mà họ tự tin nhất có thể làm, tự tin để không xảy ra nhiều rủi ro mà lại mang lại nguồn thu nhập cao và ổn định cho họ và cho gia đình họ, đó là làm nông nghiệp – nông nghiệp công nghệ cao và quy mô sản xuất lớn. Điều này tạo ra sự khác biệt, đặc thù ở Đà Lạt nói chung và đối với nhóm nữ lao động nhập cƣ ở Đà Lạt nói riêng. Nếu tách riêng yếu tố vốn xã hội để xem xét (mối quan hệ và sự chia sẻ), thì vốn xã hội cũng có quan hệ đến sự thay đổi việc làm của ngƣời lao động nhập cƣ ở Đà Lạt. Tuy nhiên, khi xem xét với nhiều yếu tố khác, thì vốn xã hội lại có ảnh hƣởng khá mờ nhạt đến sự thay đổi này. Điều này một lần nữa cho thấy, vốn xã hội chỉ nhƣ “chất bôi trơn”, thúc đẩy hơn quá trình chuyển đổi của họ, khi họ có các yếu tố cần và đủ đến từ bên trong họ hơn là yếu tố ngoài họ. Đó là động cơ, mục đích và học vấn. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng, các kết quả đƣa ra mới là các phát hiện ban đầu, rất cần các nghiên cứu sâu hơn để củng cố thêm lập luận trên. Yếu tố vốn xã hội ở đây mới xem xét trên hai khía cạnh là mối quan hệ và sự chia sẻ. Các cấp độ của vốn xã hội (cá nhân, gia đình, cộng đồng) cũng nhƣ các hình thái của nó (vốn xã hội nội tại, vốn xã hội bắc cầu, vốn 185
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” xã hội liên kết) cần đƣợc đánh giá đầy đủ trong tƣơng quan mô hình sẽ có thể có thêm các kết luận thú vị hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Shahamak Rezaei. (2007). “Breaking out: The dynamics of immigrant owned businesses” Journal of Social Sciences, Volume 3, 2007, pp 94 -105. ISSN Online: 1558- 6987. 2. Donald E. Eggerth, Michael A. Flynn. (2012). “Applying the theory of work adjustment to Latino immigrant workers: An exploratory study”, Journal of Career Development, Volume: 39 issue: 1, pp : 76-98, University of Missouri, Columbia. 3. Granovetter, Mark. (1974). Getting a job: A Study of Contacts and Careers, Cambridge Mass: Havard University Press. 4. Halpern, D. (2005). Social Capital, Polity Press, Cambridge, UK, pp.1 – 41. 5. Đặng Nguyên Anh. (2005). “Khía cạnh giới của lao động nhập cƣ trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa”, Tạp chí nghiên cứu phụ nữ ( 2(69)), tr. 35 – 40. 6. Đặng Nguyên Anh. (2007). Giáo trình Xã hội học dân số, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.137 – 147. 7. Nguyễn Quý Thanh. (2005). “Sự giao thoa giữa vốn xã hội với các giao dịch kinh tế trong gia đình”, Tạp chí Xã hội học (2(90)), tr.95-100. 186
nguon tai.lieu . vn