Xem mẫu

  1. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải CÔNG NGHIỆP HOÁ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ NHẬN THỨC ĐẾN THỰC TIỄN Phạm Thị Xuân1* 1 Trường Đại học Giao thông Vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội * Tác giả liên hệ: Email: xuanpt@utc.edu.vn Tóm tắt: Quá trình đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi từ mô hình CNH “khép kín”, kế hoạch hoá tập trung sang chiến lược CNH gắn với việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, dựa trên kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Nhìn nhận lại sự phát triển nhận thức của Đảng từ khi tiến hành cách mạng XHCN ở miền bắc cho đến thực hiện công cuộc Đổi mới, có thể góp thêm những kinh nghiệm có giá trị cho tiến trình CNH, HĐH đất nước hiện nay. Từ khoá: CNH, HĐH, thời kỳ đổi mới, nhận thức, thực tiễn 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sau 34 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới về chất. Những cơ sở xác định bước chuyển đó là hiển nhiên, thể hiện ở nhiều chỉ số khác nhau của 3 phương diện: tiềm lực, cơ cấu và thế phát triển của nền kinh tế. Trên mỗi phương diện, bước tiến của các chỉ số so với trước Đổi mới đều là kỳ tích. Có được thành tựu trên nhờ đường lối CNH đúng đắn của Đảng. 2. NỘI DUNG 2.1 Nhận thức về công nghiệp hoá của Đảng trong thời kỳ Đổi mới. Năm 1960, Đại hội III của Đảng đã khẳng định: CNH là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Tuy nhiên, nhận thức về CNH lúc đó chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của Liên Xô và các nước XHCN. Mô hình CNH được triển khai ở Việt Nam thời điểm đó được gọi là “mô hình CNH Xô Viết”. Mô hình này chú trọng phát triển công nghiệp nặng, xây dựng nền kinh tế “khép kín”, với cơ cấu mang nặng tính hiện vật và phủ nhận các quan hệ thị trường. Trong mô hình đó, yêu cầu hiện đại hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế hầu như chưa được tính đến. Lĩnh vực dịch vụ chưa được xem xét như một nội dung quan trọng của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1976, Đại hội IV đã có sự bổ sung, cụ thể hoá về tư duy lý luận: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp. Trong đường lối này, tính nguyên tắc trong ưu tiên được xác lập. Tuy -510-
  2. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải nhiên, cách đặt vấn đề đúng đắn này cơ bản chỉ dừng lại ở nêu vấn đề một cách định tính, chưa được cụ thể hoá ở mức cần thiết. Đại hội V (1982) đã có một số bước tiến trong việc cụ thể hoá nội dung chiến lược CNH: coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý. Mặc dù nhận thức về CNH đã có bước tiến nhưng do hậu quả nặng nề của chiến tranh, nên nền kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu. Nền kinh tế ngày càng bị mất cân đối và lâm vào khủng hoảng. Cơ cấu kinh tế ngành trong suốt nhiều năm hầu như không dịch chuyển. Quá trình cải tạo kỹ thuật nền kinh tế, chuyển từ trình độ thủ công sang trình độ cơ khí chỉ đạt được những kết quả khiêm tốn. Tựu chung, đặc trưng của công nghiệp hoá trước đổi mới là công nghiệp hóa theo mô hình kinh tế khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng. CNH chủ yếu dựa vào các lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai, sự viện trợ của các nước XHCN. Chủ lực thực hiện CNH là Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước. Việc phân bố nguồn lực để CNH được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, không tôn trọng các quy luật của thị trường. Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh ham làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) đổi mới toàn diện, đồng bộ. Trên phương diện CNH, nhận thức của Đảng có sự thay đổi căn bản. Nghị quyết Đại hội VI nêu rõ: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp XHCN trong những chặng đường tiếp theo” (1). Thực chất của đổi mới tư duy kinh tế của Đại hội VI là xóa bỏ cơ chế tập trung quan lieu bao cấp, thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Với sự thay đổi nhận thức về cơ chế và phương thức vận hành nền kinh tế như vậy, nhận thức về CNH cũng có những thay đổi mạnh mẽ. Thứ nhất, chấp nhận thị trường là cơ chế mới tham gia phân bổ nguồn lực để tiến hành CNH. Trước đây, vai trò này duy nhất thuộc về nhà nước, thông qua các kế hoạch tập trung cao độ, nhà nước bao cấp các doanh nghiệp toàn diện. Thứ hai, coi “mở cửa” là một phương thức, một nguyên tắc quan trọng để thực hiện CNH, thay cho phương thức “tự lực cánh sinh” vốn là cách đặt vấn đề thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh, nền kinh tế khép kín và bị bao vây cấm vận. Thứ ba, kinh tế nhà nước không còn là lực lượng duy nhất, độc tôn tiến hành CNH. Kinh tế tư nhân trong nước và khu vực đầu tư nước ngoài – những chủ thể mới của nền kinh tế nhiều thành phần – được thừa nhận là những lực lượng quan trọng thực hiện CNH. Như vậy, đến Đại hội VI của Đảng đã có sự thay đổi cơ bản về nội dung, bước đi và cơ chế thực hiện CNH. CNH phải được tiến hành từng bước, trải qua nhiều chặng đường. Trong chặng đường đầu tiên, vai trò của nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu là rất quan trọng để ổn định kinh tế - xã hội, xây dựng tiền đề đẩy mạnh CNH chặng đường tiếp theo. Tư duy CNH hướng vào xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bước đầu được hình thành. HNTƯ 7 khoá VII của Đảng (7-1994) đưa ra chủ trương phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH ... Nhận thức CNH, HĐH được nêu -511-
  3. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải ra thay cho cách đặt vấn đề CNH trước đây (không có mệnh đề HĐH). Hội nghị làm rõ khái niệm CNH, HĐH là “ quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội , từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghê, tạo ra năng suất lao động cao.” (2). Từ HNTƯ 7, khái niệm CNH, HĐH được dùng phổ biến thay cho khái niệm CNH XHCN. Đây không chỉ là sự thay đổi khái niệm đơn thuần mà là mở đầu cho tư duy về con đường CNH rút ngắn ở nước ta, khắc phục tình trạng tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và thế giới. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đã đưa ra nhận định quan trọng: “nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội…nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của TKQĐ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” (3). Đại hội đã thông qua 6 quan điểm CNH, HĐH: (1) độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế; (2) CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân; (3) nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho phát triển nhanh và bền vững; (4) khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH; (5) lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn phát triển; (6) kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh. Kế thừa tư duy của các đại hội, hội nghị trước, Đại hội lần thứ IX của Đảng (6- 2001) nêu rõ “Con đường CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt” (4). Đây là tư duy về mô hình CNH rút ngắn theo hướng hiện đại, nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Một sự bổ sung mang tính sáng tạo vào nhận thức lý luận về CNH trong điều kiện hiện đại. Đại hội X tiếp tục có những phát triển mới trong nhận thức về CNH trong thời hiện đại, thể hiện ở ba điểm chính. Một là, rút ngắn quá trình CNH, HĐH trên cơ sở “tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra”. Luận điểm này thể hiện một tư tưởng phát triển mới: tư tưởng CNH, HĐH dựa vào hội nhập. Hai là, rút ngắn quá trình CNH, HĐH trên cơ sở “tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước”. Luận điểm này báo hiệu sự chính thức bắt đầu từ bỏ quan điểm xây dựng một nền kinh tế tự bảo đảm sản xuất tất cả những gì mình cần chứ không phải sản xuất những gì mình có thể làm tốt nhất trong hệ thống phân công lao động quốc tế. Ba là, chính thức khẳng định “kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH”. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ XI (1-20011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu quan điểm cơ bản và định hướng lớn về CNH: Đó là “CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế, phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh -512-
  4. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. (4) Tại Đại hội XII của Đảng, quan điểm về CNH, HĐH tiếp tục có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với tình hình mới của đất nước và xu thế hội nhập quốc tế, trong đó nổi bật là các khía cạnh sau: Một là, mục tiêu của CNH, HĐH được điều chỉnh cho sát với thực tiễn. Đại hội VIII của Đảng năm 1996, Đảng ta đề ra mục tiêu đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành “Một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại”. Tại Đại hội IX của Đảng (năm 2001), mục tiêu này được diễn đạt mềm dẻo hơn là: “Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội X của Đảng (năm 2006), một lần nữa xác định: “Đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “… tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (5). Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đánh giá: “Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch, nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được (6). Để khắc phục tình hình đó trong 5 năm 2016-2020 phương hướng được xác định linh hoạt hơn: “Đẩy mạnh CNH, HĐH phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Hai là, định hướng xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại: tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế, tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, tiêu chí phản ánh về môi trường … Ba là, xác định các giai đoạn của quá trình CNH, HĐH. Theo đó, “CHN, HĐH đất nước ta tiến hành theo 3 bước: tạo tiền đề, điều kiện để CNH, HĐH, đẩy mạnh CNH, HĐH; và nâng cao chất lượng CNH, HĐH và nâng cao chất lượng. Bốn là, Xác định phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH giai đoạn 2016- 2020. Đẩy mạnh thực hiện mô hình CNH, HĐH trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Tóm lại, nhận thức về CNH, HĐH của Đảng đã có chuyển biến quan trọng trong thời kỳ đổi mới: thứ nhất, từ CNH gắn với quan niệm xây dựng quan hệ sản xuất XHCN đi trước mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, chuyển sang ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp. Thứ hai, từ CNHXHCN với cách làm nóng vội, bỏ qua các bước đi trung gian cần thiết, đã chuyển sang thực hiện CNH vừa có bước đi tuần tự, giai đoạn trước tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau, vừa cho phép phát triển rút ngắn trên cơ sở đi tắt đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về khoa học và công nghệ của thế giới. Thứ ba, từ quan niệm CNH cổ điển chuyển sang quan niệm CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Thứ tư, từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế công nông nghiệp đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Thứ năm, từ CNH theo mô hình kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng chuyển sang thực hiện mô hình CNH, HĐH với một nền kinh tế mở, đa dạng hoá, đa phương hoá theo thông lệ quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu. Thứ sáu, từ quan niệm CNHXHCN là trách nhiệm của thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể chuyển sang CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Thứ bảy, từ CNH thực hiện trong khuôn khổ thể chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, chuyển -513-
  5. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải sang tuân theo thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế thành một chỉnh thể hữu cơ, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. 2.2. Công nghiệp hóa trong thực tiễn hơn 30 năm Đổi mới Những kết quả đạt được: Sau hơn 30 năm đổi mới, CNH ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đưa nước ta từ một trong các quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, vị thế và uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu (CIP) ở mức khá cao với vị trí 44 trên thế giới vào năm 2018: “ Công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 22 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới vào năm 2018. Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 49,82% năm 2011 lên 54,57% năm 2019, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần từ 36,47% năm 2011 xuống còn 25,61% năm 2019, cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình CNH, HĐH” (7). Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến, nông nghiệp phát triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, ứng dụng khoa học – công nghệ và mức độ cơ giới hoá được nâng lên; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực, quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh. Cơ cấu kinh tế theo ngành dần chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông – lâm – ngư nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, xây dựng. Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã đi vào thực chất hơn, ngày càng hướng vào lõi công nghiệp hoá. Theo đó, công nghiệp tiếp tục duy trì là ngành có năng suất lao động cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với tỷ trọng trong GDP tăng từ 26,63% năm 2011 lên 27,81% năm 2015 và 28,55% năm 2019. Một số hạn chế: Bên cạnh những thành tựu đạt được, CNH, HĐH trong thực tiễn còn tồn tại những hạn chế: kết quả chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đạt được mục tiêu đã hoạch định. Thực hiện CNH, HĐH còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ chưa có định hướng chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu tính kết nối. Phát triển đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm. Quy mô kinh tế nhỏ, phát triển chưa bền vững. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều yếu kém. Một số giải pháp: -514-
  6. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Để thực hiện thành công các Nghị quyết Đại hội Đảng về CNH, HĐH, sẵn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần tiến hành các giải pháp như sau: + Một là, thể chế hoá, hiện thực hoá chủ trương “khoa học – công nghệ là nền tảng, động lực của CNH, HĐH; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và chủ động tích cực hội nhập quốc tế”. Thực hiện mô hình CNH, HĐH rút ngắn hiện đại, dựa vào tri thức công nghệ, lấy “bám đuổi” tri thức, bám đuổi công nghệ cao làm cốt lõi. Xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng sáng tạo. Đây là cách thức có hiệu quả nhất để tận dụng lợi thế phát triển chủ yếu của thời đại dành cho các nước đi sau. + Hai là, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, gắn với đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tạo nguồn vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Một trong những lợi thế của Việt Nam là nền nông nghiệp nhiệt đới và nguồn lao động dồi dào có trí tuệ, giàu sức sáng tạo. Ngoài ra, các thành tựu khoa học – công nghệ, kinh tế tri thức và các mối quan hệ hợp tác quốc tế, cùng những hiệp định thương mại với các đối tác, trong đó nhiều nước có nguồn công nghệ hàng đầu thế giới, chính là những ngoại lực quan trọng mà Việt Nam có thể khai thác. Nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiêp lần thứ 4. + Ba là, đổi mới giáo dục – đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin… phục vụ CNH, HĐH đất nước. + Bốn là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ và cải cách thuế, phí, thủ tục hành chính nhằm thu hút đầu tư, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp trên cả nước nhất là ở khu vực nông thôn. + Năm là, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Trong đó cần thực hiện các nhiệm vụ: xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và truyền thông, chuẩn bị nền tảng kinh tế số. Thực hiện chuyển đổi số nền kinh tế và quản trị xã hội. 3. KẾT LUẬN Quá trình đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH là quá trình chuyển đổi từ mô hình CNH “khép kín”, kế hoạch hoá tập trung sang chiến lược CNH gắn với việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, dựa trên kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Sự chuyển đổi đó làm cho nền kinh tế Việt Nam vận hành theo qui luật thị trường, chịu sự định hướng bởi các nguyên tắc và bản chất của chế độ XHCN; khai thác được mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế tham gia vào quá trình CNH, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đưa nền kinh tế tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiếp cận được khoa học – công nghiệp hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài…kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. -515-
  7. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải TÀI LIỆU THAM KHẢO. [1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2006, tr354 [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hôi nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb CTQG, H. 1994, tr65. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hôi nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr67-68. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr91. [5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr33. [6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2016, tr60. [7] Ban chỉ đạo 35 Bộ Công thương, Những thành tựu nổi bật trong công nghiệp góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Báo Công thương, Hà Nội tháng 9 năm 2020. -516-
nguon tai.lieu . vn