Xem mẫu
- 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG XANH
1. Khái niệm
Tăng trưởng xanh là một thuật ngữ để mô tả con đường tăng
trưởng kinh tế sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách
bền vững. Nó được sử dụng để cung cấp khái niệm thay thế cho
tiêu chuẩn tăng trưởng kinh tế.
Theo tổ chức sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc:
Tăng trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái
cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết
quả tốt hơn tư các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài
chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử
dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm
sự bất công bằng trong xã hội.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): Tăng
trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng
thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp
các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của
chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân
tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng
trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới.
Định nghĩa tăng trưởng xanh của Việt Nam: Tăng trưởng xanh ở
Việt Nam là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình
tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so
sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông
qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí
hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế một cách bền vững.
Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu rằng tăng trưởng xanh
đơn giản là tăng trưởng kinh tế có tính đến thiệt hại về môi
trường, Tăng trưởng xanh là công cụ cần thiết để hướng tới kinh
tế xanh.
2. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng xanh
- Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc ( UNEF) đã phối
hợp với các đối tác như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) và ngân hàng thế giới (WB) để phát triển một bộ các chỉ
tiêu đo lường tăng trưởng xanh mà từ đó các chính phủ có thể
lựa chọn các chỉ tiêu phù hợp tùy thuộc vào tình hình của từng
quốc gia. Các chỉ số đang được phát triển này có thể chia thành 3
nhóm sau đây:
Các chỉ số kinh tế: Chỉ số về tỷ lệ đầu tư, tỷ lệ sản lượng và việc
làm trong các lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững chẳng
hạnh như GDP xanh.
Các chỉ số môi trường: Chỉ số sử dụng hiệu quả tài nguyên, về ô
nhiễm ở mức độ ngành hoặc toàn nền kinh tế ( như hệ số sử
dụng năng lượng/GDP, hoặc hệ số sử dụng nước /GDP)
Các chỉ số tổng hợp về tiến bộ và phúc lợi xã hội: Chỉ số tổng
hợp về kinh tế vĩ mô, bao gồm ngân sách quốc gia về kinh tế và
môi trường, hoặc những chỉ số đem lại cái nhìn toàn diện hơn về
phúc lợi, ngoài định nghĩa hẹp của GDP trên đầu người
3. Vai trò của tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những
nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng hay tổn hại đến
khả năng đáp ứng và nhu cầu của các thế hệ tương lai. Phát triển
bền vững đòi hỏi sự tiến bộ cà tăng cường sức mạnh của cả ba
yếu tố có tính chất phụ thuộc và tương hỗ: kinh tế- xã hội - môi
trường.
Cách thức để áp dụng mô hình Tăng trưởng xanh đối với mỗi
quốc gia có thể rất khác nhau, điều đó phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố như đặc điểm địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực con
người - xã hội và giai đoạn phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những
nguyên tắc quan trọng bao gồm đảm bảo phúc lợi cao nhất, đạt
mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro
cho môi truowngf và hệ sinh thái thì vẫn luôn luôn không thay đổi.
Tăng trưởng xanh giúp bảo vệ đa dạng sinh học
- Sự suy giảm đa dạng sinh học làm giảm phúc lợi của một số bộ
phận dân số thế giới, trong khi một bộ phận dân số khác gặp phải
những vấn đề trầm trọng hơn vì đói nghèo. Nếu tình trạng này
tiếp tục, có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động của các hệ sinh
thái điều hòa khí hậu trong dài hạn và có thể dẫn đến biến đổi
không thể lường trước được. Hơn thế nữa, hệ sinh thái là nguồn
cung cấp chủ yếu các nguyên liệu phục vụ cho phát triển kinh tế.
Tăng trưởng xanh nhằm làm giảm những hiệu quả tiêu cực do
các yếu tố bên ngoài gây ra bởi việc khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Ví dụ, đầu tư vào bảo vệ rừng không những duy trì
một loạt các ngành sinh kế của con người mà còn bảo tồn đến
80% các loài trên cạn, Bằng cách thúc đẩy đầu tư vào lâm nghiệp
xanh, tăng trưởng xanh sẽ góp phần ổn định đời sống kinh tế của
hơn 1 tỷ người hiện đang sinh sống bằng cách sản phẩm làm từ
gỗ, giấy và chất xơ, với tổng thu nhập chỉ 1% GDP toàn cầu.
Tăng trưởng xanh có thể tạo ra việc làm
Tăng trưởng xanh có khả năng tạo ra việc làm trong một loạt các
lĩnh vực mới và nhiều tiềm năng, chẳng hạn như công nghiệp
hữu cơ, năng lượng tái tạo, giao thông công cộng, cải tạo các
khu công nghiệp, tái chế,.... Đã có rất nhiều công việc xanh được
tạo ra như vậy, đặc biệt là trong ngành năng lượng tái tạo như kỹ
thuật điện, hiệu quả năng lượng, công nghệ môi trường, năng
lượng mặt trời,...Thống kê chỉ ra rằng có 2,3 triệu người đã tìm
được việc làm trong lĩnh vực năng lượng tái sinh những năm gần
đây. Và sẽ có thêm 20 triệu việc làm từ nay đến 2030, chủ yếu là
trong ngành năng lượng từ vật liệu hữu cơ và năng lượng mặt
trời.
Tăng trưởng xanh giúp xóa đói giảm nghèo
Hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vẫn được sử dụng như
là cách thức phổ biến nhất để đánh giá một nền kinh tế. Tuy
nhiên, sự tăng trưởng đó thường được tạo ra thông qua việc khai
thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn là tài sản
“chung” như tài nguyên nước, rừng, không khí là nguồn cung cấp
cần thiết cho sự sống. Suy giảm đa dạng sinh học và suy thoái
- các hệ sinh thái đang ảnh hưởng rất lớn đến các ngành nông
nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt cá, lâm nghiệp - tinh tế của đa số
dân nghèo trên thế giới phụ thuộc hầu hết vào các ngành này.
Hướng tới nền Kinh tế Xanh được coi như là một trong những
phương thức nhằm xóa đói giảm nghèo và cải thiện tổng thể chất
lượng cuộc sống.
II. NỘI DUNG CỦA TĂNG TRƯỞNG XANH
1. Sản xuất và tiêu dùng bền vững
Sản xuất và tiêu dùng được xem là bền vững đến khi việc sản
xuất và tiêu dùng đó đáp ứng được các nhu cầu cơ bản và đem
lại chất lượng cuộc sống tốt hơn, đồng thời giảm thiểu việc sử
dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các vật liệu độc hại, và
giảm thiểu lượng chất thải và các chất ô nhiễm phát thải trong
suốt vòng đời sản phẩm, nhằm tránh gây nguy hại đến các nhu
cầu của các thế hệ sau.
2. Xanh hóa kinh doanh và thị trường
Sự cần thiết cho kinh doanh xanh
Giá thị trường hiện nay không phản ánh được đầy đủ các
chi phí chế biến của đầu vào (ví dụ như tài nguyên thiên
nhiên) và kết quả đầu ra (ví dụ như chất thải, nước và khí
thải). Như vậy cần phải có một khoản chi phí sinh thái cho
việc sử dụng tài nguyên trước và sau vào giá của hàng
hóa. Điều này nghĩa là các hoạt động giao dịch thị trường
sẽ không có chi phí môi trường, xã hội. Hệ quả của nó là
sẽ phải mất đi một mức thâm hụt môi trường. Điều này đòi
hỏi chính phủ phải đi đầu và khuyến khích xanh hóa kinh
doanh trong tất cả các cấp độ của nền kinh tế.
Phương pháp tiếp cận toàn bộ hệ thống theo hướng
xanh hóa kinh doanh
Phát triển công nghiệp sinh thái và các hệ thống nền kinh
tế tròn
Sinh thái công nghiệp (STCN - Industrial Ecology) thể hiện
sự chuyển hóa mô hình hệ thống công nghiệp truyền thống
- sang dạng mô hình tổng thể hơn - hệ STCN (industrial
ecosystem). Trong đó, chất thải hay phế liệu từ quy trình
sản xuất này có thể sử dụng làm nguyên liệu cho quy trình
sản xuất khác. Trong khu công nghiệp sinh thái cơ sở hạ
tầng công nghiệp được thiết kế sao cho chúng có thể tạo
thành một chuỗi những hệ sinh thái hòa hợp với hệ sinh
thái tự nhiên trên toàn cầu. Hệ STCN được tạo thành từ tất
cả các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, kết hợp cả sản
xuất công nghiệp và nông nghiệp. Bốn thành phần chính
của hệ STCN bao gồm: Cơ sở sản xuất nguyên vật liệu và
năng lượng ban đầu, Nhà máy chế biến nguyên liệu, Nhà
máy xử lý/tái chế chất thải và Tiêu thụ thành phẩm. Một hệ
STCN sẽ tận dụng nguyên vật liệu và năng lượng thải bỏ
của các nhà máy khác nhau trong hệ thống và cả các thành
phần không phải là cơ sở sản xuất. Bằng cách này, lượng
nguyên liệu và năng lượng tiêu thụ cũng như lượng chất
thải phát sinh sẽ giảm do chất thải/phế phẩm được sử dụng
để thay thế một phần nguyên liệu và năng lượng cần thiết.
3. Xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững
Quy hoạch bền vững
Quy hoạch bền vững là một chiến lược được đề ra để xây
dựng và bảo trì hệ thống cơ sở hạ tầng bền vững. Quy
hoạch bền vững tạo ra tiềm năng cao cho việc làm “xanh”,
góp phần bảo vệ và giữ gìn môi trường và góp phần đẩy
nhanh quá trình chuyển đổi để tăng trưởng xanh. Để có
một đồ án quy hoạch tốt, đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị
hiện nay, không phải là đơn giản. Theo kinh nghiệm của
một số nước đi trước, đặc biệt ở Úc thì quy hoạch bền
vững phải đáp ứng bốn tiêu chí: xã hội, tự nhiên, kĩ thuật,
tài chính.
1. Bền vững về xã hội: Đây là tiêu chí quan trọng
nhất. Quy hoạch đô thị ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều người từ nhiều sắc tộc khác nhau, nhiều nền
văn hóa khác nhau. Để đồ án sống được theo thời
- gian với đầy đủ ý nghĩa mong muốn, đồ án đó phải vì
con người, nghĩa là phải mang tính nhân văn, phải
cân bằng được mọi giá trị văn hoá, tôn giáo, phải
đảm bảo đầy đủ các yếu tố xã hội như giáo dục, y tế,
việc làm, thu nhập, giao thông và các dịch vụ cần
thiết khác, đó là những yếu tố tạo nên tính bền vững
xã hội.
2. Bền vững về tự nhiên: Đây là tiêu chí quan
trọng thứ hai. Tiêu chí này dựa trên nguyên tắc cơ
bản là tất cả mọi thủ phần của đồ án quy hoạch phải
tồn tại thân thiện với môi trường sinh thái. Người ta
thích là một thứ tự ưu tiên để phân tích tác động của
đồ án đến môi trường.
Ưu tiên thứ nhất là nguồn nước.
Ưu tiên thứ hai là những khoảng không
gian xanh.
Ưu tiên thứ ba là tài nguyên và thổ
nhưỡng.
3. Bền vững về kĩ thuật là tiêu chí quan trọng thứ
ba. Đồ án quy hoạch được coi là bền vững kỹ thuật
khi tích hợp được mọi yêu cầu hạ tầng kĩ thuật một
cách đầy đủ và đồng bộ với các phương án hợp lý
bảo đảm cho cuộc sống văn minh lâu dài.
4. Bền vững về tài chính: là tiêu chí quan trọng
cuối cùng. Người ta lập mô hình tài chính đầy đủ cho
toàn bộ vòng đời của công trình. Thậm chí là chi phí
để phá dỡ sau khi công trình hoàn thành sứ mệnh
tồn tại (Có khi cả trăm năm sau) cũng được dự toán
rất chi tiết.
Tòa nhà xanh:
Các tòa nhà hiện nay ở các nước phát triển, sử dụng
rất nhiều nguồn nguyên liệu, và tiêu tốn rất nhiều các
nguồn tài nguyên để xây dựng. Kéo theo nó là cả một
quá trình xây dựng phát thải cao và ô nhiễm. Vì thế
- tòa nhà xanh là đối tượng quan trọng trong việc xây
dựng cơ sở hạ tầng bền vững.
Khái niệm tòa nhà xanh được hiểu là những tòa nhà
đạt chuẩn về sử dụng năng lượng hiệu quả, giảm
sức tỏa hơi so hiệu ứng nhà kính, bảo toàn nguồn
nước, chống ô nhiễm tiếng ồn, nguồn nước, không
khí, đất và ánh sáng. Chủ đầu tư đã đưa thêm những
giải pháp để giúp cho công trình của họ được an toàn
hơn, Sạch hơn, và được coi là nơi có môi trường làm
việc, sinh sống và vui chơi thân thiện với môi trường.
Hiệu quả của những tòa nhà xanh là giúp làm giảm
mức tiêu thụ điện do sử dụng năng lượng tự nhiên,
nguồn nước tưới tiêu, giảm rác thải do quá trình tái
chế và tái sử dụng cũng như các chất gây ô nhiễm.
Các tòa nhà xanh đã được xây dựng:
Tòa nhà xanh tại Mỹ (trụ sở hội
đồng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên)
Trung tâm Thương mại Xanh CII-
Sohrabji Godrej ở Hyderabad tại Ấn Độ
4. Áp dụng thuế xanh
Thuế xanh (còn gọi là “thuế môi trường” hoặc “thuế ô nhiễm”) là loại
thuế đặc biệt đánh trên việc tiêu thụ các chất gây ô nhiễm môi trường
hoặc hàng hóa có sử dụng sản xuất các chất ô nhiễm. Lý thuyết kinh tế
cho rằng đánh thuế đối với lượng khí thải gây ô nhiễm môi trường sẽ
làm giảm tác hại môi trường theo cách thức ít tốn kém nhất, bằng cách
khuyến khích thay đổi hành vi của những doanh nghiệp và hộ gia đình
có thể làm giảm ô nhiễm của họ với chi phí thấp nhất.
Thuế môi trường thuần túy nhằm mục đích đảm bảo rằng
gây ô nhiễm phải đối mặt với chi phí bằng cách thu phí đối với
các thiệt hại gây ra cho người khác.
Thuế trực tiếp nhằm hạn chế ô nhiễm của người gây ô
nhiễm
Thuế gián tiếp, tức là đánh thuế vào các hàng hóa hay dịch
vụ liên quan mà khi sử dụng ít sẽ ít gây ô nhiễm
- 5. Đầu tư vào vốn tự nhiên
Vốn tự nhiên là các nguồn cung tài nguyên hoặc các dịch vụ có nguồn
gốc từ thiên nhiên. Rừng, các mỏ khoáng sản, nguồn lợi thủy sản và
đất đai màu mỡ là một số ví dụ về nguồn vốn thiên nhiên. Khả năng
lọc không khí và làm sạch nước cũng là hai trong số nhiều dịch vụ
sinh thái bắt nguồn từ thiên nhiên.
Có ba đặc điểm chính làm cho các chức năng hoặc dịch vụ sinh thái
có tầm quan trọng rất lớn:
Tính không thể thay thế: không dịch vụ hoặc chức năng
khác, tự nhiên hay nhân tạo, có thể thay thế những dịch vụ và
chức năng hiện tại (chẳng hạn như chức năng bảo vệ bức xạ mặt
trời hay khả năng điều hòa khí hậu … )
Tính không thể phục hồi: nghĩa là nếu bị phá hủy ở một
mức độ nào đó, nó sẽ không thể phục hồi như nguyên trạng (mất
cân bằng đa dạng sinh học, chất thải độc hại, … )
Nguy cơ cao: những tổn thất của hệ sinh thái tiềm tàng một
nguy cơ lớn đối với sự phồn vinh của loài người
Các hoạt động đầu tư vào vốn tự nhiên:
Phát triển nguồn năng lượng tái tạo, các nguồn năng lượng
sạch như gió, địa nhiệt, thủy điện, năng lượng mặt trời, …
Trồng rừng, Phục hồi các khu rừng nguyên sinh
Khai thác tài nguyên hiệu quả, tái chế và xử lý chất thải
Xây dựng và bảo vệ các khu sinh thái
III. CÁC CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG TĂNG TRƯỞNG XANH
Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEF) đã phối hợp với các đối
tác như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (UEC) và Ngân hàng Thế giới
(WB) để phát triển một bộ các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng xanh mà từ đó
các chính phủ có thể lựa chọn các chỉ tiêu phù hợpTùy thuộc vào tình hình
của từng quốc gia. Các chỉ số đang được phát triển này có thể được tạm chia
thành ba nhóm sau đây:
Các chỉ số kinh tế: chỉ số về tỉ lệ đầu tư, tỉ lệ sản lượng và việc làm
trong các lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững chẳng hạn như
GDP xanh.
- Các chỉ số môi trường: chỉ số sử dụng hiệu quả tài nguyên, về ô nhiễm
ở mức độ ngành hoặc toàn nền kinh tế (như hệ số sử dụng năng
lượng/GDP, hoặc hệ số sử dụng nước/GDP)
Các chỉ số tổng hợp về tiến bộ và phúc lợi xã hội: chỉ số tổng hợp về
kinh tế vĩ mô, bao gồm ngân sách quốc gia về kinh tế và môi trường,
hoặc những chỉ số đem lại cái nhìn toàn diện hơn về phúc lợi, ngoài
định nghĩa hẹp của GDP trên đầu người
IV. TÍNH TẤT YẾU CỦA TĂNG TRƯỞNG XANH
Hai thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến hàng loạt các cuộc khủng hoảng về
kinh tế, xã hội cũng như môi trường. Khủng hoảng tài chính Châu Á những
năm cuối thế kỷ XX, khủng hoảng tài chính toàn cầu những năm 2008 - 2009,
biến động xã hội đã xảy ra ở nhiều khu vực trên thế giới. Các thảm họa thiên
nhiên xảy ra đều được mô tả với các đánh giá như “chưa từng có trong lịch
sử” hay “lớn nhất trong hàng thập niên qua”, thể hiện tần suất gia tăng thiên
tai liên tục, phá vỡ mức độ tàn phá trước đây. Từ năm 2010 đến nay đã diễn
ra những trận lụt dữ dội chưa từng có ở Pakistan, Thái Lan,đợt nắng nóng
nhất từ 1000 năm qua ở Nga, lở đất kinh hoàng ở Trung Quốc, Trung Âu chìm
trong biển nước, động đất ở Haiti, Chi-lê, Nhật Bản… Nhân loại bàng hoàng
trước những hậu quả khủng khiếp mà thiên tai để lại, còn các nhà nghiên cứu
thì đều có chung giải thích, đây chính là những hậu quả nhãn tiền của tình
trạng biến đổi khí hậu đã được cảnh báo. Tiến sĩ Nguyễn Thọ Nhân trong lời
tựa cuốn sách của mình đã cho rằng “ Trong quá trình tiến hóa của nhân loại,
có lẽ loài người chưa bao giờ đứng trước một thách thức nghiêm trọng và
phức tạp như hiện nay: đó là hiện tượng biến đổi khí hậu và những hệ lụy của
nó. Những hệ lụy đó đã, đang và sẽ làm đảo lộn cuộc sống của nhân loại, làm
tiêu tan bao nhiêu công phu mà con người đã bỏ ra để xây dựng một thế giới
giầu đẹp trên các mặt vật chất và tinh thần”.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đồng ý với các tác giả của tác phẩm “Giới hạn của
sự tăng trưởng” - The limits to growth” Về ba nguyên nhân cơ bản làm cho
tình trạng môi trường xấu đi và hạn chế sự phát triển kinh tế trong tương lai.
Đó là sự tăng trưởng quá nhanh về dân số và công nghiệp mà không tính tới
yếu tố môi trường, giới hạn của tự nhiên và sự phản ứng chậm trễ của con
người trước các biến cố về môi trường. Thật vậy, dân số thế giới đã tăng với
tốc độ quá nhanh, từ nửa tỷ người năm 1650 đã tăng lên 1,6 tỷ năm 1900, 3,3
- tỷ năm 1960, lên hơn 6 tỷ năm 2000 và tăng lên U tỷ vào tháng 10 năm 2011.
Mặc dù từ thập niên 90 của thế kỷ XX, tỉ lệ tăng dân số đã giảm từ 2 % xuống
1,2%, song tốc độ tăng vẫn là rất nhanh. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp
cũng cực kỳ ấn tượng, từ năm 1930 đến năm 2000 giá trị tính ra tiền của
công nghiệp thế giới tăng 14 lần, trung bình cứ 19 năm tăng gấp đôi. Nền kinh
tế tăng trưởng quá nhanh làm các nguồn tài nguyên kiệt quệ nhanh chóng,
tạo ra các chất thải vào môi trường sống gây ra nhiều biến cố về sinh thái.
Loài người đã phản ứng chậm trễ thể hiện trên các mặt thông tin, ra quyết
định và hành động, hậu quả là hiện trạng môi trường ngày càng trầm trọng.
Như vậy thế giới phải đối mặt với hai thách thức: mở rộng cơ hội kinh tế cho
dân số toàn cầu ngày càng tăng và giải quyết các áp lực môi trường. Lúc này
giải pháp “phát triển trước, xử lý hậu quả sau” không còn hữu hiệu nữa trên
cơ sở nguồn lực tự nhiên hạn chế và dân số tăng nhanh. Vấn đề là phải tìm
ra con đường phát triển khác. Tăng trưởng xanh đáp ứng được hai thách
thức đó: đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển trong khi đảm bảo
các vấn đề về môi trường để tiếp tục cung cấp các nguồn lực cần thiết.
V. XU HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG NHANH TRÊN THẾ GIỚI
Đến nay, thực tế cho thấy rằng tăng trưởng xanh đã được xác định là trọng
tâm trong chính sách phát triển quốc gia của nhiều nước trên thế giới trong nỗ
lực đạt được sự phát triển bền vững. Trong đó, đáng chú ý nhiều quốc gia
như Hàn Quốc, Nhật Bản ở châu Á, Đức, Pháp, Hà Lan. Chấm. Châu âu đã
đi tiên phong trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh với nhiều nội dung quan
trọng thể hiện sự cam kết mạnh mẽ hướng tới nền kinh tế xanh. Còn tại các
nước trong khu vực, ví dụ như lào cũng đang trong quá trình xây dựng một lộ
trình tăng trưởng xanh quốc gia. Campuchia cũng đang nỗ lực xây dựng một
kế hoạch hành động chi tiết sau khi ban hành lộ trình tăng trưởng xanh quốc
gia. Trung Quốc cũng đã có kế hoạch phát triển quốc gia nhấn mạnh vào nền
kinh tế tuần hoàn trong khi Thái Lan nhấn mạnh vào nền kinh tế đầy đủ với
những đặc điểm chính của nền kinh tế xanh. Và Việt Nam cũng đang xây
dựng chiến lược tăng trưởng xanh. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy
hiện có một số cách tiếp cận để thúc đẩy tăng trưởng xanh, đó là cách tiếp
cận theo từng khu vực của nền kinh tế, hoặc đó là cách tiếp cận liên ngành
xuyên suốt các lĩnh vực như sử dụng hiệu quả tài nguyên, sản xuất và tiêu
dùng bền vững...
- Bên cạnh đó, thực tiễn tại các nước cũng cho thấy rằng việc thúc đẩy tăng
trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm năng
to lớn để đạt được phát triển bền vững và giảm đói nghèo với tốc độ chưa
từng thấy đối với tất cả các quốc gia. Riêng đối với các quốc gia đang phát
triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho một bước “nhảy vọt” để phát triển kinh
tế mà không cần theo con đường phát triển kinh tế “ô nhiễm trước, xử lý sau”.
Tiềm năng này thực tế bắt nguồn từ một sân chơi đang thay đổi đó là thế giới
hiện nay với những rủi ro chúng ta đang đối mặt và đã tạo ra những thay đổi
cơ bản đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận toàn diện lại cách thức, mô hình phát
triển kinh tế truyền thống, đồng thời cũng đòi hỏi một tư duy hoàn toàn mới về
cách tiếp cận với nền kinh tế của chúng ta.
nguon tai.lieu . vn