Xem mẫu
CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA CNDV VÀ CNDT
QUA ĐƯỜNG LỐI TRIẾT HỌC CỦA ĐÊMÔCRÍT VÀ PLATÔN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
MO DAU
Triết học với tính cách là hệ thống các quan điểm, quan niệm của con
người về thế giới….là một hình thái ý thức xã hội chỉ xuất hiện từ khi xã hội có
phân chia giai cấp, có sự tách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI TCN ở một số
trung tâm văn minh thời cổ đại đó là Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp và La Mã cổ
đại
Có thể nói lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm. Đây là một trong những quy luật nội tại của sự phát triển
các tư tưởng triết học trong lịch sử. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy Lạp cổ đại diễn ra rất gay gắt, cuộc đấu
tranh đó được thể hiện trong đường lối triết học của Đêmôcrít và Platôn
Nghiên cứu lịch sử triết học là nghiên cứu quá trình hình thành, phát sinh
và phát triển các tư tưởng triết học trong các giai đoạn phát triển khác nhau của
lịch sử. Sự hình thành các tư tưởng triết học bao giờ cũng bị chi phối bởi những
điều kiện kinh tế xã hội đương thời. Điều kiện kinh tế xã hội là cơ sở trực tiếp
dẫn đến sự hình thành và phát triển các tư tưởng triết học. Do vậy khi nghiên
cứu một tư tưởng triết học, một hệ thống triết học trong lịch sử trước hết
chúng ta cần phải làm rõ cơ sở kinh tế, cơ sở chính trị dẫn đến sự hình thành và
phát triển tư tưởng triết học đó như thế nào
Hy Lạp cổ đại là một trong những cái nôi của văn minh nhân loai. Hy Lạp
không chỉ nổi tiếng với những thành tựu trong khoa học tự nhiên, trong văn học
nghệ thuật mà còn là quê hương của một nền triết học phát triển rực rỡ bao
gồm những hệ thống, nhưng trường phái triết học khác nhau gắn liền với
những tên tuổi của những nhà triết học lớn khởi đầu cho sự phát triển của triết
học Tây Âu sau này. Vì vậy việc nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại nói chung,
triết học của Đêmôcrít và Platôn nói riêng có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và
thực tiễn. Để có cơ sở hiểu được nó trước hết phải nghiên cứu đôi nét về lịch
sử xã hội Hy Lạp cổ đại
Vào khoảng 1000 năm TCN, chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, xã hội
Hy Lạp cổ đại đã chuyển dần sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Đặc biệt từ thế kỷ
thứ VII TCN công cụ sản xuất bằng sắt đã phát triển làm cho thủ công nghiệp
phát triển mạnh mẽ, quan hệ tiền – hàng ngày càng phổ biến làm cho thương
nghiệp, giao lưu buôn bán, trao đổi giữa các vùng trong nước thêm mở rộng dẫn
đến sự ra đời của các thành bang (Poli) và các trung tâm kinh tế văn hoá lớn mà
nổi bật là Aten và Spác. Thời kỳ này người Hy Lạp đã có thể đóng đựoc những
chiếc thuyền lớn cho phép họ vượt biển Địa Trung Hải để tìm đến những miền
đất mới. Nhờ đó mà lãnh thổ của Hy Lạp và thuộc địa của nó được mở rộng tạo
điều kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc
Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến các quan hệ và tổ chức xã hội cũa
bị đảo lộn. Nếu như trước đây các tổ chức xã hội cũ như bộ tộc, bộ lạc… mang
tính cộng đồng cao, thì giờ đây xuất hiện các tư tưởng tư hữu và sau đó là chế
độ tư hữu về của cải. Điều đó buộc mỗi người cần ý thức và suy nghĩ hơn về
bản thân mình, họ cần có một lập trường sống riêng phù hợp với hoàn cảnh
mới. Nhu cầu đó đòi hỏi sự ra đời của triết học, giúp con người không chỉ biết
tuân theo những quan niệm trước đây, mà còn phê phán những chuẩn mực của
xã hội cũ, đồng thời xây dựng một nền tảng thế giới quan mới
Cùng với sản xuất trong đời sống chính trị – xã hội Hy Lạp cổ đại cũng
diễn ra những thay đổi lớn đó là chế độ sử hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra
đời, giải phóng các thành viên công xã, biến xã hội Hy Lạp thành một xã hội
chiếm hữu nô lệ điển hình với hai giai cấp chủ nô và nô lệ. Giai cấp nô lệ bị áp
bức bọc lột cùng cực, họ đã nhiều lần vùng lên đấu tranh nhưng đều bị đàn áp
đẫm máu. Giai cấp nô lệ không tự bảo vệ cũng như không xây dựng được thế
giới quan cho riêng mình để phản ánh quyền lợi và tiếng nói của họ. Cuộc đấu
tranh giữa giai cấp chủ nô và nô lệ dẫn đến sự ra đời của triết học đó là cuộc
đấu tranh giưã chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy Lạp
cổ đại
Nhờ chế độ nô lệ mà giai cấp chủ nô Hy Lạp có được đặc quyền và điều
kiện để nghiên cứu sáng tạo triết học và nghệ thuât. Tuy nhiên cần phải thấy
rằng vai trò đó là khác nhau đối với các bộ phận trong giai cấp chủ nô. Giai cấp
chủ nô Hy Lạp bị phân hoá thành hai bộ phận chính là chủ nô dân chủ và chủ nô
quý tộc. Chủ nô dân chủ có tư tưởng cấp tiến thường đứng trên lập trường duy
vật vô thần và dựa trên những tri thức khoa học để chống lại những thế lực tôn
giáo, bảo thủ, khởi xướng những cải cách dân chủ, thúc đẩy xã hội phát triển.
Trái lại bộ phận chủ nô quý tộc có tư tưởng bảo thủ chống lại chủ nô dân chủ
thường đứng trên lập trường duy tâm tôn giáo lạc hậu và phản động.
Đây là cơ sở cội nguồn cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm tôn giáo trong triết học Hy Lạp cổ đại mà đại biểu là Đêmôcrít
đứng trên lập trường duy vật vô thần và Platôn đứng trên lập trường duy tâm
tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết
học Hy Lạp cổ đại về sau này được Lênin khái quát là cuộc đấu tranh giữa
đường lối Đêmôcrít và Platôn trong triết học. Đây chính là cuộc đấu tranh ý thức
hệ của hai tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc trong triết học Hy Lạp cổ
đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ đầu đã mang tính giai cấp sâu sắc, song
về thực chất đó là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị, là công
cụ lý luận nhằm duy rì và bảo vệ trật tự xã hội đương thời phục vụ cho giai
cấp chủ nô. Như Mác, Ăng ghen nhận xét: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng
của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị…giai cấp nào chi phối những
tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh
thần…Những tư tưởng thống trị không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện
tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị…được biểu hiện dưới dạng tư
tưởng”
Từ nền văn minh của Hy Lạp La mã cổ đại đã cho ta thấy rằng tri thức
khoa học tự nhiên phát triển mạnh. Chính sự xuất hiện các tri thức khoa học sơ
khai, như việc phát minh ra lịch một năm có 12 tháng với 365 ngày của TaLét,
những phát kiến về toán học của Ta Lét và Pitago, hình học của Ơclít, vật lý
học của Acsimét là cơ sở để hình thành những quan điểm duy vật trong triết
học. Chúng làm cho các quan niệm thần thoại truyền thống và tôn giáo nguyên
thuỷ đã không còn đáp ứng và lý giải được những vấn đề mới của thế giới
quan. Những khám phá khoa học đầu tiên của người cổ đại đã cho thấy sự giả
diối của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh quan của các tôn giáo thần thoại, đòi
hỏi con người phải có cách lý giải mới về thế giới xung quanh và cuộc sống
của mình. Triết học ra đời ở thời kỳ này (triết học duy vật ) là một dạng thế
giới quan hoàn toàn mới dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc, những kết luận và tri
thức triết học mang tính lý luận khái quát cao được nảy sinh đã đẩy các dạng
thế giới quan trước chúng vào lĩnh vực hoạt động nghệ thật hay sáng tác dân
gian
Tất cả những tiền đề kinh tế xã hội của xã hội Hy Lạp cổ đại, đặc biệt
là mâu thuẫn giai cấp trong xã hội giữa giai cấp chủ nô dân chủ và chủ nô quý
tộc đã phản ánh đậm nét những tư tưởng triết học bằng cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chúng ta sẽ càng thấy rõ hơn những
điều khẳng định ở trên qua nội dung tư tưởng triết học của Đêmôcrít và Platôn
Đêmôcrít và Platôn là hai đại biểu tiêu biểu cho tư tưởng triết học duy vật
và duy tâm trong triết học Hy Lạp cổ đại
Đêmôcrít (460 – 370 TCN)
Ông xuất thân từ một gia đình giầu có nên có điều kiện học hành, ông là
người có hiểu biết sâu rộng nhiều mặt và nhiều lĩnh vực. Lênin đánh giá: “Ông
là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp cổ đại về mặt triết học”
Platon (427 – 347 TCN)
Ông cũng là một trong những đại biểu xuất sắc nhất thời cổ đại, ông sinh
ra trong một gia đình quý tộc. Ngay từ khi 18 tuổi ông đã theo tập đoàn quý tộc
phản động do Xôcrát đứng đầu hoạt động chống lại chế độ dân chủ ở Aten.
Platôn là học trò và là người kế thừa, phát triển tư tưởng triết học của Xôcrát
thành một hệ thống triết học duy tâm khách quan đối lập với triết học duy vật
của với Đêmôcrít
Sự đối lập giữa triết học duy vật vô thần của Đêmôcrít và triết học duy
tâm khách quan của Platôn là cuộc đấu tranh điển hình trong lịch sử triết học Hy
Lạp cổ đại được thể hiện trên các phương diện sau
Về Bản thể luận.
Đêmôcrít kiên định lập trường duy vật vô thần. Theo ông khởi nguyên của
thế giới không phải là một sự vật cụ thể nào đó như nhiều nhà triết học trước
đó đã quan niệm mà là nguyên tư, là vật chất. Ông đã kế thừa và phát triển
thuyết nguyên tử của Lơ xíp lên một trình độ mới.. Nguyên tử vận động trong
chân không, khi kết hợp lại thì thành sự vật, khi tách rời thì sự vật mất đi.
Theo Đêmôrít nguyên tử là những hạt vật chất rất nhỏ nhiều vô hạn
không thể phân chia được, không khác nhau về chất mà khác nhau về hình dạng,
tư thế và trình tự sắp xếp. Chính sự khác nhau này mà tạo nên sự khác nhau
giữa các sự vật. Sự xuất hiện hay mất đi của các sự vật hiện tượng là kết quả
của sự kết hợp hay phân tán của nguyên tử.
Đêmôcrít đã dùng thuyết nguyên tử để giải thích sự hình thành vũ trụ. Ông
cho rằng vũ trụ là một khoảng không vô cùng tận trong đó chứa vô số các hành
tinh khác nhau. Sự hình thành vũ trụ là do cơn lốc nguyên tử xô đẩy làm cho các
nguyên tử to nặng thì ở tâm, các nguyên tử nhẹ, nhỏ thì ở xa tâm. Nhờ đó mà các
hành tinh kể cả trái đất được tạo nên (Đây là một phát kiến vĩ đại của ĐêmôCrít
mà các nhà khoa học bây giờ vẫn còn đang tìm hiểu). Nét đặc sắc trong triết học
duy vật của Đê mô crít là chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng sở dĩ con người tin
vào thần thánh là vì con người bị bất lực trước những hiện tượng khủng khiếp
của thiên nhiên. Đêmôcrít cho rằng sự sống của con người là kết quả của sự
biến đổi tự nhiên, bắt đầu từ sinh vật sống ở dưới nước rồi đến động vật có
vú. Trải qua sự biến đổi lâu dài của giới tự nhiên mới thành con người. Con
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn