Xem mẫu

  1. ''Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh thần tự lực, tự cường…'' 08:38' 21/05/2003 (GMT+7)  (VietNamNet) - Đó là một trong những nội dung được ông Trần Đình Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh khi trả lời phỏng vấn của báo điện tử VietNamNet. Cũng theo ông Trần Đình Hoan, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là tư tưởng lấy dân làm gốc, mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi Ông Trần Đình Hoan thăm toà soạn dân và việc xây dựng Đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam… báo điện tử VietNamNet. - Thưa ông, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào để giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước? - Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), Đảng ta đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của đảng và cách mạng Việt Nam. Có thể nói, Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, mà cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh thần tự lực, tự cường, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào hoàn cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam; là tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là tư tưởng lấy dân làm gốc, mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân và việc xây dựng Đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam… Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và ngày nay đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giữ vững độc lập dân tộc và định hướng Xã hội Chủ nghĩa của đất nước chính là: Tăng cường củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá, Việt Nam muốn là bạn của các nước nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. - Như Bác Hồ và Đảng ta đã chỉ rõ, công tác cán bộ là vấn đề quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Trong thời kỳ mới, Đảng đã có những chủ trương gì để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch vững mạnh, hạn chế đến mức tối đa những trường hợp cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất? - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Bác Hồ luôn luôn quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cán bộ là gốc của mọi công việc"; "Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém", bởi vì khi đã có chủ trương, đường lối đúng thì việc tổ chức thực hiện đường lối đó như thế nào để đưa chủ trương, đường lối đi vào cuộc sống sẽ phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ tốt hay kém. Hồ Chủ Tịch cũng chỉ ra những yêu cầu cụ thể đối với người cán bộ cách mạng là: phải Ông Trần Đình Hoan (phải) và Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông tại toà soạn VietNamNet. tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, không phải làm cán bộ là để làm "quan cách mạng" mà là để làm người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; người cán bộ cách mạng phải có năng lực tổ chức thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phải vừa có đức, vừa có tài, nhưng đức là gốc. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, người cán bộ càng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, có phong cách công tác tốt, chống bệnh quan liêu, đại khái, nói phải đi đôi với làm; phải luôn luôn học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến công tác cán bộ. Người yêu cầu và thường xuyên nhắc nhở phải "hiểu và đánh giá cho đúng cán bộ". Muốn làm tốt yêu cầu này, đòi hỏi phải nhận xét, đánh giá cán bộ một cách công tâm, khách quan, có tiêu chí đánh giá phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, của mỗi thời kỳ cách mạng và đối với từng cấp, từng ngành, từng địa phương; phải "khéo dùng cán bộ" và "dụng nhân như dụng mộc”, tức là khi sắp xếp, bố trí cán bộ sao cho phù
  2. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng cho công tác xây dựng tổ chức Hội LHTN Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước Reply Contact Một trong những di sản to lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt đối với các thế hệ thanh niên Việt Nam là tư tưởng “Đại đoàn kết dân tộc”, trong đó có xây dựng Hội LHTN Việt Nam, đoàn kết, phát huy sức mạnh của các tầng lớp thanh niên trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc trước đây và mãi mãi có giá trị trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay. Đoàn kết là sức mạnh truyền thống của dân tộc ta, theo Bác và thực tiễn cách mạng đã khẳng định: đoàn kết là cội nguồn của mọi thành công. Vì vậy, Bác đã đặc biệt quan tâm, chăm lo tới mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên để tổ chức cho thanh niên tham gia con đường cách mạng. Trong tư tưởng và mỗi việc làm của Bác luôn quan tâm sâu sắc tới việc đoàn kết để phát huy thanh niên. Về vấn đề đoàn kết thanh niên và xây dựng tổ chức Hội LHTN Việt Nam, Người đã để lại cho chúng ta tư tưởng lớn về lý luận và thực tiễn trong công tác vận động thanh niên mà sợi chỉ đỏ xuyên suốt là xây dựng Đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng thời hình thành lực lượng hùng hậu phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. để phát huy tốt vai trò nòng cốt của Đoàn trong phong trào thanh niên và tổ chức Hội: "Muốn củng cố, phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên; phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên, phải tránh thành kiến, hẹp hòi và cô độc. Phải thật thà đoàn kết và hợp tác với anh chị em thanh niên”. Vận dụng tư tưởng của Bác và quán triệt quan điểm mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên là một bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết dân tộc vì vậy để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thì phải tiếp tục xây dựng tổ chức Hội LHTN Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ chức thanh niên Việt Nam yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hội LHTN Việt Nam là mặt trận đoàn kết, tập hợp rộng rãi tất cả thanh niên Việt Nam; là môi trường giáo dục lòng yêu nước, ý chí bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tinh thần tự lực tự cường của các tầng lớp thanh niên Việt Nam. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã xác định trong đoàn kết, tập hợp thanh niên phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm củng cố niềm tin, bồi đắp lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa, ý thức pháp luật; tạo sự thống nhất về tư tưởng và nhận thức trong các tầng lớp thanh niên. Đặc biệt coi trọng giáo dục lòng yêu nước, các giá trị truyền thống của dân tộc, của Đảng, làm cho lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành phẩm chất tiêu biểu của người thanh niên trong thời kỳ mới. Phải đưa thanh niên chủ động tham gia phong trào cách mạng, do vậy phải tích cực triển khai phong trào “Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và cuộc vận động do Đại hội Hội LHTN Việt Nam lần thứ V đã đề ra, để tạo môi trường cho thanh niên được cống hiến và trưởng thành. Xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh, đảm bảo vai trò nòng cốt chính trị của tổ chức Đoàn đối với tổ chức Hội LHTN Việt Nam, trong đó phải quán triệt: đoàn kết, tập hợp thanh niên là nhiệm vụ hàng đầu của cán bộ Đoàn; đặc biệt chú ý 3 yếu tố: Đoàn định hướng chính trị trong tổ chức và hoạt động đối với tổ chức Hội; Đoàn cử cán bộ có uy tín, có tinh thần trách nhiệm để giữ vị trí lãnh đạo của tổ chức Hội; Đoàn có trách nhiệm tham mưu cho cấp ủy, làm việc với chính quyền để tạo nguồn lực cho Hội hoạt động. Đảm bảo vai trò nòng cốt chính trị của tổ chức Đoàn, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của tổ chức Hội. Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở Hội là nơi trực tiếp tập hợp thanh niên. Phát triển các loại hình Hội, chi hội, câu lạc bộ sát với từng đối tượng thanh niên. Tiếp tục phát triển các loại hình tổ chức Hội theo đối tượng, nghề nghiệp của thanh niên như Hội Doanh nghiệp trẻ, Hội Tin học trẻ, Hội Thầy thuốc trẻ, Hội Nhạc sĩ trẻ và các loại tổ chức để tập hợp các đối tượng thanh niên đặc thù, để mọi thanh niên dù xuất thân từ thành phần nào, đang ở trong nước hay ngoài nước đều có thể đến với tổ chức Hội. TN Theo TC Thanh niên
  3. QUÁN TRIỆT, VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG V Ũ N G Ọ C L Â N B a n d â n v ậ n T r u n g ư ơ n g Trong những ngày cuối tháng 12/2004, vụ động đất với 8,9 độ ríc-te ở vůng biển Nam Á gây nên những đợt sóng thần khủng khiếp cuốn trôi đi rất nhiều nhŕ cửa, tài sản và rất nhiều người. Số người chết và mất tích có tới cả hơn trăm nghìn. Cả thế giới bàng hoàng trước cơn đại hồng thủy hiếm có trong lịch sử Trái đất. Từ vụ đại hoạ nŕy nhiều người đặt câu hỏi: Phải chăng đó lŕ sự mất cân bằng sinh thái, là sự "trả thù" của thiên nhiên đối với con người? Chưa ai có thể khẳng định điều nŕy, nhưng rõ ràng những thiên tai liên tiếp trên thế giới trong những năm qua, sự nóng lên của Trái đất, mực nước biển dâng cao và vụ động đất kčm theo sóng thần này bắt buộc những người thờ ơ nhất cũng phải nghĩ đến vấn đề đang trở nęn cực kỳ cấp bách là: Bảo vệ môi trường, giữ vững sự cân bằng sinh thái trước khi quá muộn. Trong thời điểm đó ở Việt Nam đang phổ biến, quán triệt, triển khai Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về bảo vệ môi
  4. trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết của Bộ Chính trị lần nŕy càng khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhŕ nước, nhân dân ta trước nhu cầu rất bức xúc của vấn đề bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước. Bởi vě, mới trong nhiệm kỳ trước, Bộ Chính trị đă ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời Quốc hội đang chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hŕnh bổ sung, sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường vŕ các luật có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường, thě việc Bộ Chính trị ra Nghị quyết về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lŕ có những lý do cấp thiết và những quan điểm mới trong chỉ đạo thực hiện. Vấn đề quan trọng, quan tâm hŕng đầu đặt ra hiện nay của Đảng, Nhŕ nước, của đông đảo nhân dân là việc quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước như thế nào cho hiệu quả nhất, nhanh chóng nhất trong cuộc sống. Bởi vì, thực tế trong những năm qua tuy đă có nhiều nghị quyết, chỉ thị, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhŕ nước rất đúng đắn, tác động tích cực, đi vŕo cuộc sống, nhưng cũng có không ít nghị quyết, chỉ thị, chính sách, pháp luật ít phát huy tác dụng, thậm chí vẫn chỉ là văn bản trên giấy mà thôi. Có thể khẳng định rằng, nghị quyết, chỉ thị, chính sách, pháp luật nào của Đảng, Nhà nước ta cũng cần thiết và quan trọng. Thế nhưng, khác với nhiều nghị quyết, chỉ thị, chính sách, pháp luật về nhiều lĩnh vực, văn bản, chỉ đạo, lănh đạo, những quy định có tính pháp quy về bảo vệ môi trường có vị trí quan trọng đặc biệt, lięn quan đến tất cả mọi tầng lớp trong xă hội; đến cả người sắp sinh ra vŕ người đă chết; cả những thế hệ đang sống hôm nay vŕ cả các thế hệ mai sau; đến mọi vůng, mọi miền đất nước, mọi lĩnh vực đời sống xă hội; liên quan đến cơm ăn, nước uống, không khí chúng ta hít thở hŕng ngày theo đúng nghĩa đen của nó. Vě vậy, việc nâng cao trình độ nhận thức, chuyển từ nhận thức thành hành động của mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị, cơ sở, mỗi hộ gia đěnh và mỗi con người trong xã hội là nội dung vừa quan trọng, vừa cơ bản, lâu dài và bức thiết. Có nhiều cách quán triệt, thực hiện đường lối, nghị quyết, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Thế nhưng, theo tôi, việc quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát huy sức mạnh của người dân, tuyên truyền, vận động nhân dân bảo vệ môi trường, học tập tấm gương mẫu mực của Người về bảo vệ môi trường là vấn đề không bao giờ cũ mà nội dung rất dễ làm, dễ nhớ, dễ vận dụng và đạt kết quả thiết thực, cụ thể. Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhŕ nước về bảo vệ môi trường thể hiện ở những khía cạnh sau đây: 1. Tin ở nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo nhân dân ta đấu tranh giŕnh độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lęn chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng lŕ sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng Nhŕ nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì dân. Quan điểm và tư tưởng này đã được Hồ Chí Minh khẳng định từ những ngŕy đầu thŕnh lập nước: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng lŕ trách nhiệm của dân.
  5. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoŕn thể từ Trung ương đến xă do dân tổ chức lên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Trong Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này cũng đã thể hiện tinh thần quan điểm của Bác: "Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta"... "Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức, lŕ tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với thiên nhiên của cha ông ta". Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định từ rất sớm và rất rõ chủ thể xây dựng đất nước là nhân dân. Việc bảo vệ môi trường lại càng phải huy động được tất cả mọi người dân tham gia tręn cơ sở làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân. Các tổ chức, cơ quan, cán bộ, đảng vięn phải là những người đi tiên phong, gương mẫu trong việc bảo vệ môi trường và tổ chức, động viên, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vŕ Nhà nước về bảo vệ môi trường. Vấn đề khó khăn, bức xúc bấy lâu nay của chúng ta tuyęn truyền chưa tới người dân, chưa có những biện pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp để nâng cao nhận thức cho người dân, chưa tập hợp tổ chức tất cả mọi người dân tham gia bảo vệ môi trường. Một điều đáng chú ý lŕ chúng ta chưa có cơ chế, chính sách, chế tài cụ thể, thống nhất, phù hợp với từng đối tượng cư dân trong bảo vệ môi trường. Đó lŕ chưa nói đến nhiều nơi, nhiều lúc, chính tổ chức nhŕ nước, cán bộ, đảng vięn vì lợi ích kinh tế cục bộ, trước mắt mà hy sinh vấn đề bảo vệ môi trường, không gương mẫu cho quần chúng, nhân dân noi theo. Như vậy, có thể khẳng định rằng, khi nŕo chúng ta chưa huy động được tất cả mọi người dân tham gia bảo vệ môi trường, khi nghị quyết, chính sách còn chưa vào dân thì khi đó vấn đề bảo vệ môi trường vẫn luôn luôn lŕ thách thức trong quá trình phát triển. 2. Tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ môi trường như thế nào? Đây lŕ vấn đề đơn giản nhưng thực ra bấy lâu nay chúng ta chưa làm tốt, chưa đúng yêu cầu và đối tượng cũng như phương pháp tuyên truyền, vận động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đă nói rất rõ ràng, cụ thể điều này: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc mà Chính phủ và Đoàn thể giao cho. Dân vận không chỉ là dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ". Nếu theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh trên đây thì rõ ràng việc vận động nhân dân bảo vệ môi trường bấy lâu nay của chúng ta là chưa đúng đắn, chưa đầy đủ, chưa vŕo lòng dân. Chúng ta vẫn còn "để sót" nhiều đối tượng nhân dân, cho nęn công việc này dù rất quan trọng nhưng chưa tạo thành phong trào, "lực lượng toàn dân" và vẫn còn tình trạng phổ biến là chủ yếu dùng báo chí, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị. Như thế rõ ràng là cần thiết nhưng chưa đủ, chưa phù hợp, chưa đến được với từng đối tượng cụ thể. Vậy cần vận động nhu thế nào? Theo Hồ Chí Minh cần phải có thêm những biện pháp khác thiết thực, cụ thể hơn:
  6. "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai lŕ bất cứ việc gě đều phải bŕn bạc với dân, hỏi ý kiến vŕ kinh nghiệm của dân, cůng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoŕn cảnh địa phương, rồi động vięn và tổ chức toàn dân thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng". Như vậy, phương pháp vận động nhân dân tham gia các phong trŕo cách mạng nói chung, bảo vệ môi trường nói riêng, nếu thực hiện được như trên sẽ rất hiệu quả. Việc bảo vệ môi trường ở nhiều nơi bấy lâu nay vẫn thường thiên về sự áp đặt từ trên xuống, ít giải thích cho "mỗi một người dân hiểu" lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của họ. Hơn nữa, chúng ta cũng ít khi bàn bạc, hỏi ý kiến, đúc kết kinh nghiệm của dân, lại càng thiếu kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở, rút kinh nghiệm. Đây lŕ hạn chế rất phổ biến, kéo dài, chưa được khắc phục, sửa chữa có hiệu quả. Do vậy, muốn nhân dân tích cực, tự giác tham gia bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả thì phải thay đổi cách tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân, trong đó vấn đề lợi ích phải đặt lęn hàng đầu, đồng thời phải hiểu, tôn trọng phong tục tập quán, tâm lý, thói quen của từng đối tượng cụ thể, tránh chung chung, hěnh thức. 3. Ai là người vận động nhân dân bảo vệ môi trường? Trong những năm gần đây, nhất lŕ từ khi bước vào cơ chế thị trường, dường như có một thói quen khá phổ biến trong nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều linh vực là: càng phân công trách nhiệm rành mạch, rõ ràng cho từng bộ, ban, ngành thì nhiều khi ngành nào, lĩnh vực nào chỉ biết quan tâm đến vấn đề lợi ích của ngŕnh ấy, lĩnh vực mà ít có sự phối, kết hợp thường xuyên, chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp các ngành, lĩnh vực với nhau. Nhiều khi vì lợi ích cục bộ mà quên đi lợi ích lâu dài của đất nước, dân tộc. Điều nŕy có lẽ thể hiện khá rõ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nhiều địa phương, doanh nghiệp, cơ sở bất chấp sự suy thoái của môi trường, tài nguyên, chỉ coi lợi ích của mình là trên hết. Trong khi đó, nếu lĩnh vực bảo vệ môi trường mà chỉ phó thác cho những cơ quan, tổ chức, cán bộ trong hệ thống của Bộ Tài nguyên - Môi trường thì làm không xuể và không bao giờ thực hiện được. Chỉ riêng việc vận động nhân dân bảo vệ môi trường cũng không chỉ phó thác cho lĩnh vực bảo vệ môi trường.
  7. Từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đă nói rất rõ nhiệm vụ vận động nhân dân tham gia bất cứ phong trào cách mạng nào, lĩnh vực bảo vệ môi trường hiện này lại càng phải thế. Người khẳng định: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoŕn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách dân vận. Cán bộ chính quyền và cán bộ Đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công việc rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dői, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn. Những hội viên các đoàn thể thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm". Quán triệt tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đă chỉ rõ: "Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhŕ nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân". Như vậy, việc tuyên truyền, vận động nhân dân bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tất cả các thành viên, hội viên, đoàn viên của các tổ chức trong hệ thống này. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong vấn đề nŕy là các tổ chức, cá nhân chẳng những có trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải đi đầu, gương mẫu, kiểm tra, đôn đốc thực hiện đường lối, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhŕ nước về bảo vệ môi trường. Cần có tiêu chuẩn, chế tài, cơ chế cụ thể để quan điểm của Hồ Chí Minh vŕ của Đảng ta nhanh chóng đi vŕo cuộc sống. 4. Vận động nhân dân như thế nŕo? Vận động nhân dân tham gia các nhiệm vụ cách mạng nói chung vŕ bảo vệ môi trường nói riêng phải sáng tạo, phù hợp với tình hình đặc điểm, thời điểm lịch sử cụ thể. Thế nhưng có những quan điểm, nguyęn tắc có thể vận dụng vào bất cứ điều kiện, hoàn cảnh, thời gian nào. Đó chính là quan điểm, nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn có thể vận dụng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Quan điểm, nguyên tắc đó là: những người đi vận động nhân dân phải "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, miệng nói, tay lŕm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc". Đây là vấn đề không mới nhưng lại khó đối với không ít cán bộ, công chức, vięn chức của đất nước ta hiện nay. Bởi vě cách điều hŕnh lãnh đạo của nhiều người còn mang nặng tính hành chính, quan liêu, xa dân, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở. Vì vậy, nhân dân nhiều khi thiếu tin tưởng, không hài lòng với nhiều cán bộ, công chức, đảng viên. Nhiều vấn đề môi trường đang đặt ra đối với nơi mŕ nhân dân trình độ còn thấp, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số cho nên nhân dân thường muốn xem cán bộ, đảng vięn nêu gương làm trước để đồng bŕo làm theo. Do đó, đổi mới phong cách vận động đồng bŕo đang lŕ vấn đề đặt ra trong nhiều cuộc vận động, trong đó có vận động nhân dân bảo vệ môi trường. Do đó, Đảng ta đă đề ra phương châm cán bộ, đảng vięn phải rèn luyện phong cách: trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Từ lâu, Hồ Chí Minh đă chỉ ra mọi sai lầm, khuyết điểm của nhiều tổ chức, cá nhân trong công tác tuyęn truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào cách mạng là: "Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi
  8. bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm. Đó là sai lầm rất to, rất có hại". Điều Bác Hồ nói tręn đây rất đúng với nhiều nơi tręn lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nhiều tổ chức, cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ môi trường, nhiều khi rơi vào cảnh tương tự như Bác nói trên, bị "đơn phương độc mă", thậm chí bị thù ghét, hãm hại, rất nhiều cán bộ kiểm lâm vì muốn bảo vệ rừng, giữ màu xanh cho đất nước mà bị thiệt mạng, trong khi đó bảo vệ môi trường không phải lợi ích riêng của tổ chức, cá nhân họ. Do đó, cần quán triệt sâu sắc và tích cực sửa chữa điều mà Bác Hồ cho là "sai lầm rất to", "khuyết điểm rất to", "rất có hại". Một điểm mới vŕ rất đáng mừng lŕ trong Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này đã phân công trách nhiệm rõ ràng của các Ban cán sự Đảng, Đảng đoŕn, các cấp ủy đảng, các Ban của Đảng trong việc tuyęn truyền, triển khai, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, báo cáo thực hiện Nghị quyết quan trọng nŕy, đưa Nghị quyết của Đảng vŕo cuộc sống. Hy vọng rằng lĩnh vực bảo vệ môi trường thời gian tới sẽ có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều chiến công hiển hách bởi vì có nhiều binh chủng cùng hợp lực và sự hưởng ứng của toàn dân. "Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Quan điểm, chỉ đạo, sự đúc kết đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh lŕ vô cùng sâu sắc và đầy ý nghĩa tiếp tục phát huy trong sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay, trong đó có lĩnh vực bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của Người trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng cũng như những con người Việt Nam mới luôn là vấn đề thời sự, thể hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu và noi theo. Đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 1 - Vị trí của vấn đề đạo đức trong văn hóa nói chung Văn hóa, theo định nghĩa chung nhất, là những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo nên trong tiến trình lịch sử. Còn theo cách hiểu thông thường nhất, đó là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm cả tư tưởng xã hội, tri thức xã hội, đạo đức xã hội, đời sống và lối sống xã hội... Không phải đến bây giờ, mà ngay từ lâu, khi Đảng ta mới thành lập và khi nhà nước cách mạng mới ra đời, Bác Hồ đã khẳng định rằng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, "văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Có nghĩa, đạo đức chỉ là một bộ phận của văn hóa chứ không phải là toàn bộ nền văn hóa. Tuy nhiên, đó là bộ phận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ, khi xem xét trình độ văn hóa của một xã hội, người ta không thể không nói đến con người trong xã hội, mà nói đến con người thì không thể không nói đến đạo đức. Tư tưởng xã hội và đạo đức xã hội đều có vai trò quyết định đối với hành vi của con người trong xã hội. Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc sống và hành động được dư luận xã hội thừa nhận. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc đó quy định, điều chỉnh hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Như vậy, đạo đức cũng chính là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đó mà có. Trong các quan hệ xã hội, những vấn đề thuộc về dân tâm, dân ý, dân trí, dân quyền, và dân sinh ..., đều thuộc về và là sự biểu hiện của văn hóa một xã hội, mà mức độ biểu hiện cao hay thấp tùy thuộc một phần quan trọng vào đạo đức. 2 - Vị trí của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh Đại hội IX của Đảng ta đã đưa ra một mệnh đề cấu thành định nghĩa rất chuẩn xác về tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được nghiên cứu không phải dưới góc độ những ý kiến, những suy nghĩ riêng lẻ, cụ thể, mà trong sự tổng hợp có tính hệ thống, tức là nghiên cứu dưới góc độ một học thuyết chính trị - cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lại là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu, một mẫu mực tuyệt vời về đạo đức, không chỉ đạo đức của con người xã hội mà còn là đạo đức của một lãnh tụ cách mạng, suốt đời hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là nghiên cứu những phẩm chất cao quý thể hiện trong cuộc sống của Người, mà còn là nghiên cứu những quan điểm của Người về đạo đức, những quan điểm đó đã, đang và sẽ còn chỉ đạo dài lâu cho sự
  9. nghiệp của Đảng ta xây dựng văn hóa dân tộc nói chung và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng. Xuyên suốt các tác phẩm của Người, từ "Đường Cách mệnh" (1927), "Sửa đổi lối làm việc" (1947), "Cần, kiệm, liêm, chính" (1949) cho đến "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (1969) và bản Di chúc của Người (1969), ta thấy toát lên tinh thần và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Khái niệm đạo đức, được Hồ Chí Minh tập trung đề cập trong các tác phẩm của Người là đạo đức của xã hội mới, cao hơn nữa là đạo đức cách mạng, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Những phẩm chất đạo đức cao quý chung nhất, cơ bản nhất mà Người nêu lên đối với cán bộ cách mạng: Một là: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Không phải một lần mà rất nhiều lần, không phải đối với một số đối tượng nhất định mà đối với rất nhiều đối tượng khác nhau, Người luôn luôn nhắc nhở rằng, điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, là trung với nước, hiếu với dân. Hai là: Nhân, nghĩa, trí, dũng. Nhân là thật thà yêu thương, giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không ngại cực khổ, không sợ uy quyền. Nghĩa là ngay thẳng, không có tà tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Trí là đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, xét việc,... Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ khó khăn có gan chịu đựng; có gan chống lại vinh hoa phú quý không chính đáng; nếu cần, có gan hy sinh cả tính mạng mình... Ba là: Cần, kiệm, liêm, chính. Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta... Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù... Liêm là luôn luôn tôn trọng, gìn giữ của công và của dân; phải trong sạch, không tham lam; không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình... Chính "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa chữa điều dở... Đối với người thì không nịnh hót cấp trên, không xem khinh người dưới; luôn luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà... Cần, kiệm, liêm, chính luôn luôn đi liền với chí công, vô tư, tức là hết lòng chăm lo công việc chung, không tơ hào, tư lợi. Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đều là những khái niệm vốn có từ Nho học và đạo đức từ lâu đời của ông cha ta, song đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đổi mới và phát triển, thậm chí có những khái niệm đổi mới hẳn về nội dung, như xưa kia là trung với vua, hiếu với cha mẹ, nay là trung với nước, hiếu với dân. Do đó, những phẩm chất đạo đức được Người nêu lên chính là những phẩm chất của đạo đức mới, của con người mới và nền văn hóa mới. Nó là sự kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn có tầm sâu rộng hơn, vượt qua khuôn khổ quốc gia để tạo nên sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, xem "bốn phương vô sản đều là anh em"... 3 - Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các nhân tố văn hóa, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước..." và khẳng định rằng: "Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình". Nghị quyết Đại hội IX của Đảng một lần nữa yêu cầu: "Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân". Kết luận của Hội nghị Trung ương 10, khóa IX, nhấn mạnh: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước. Trong Diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Đảng, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cũng yêu cầu phải phấn đấu để mỗi tổ chức đảng và đoàn thể, mỗi cơ quan nhà nước đều là "một tấm gương văn hóa trong xã hội". Nhắc lại các nghị quyết nói trên để thấy rõ tính bức bách của nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay; cũng là để thấy rõ rằng muốn xây dựng được tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết phải xây dựng được các phẩm chất đó trong các tổ chức của Đảng và bộ máy của Nhà nước...
  10. Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức mà chúng tôi vừa đề cập, ta càng thấy rõ vai trò quan trọng biết dường nào của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng. Không phải ngẫu nhiên trong Di chúc Người nói về Đảng và đặc biệt nhấn mạnh vấn đề đạo đức: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân". Những lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, ngày nay vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi; nhất là những phẩm chất trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, về đảng viên đi trước, làng nước theo sau... là không bao giờ cũ. Nếu có cái gì gọi là cũ thì đó chính là nhận thức của chúng ta về các lời dạy của Bác không đến nơi, đến chốn, không thật đầy đủ và nhuần nhuyễn, nhất là chúng ta nói mà không đi đôi với làm, hoặc nói nhiều làm ít, khiến cho đời sống văn hóa trong Đảng, nhất là đời sống về đạo đức, có những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, đòi hỏi phải khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, một căn bệnh nguy hiểm đang đục khoét cơ thể sống của Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu sinh tử này, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta càng phải đề cao trách nhiệm tu dưỡng và thực hành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo  dục cán bộ, đảng viên hiện nay (28/09/2007-8:18) (THO)- Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của những giá trị cao đẹp về đạo đức của người chiến sĩ cách mạng, là “hiện thân của nền văn hóa tương lai”. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có nội dung vô cùng phong phú, rộng lớn nhưng lại rất cụ thể, bình dị, gần gũi với cán bộ, đảng viên (CBĐV) và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh luôi coi đạo đức là “cái gốc”, là “nền tảng” của người cách mạng. Người cho rằng cũng như “sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (1). Đạo đức cách mạng (ĐĐCM) không tự nhiên mà có, mà là kết quả của một quá trình giáo dục, rèn luyện bền bỉ mà nên, như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức nội hàm sức mạnh to lớn, người có ĐĐCM mới “gánh được nặng” và “đi được xa”. Đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người CBĐV chính là những biểu hiện tổng hòa của những tiêu chí đạo đức trong các mối quan hệ của họ với Đảng, Nhà nước, giai cấp, nhân dân, dân tộc; trong các mối quan hệ đa diện đa chiều của con người (đối với mình,đối với người, đối với việc)... Đó là những phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; là tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung... Những phẩm chất ấy được Người đặc biệt quan tâm trong điều kiện Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền và đội ngũ CBĐV là những “công bộc” của nhân dân. Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐĐCM có sức mạnh tinh thần to lớn; là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CBĐV, làm tăng sức mạnh của Đảng và chế độ xã hội XHCN. Điều đó cũng có nghĩa đặt ra một yêu
  11. cầu, đã là CBĐV thì trước hết phải trở thành một công dân mẫu mực, làm nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo đức và kỷ cương xã hội. Sự mực thước, nêu gương của người CBĐV trước nhân dân là vô cùng cần thiết, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người bắt chước” (2). Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, để xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN, với quan điểm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác, Đảng ta đã triển khai sâu rộng công tác xây dựng Đảng nói chung và giáo dục ĐĐCM đối với CBĐV nói riêng. Từ năm 1987 đến 2004, BCH Trung ương và Bộ Chính trị các khóa đã ban hành 15 nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cán bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng (3). Trước những thử thách khắc nghiệt của kinh tế thị trường, mở rộng dân chủ, mở cửa hội nhập với thế giới, tuyệt đại đa số CBĐV vẫn tin tưởng vào đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Họ đã khắc phục gian khổ, khó khăn, vượt qua thử thách, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, được dân tin, dân phục, dân yêu. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối mặt với một thực tế là tình trạng một bộ phận không nhỏ CBĐV suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn ra ngày càng phổ biến và trầm trọng. Nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng đó, không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng thật tốt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trước hết, phải nghiêm khắc nhìn nhận thực trạng, nguy cơ đó với tinh thần dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, theo tinh thần Hồ Chí Minh: “Chúng ta đã không hề che giấu sai lầm, trái lại chúng ta đã thật thà tự phê bình và tích cực sửa chữa” (4). Trong các biện pháp tích cực sửa chữa, đặc biệt coi trọng các biện pháp giáo dục nhằm làm cho CBĐV thấy rõ vai trò, vị trí của mình trong Đảng và trong xã hội, có nhận thức đúng về những nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái, từ đó thấy rõ sự cần thiết phải nâng cao tư tưởng chính trị, chăm lo tu dưỡng ĐĐCM, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện sa sút phẩm chất đạo đức. Bảo đảm các nguyên tắc trong tổ chức và sinh hoạt Đảng... Như vậy có thể thấy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới công tác giáo dục ĐĐCM cho CBĐV, coi đó là một vấn đề đặc biệt quan trọng của sự nghiệp cách mạng, của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
  12. Những điều Hồ Chí Minh nói về ĐĐCM cách đây đã rất lâu rồi nhưng chúng ta vẫn như thấy đang nói về hôm nay, về tình hình tư tưởng đạo đức của CBĐV hôm nay. Việc không ngừng nghiên cứu sâu sắc các quan điểm của Hồ Chí Minh về ĐĐCM và giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBĐV; vận dụng các quan điểm, tư tưởng đó và thực tiễn hoạt động của Đảng là một công việc căn cốt trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Toàn Đảng và xã hội đang đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, để việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được hiệu quả hơn, để tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thấm sâu hơn trong từng lời nói và việc làm của CBĐV và quần chúng nhân dân, không chỉ tiến hành bằng một cuộc vận động là đủ mà phải coi đây là sinh hoạt chính trị thường xuyên trong Đảng và trong toàn xã hội, qua đó góp phần nâng cao văn hóa Đảng, để Đảng ta mãi mãi là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong Hiến pháp năm 1946 ThS. Nguyễn Thị Phương Như chúng ta đã biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam và nền lập hiến Việt Nam. Những quan điểm, tư tưởng mà Người để lại cho nhân dân Việt Nam và nhân loại là vô cùng to lớn và quý báu, thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và luôn mang tính thời sự sâu sắc mà trong đó tư tưởng về Nhà nước và pháp luật là một trong những cống hiến vĩ đại mà Người đã để lại cho nhân loại. Việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng, quan điểm của Người trong giai đoạn hiện nay đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước và mỗi công dân Việt Nam, được Nhà nước hết sức quan tâm.
  13. Bản chất giai cấp nhà nước là vấn đề cốt lõi của mỗi bản Hiến pháp, có ý nghĩa quyết định đến nội dung những quy định của Hiến pháp. Trong Hiến pháp năm 1946, bản chất giai cấp nhà nước được quy định tại Điều 1: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước luôn mang tính giai cấp, tồn tại vì lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Không thể có nhà nước phi giai cấp, nhà nước của mọi giai cấp. Nhưng với Hiến pháp 1946, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được xác định là Nhà nước của nhân dân không phân biệt giai cấp. Quy định này thể hiện sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam lúc đó là Nhà nước mới giành được độc lập, chính quyền non trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức quản lí, thù trong giặc ngoài không từ một âm mưu nào nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Để giữ vững nền độc lập của dân tộc, yếu tố quyết định là phải huy động sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu của dân tộc. Do vậy, Hiến pháp năm 1946 xác định Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước của mọi giai cấp. Tính giai cấp và tính dân tộc hoà quyện với nhau là một. Trong khi đó Nhà nước Xô Viết được thành lập sau Cách mạng tháng Mười là nhà nước công - nông - binh. Tính chất của nhà nước được xác định rõ trong Hiến pháp Nga. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của nhân dân là Nhà nước được thành lập bằng con đường bầu cử dân chủ, trực tiếp. Nhân dân là người trực tiếp bầu ra người đại diện để thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề về quyền lực nhà nước vì lợi ích của nhân dân. Nhân viên các cơ quan nhà nước do nhân dân bầu ra để thực thi, thừa hành quyền lực của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 14 ngày 8/9/1945 mở cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội. Với sự kiện trọng đại này, dân tộc Việt Nam sau khi là dân tộc đầu tiên ở Đông Nam Á thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trở thành dân tộc đầu tiên thiết lập nhà nước với hình thức dân chủ nhân dân cao nhất là phổ thông đầu phiếu. Đây có thể xem như sự kiện hiếm có trong lịch sử. Sau cuộc tổng tuyển cử hoàn toàn tự do, dân chủ (ngày 6/1/1946), Quốc hội khoá I ra đời. Đây là Quốc hội của khối đại đoàn kết dân tộc, là khoá Quốc hội đã thông qua hai bản trong số bốn bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay. Nhà nước Việt Nam ra đời sau cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 là Nhà nước hợp hiến và hợp pháp, là sự liên minh các giai cấp, tầng lớp, đảng phái chính trị - mô hình nhà nước độc đáo trong lịch sử. Điều này còn được thể hiện thông qua tên gọi của các cơ quan nhà nước như Chính phủ (Chính phủ liên hiệp kháng chiến), Nghị viện được tổ chức theo cơ cấu một viện, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước và Chính phủ nhưng do Nghị viện bầu ra với tỉ lệ phiếu 2/3 và phải là nghị viên… So với mô hình nhà nước mà Hồ Chí Minh đưa ra trong Hội nghị thành lập Đảng năm 1930 có sự đổi mới cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của cách mạng. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là sự cụ thể hoá tư tưởng về "Nhà nước phương đông" của Người. Cho đến nay thực tiễn lịch sử đã khẳng định mô hình nhà nước mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cách đây hơn 50 năm là phù hợp cho dù lịch sử đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm. Tư tưởng về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Hồ Chí Minh được kết tinh ở đỉnh cao là Hiến pháp năm 1946. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là nhà nước kiểu mới mà ở đó các tầng lớp nhân dân đều có người đại diện của mình Nhà nước không phân biệt giai cấp. Mọi công dân đều có quyền tham gia vào hoạt động của Nhà nước thông qua người đại diện do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc bằng chính công việc mà công dân trực tiếp thực hiện. Để không ngừng phát huy bản chất nhà nước, Hồ Chí Minh đã giáo dục cán bộ, viên chức Nhà nước phải thương yêu dân, dựa vào dân, lắng nghe học hỏi nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh và Người là mẫu mực cho phẩm chất đó. Theo Người, quan điểm về nhà nước của dân thật dễ hiểu. Đó là nhà nước mà nhân dân là chủ đất nước chứ không phải là vua. Chính quyền từ cơ sở đến trung ương đều do dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và phục vụ lợi ích nhân dân. Cán bộ nhà nước là người "đầy tớ" của nhân dân chứ không phải là ông quan cách mạng. Nhà nước của dân còn đồng nghĩa với nhà nước của dân tộc Việt Nam. Một nhà nước được ra đời từ hình thức mặt trận, nhà nước của mọi giai cấp với tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường bảo vệ chủ quyền dân tộc. Ý tưởng về nhà nước của dân trong Người mạnh mẽ và liên tục, thể hiện sâu sắc từ khi thành lập Đảng, đến sự ra đời của Mặt trận phản đế, Mặt trận Việt minh, Chính phủ liên hiệp kháng chiến, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà với khẳng định: "Tất cả quyền bính trong nước đều thuộc
  14. Set your homepage as suutap.com.vn
  15. Sell » Tài liệu tham khảo về Tem  Một số tem thư Việt Nam thể hiện các nội dung lớn về tư tưởng Hồ Chí Minh ­ 0.00  USD  Một số tem thư Việt Nam thể hiện các nội dung lớn về tư tưởng Hồ Chí Minh (Theo Hội Tem Việt Nam) 1- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. (H1) 2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người: “Chỉ có giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiêp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” (H2) 3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại (H3) 4- Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc. (H4) 5- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân (H5) 6- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. (H6) 7- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. (H7) 8- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. (H8) 9- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. (H9) 10- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân (H10)
  16. Visited : 465697 ­ Online : 7  Website sưu tập. Bản quyền thuộc về Trần Vương Việt
nguon tai.lieu . vn