Xem mẫu
- MỤC LỤC(ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT)
1. LỜI MỞ ĐẦU. .................................................................................... 2
2. NỘI DUNG.......................................................................................... 3
2.1.Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư, phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối, mối quan hệ giữa
hai phương pháp này..........................................................................3
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư: .......................................................................................... 11
2.3. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối
được vận dụng vào trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá
của nước ta hiện nay........................................................................ 12
3. KẾT LUẬN......................................................................................... 22
1
- 1. LỜI MỞ ĐẦU.
Lấy cơ sở nghiên cứu là trường phái kinh tế chính trị c ổ đi ển, mà đ ại
biểu chính là David Ricardo, Karx Marx và Engels đã xây dựng nên trường
phái kinh tế chính trị Macxít và sau này được lênin củng cố thành kinh t ế
chính trị Mac - Lênin. Kinh tế chính trị Mac - Lênin đã đưa ra nh ững lu ận
chứng có tính chất quá độ lịch sử của chủ nghĩa tư bản và tất yếu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Quyển I của bộ
tư bản có tựa đề là “Về tư bản” được K.Marx cho xuất bản năm 1867,
trong tác phẩm này K.Marx đã trình bày một cách khoa học hệ th ống các
phạm trù kinh tế chính trị tư bản mà trước đó, chưa ai có th ể làm được, nó
được đánh giá như “tiếng sét nổ giữa bầu trời quang đãng của ch ủ nghĩa t ư
bản”, một trong số các học thuyết được nêu ra là thuyết giá trị th ặng dư,
nhờ có học thuyết này mà toàn bộ bí mật của nền kinh t ế t ư b ản ch ủ nghĩa
được vạch trần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một
cách chính xác, mà trong đó hai phương pháp sản xuất chính là phương
pháp giá trị thặng dư tương đối và phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tích luỹ và tái mở rộng
sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển. Hai ph ương pháp này đã
được đưa vào ứng dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Sau ngày đất nước dành được độc lập, đảng và nhà n ước ta đã nh ận
định rằng để đưa đất nước phát triển thì con đường duy nh ất để đưa n ước
ta phát triển là đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh t ế hi ện đ ại, đ ể
làm được điều đó trước hết chúng ta phải tiến hành công nghi ệp hoá, hi ện
đại hoá thì mới từng bước đưa nước ta trở thành một nước công nghi ệp
hiện đại. Do vận dụng không hợp lý những nguyên tắc trong từng thời kì
khác nhau của đất nước nên chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá
trình xây dựng đất nước, đạt được ít thành quả trong quá trình xây đ ựng
2
- đất nước. Nhưng từ khi bước vào thời kì đổi mới năm 1986, t ừ những kinh
nghiệm thu được sau nhiều năm và kinh nghiệm của thế giới, đảng ta đã có
quan điểm hết sức rõ ràng (tại đại hộigiữa nhiệm khoá VII): “Những tiến
bộ về kinh tế, xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển
với các nước, các tổ chức quốc tế cho phép chúng ta đ ẩy t ới m ột b ước
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nh ằm t ạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh t ế, t ừng
bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Đây là nhi ệm v ụ
trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là con đường thoát khỏi tụt h ậu xa h ơn so v ới các n ước xung
quanh, giữ được ổn định chính trị và xã hội, bảo vệ được độc l ập, ch ủ
quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”.
2. NỘI DUNG.
2.1.Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư, phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối, mối quan hệ
giữa hai phương pháp này.
Đã có nhiều người đưa ra các phạm trù giá trị thặng dư, nhưng họ
không chỉ ra được sự đúng đắn của phạm trù này, K.Marx là người đầu tiên
xây dựng hoàn chỉnh học thuyết giá trị thặng dư.Và theo K.Marx thì “giá tr ị
thặng dư là giá trị do sức lao động của công nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao
động và bị nhà tư bản chiếm đoạt”, nó là kêt quả lao đ ộng không công c ủa
người công nhân làm thuê. Khi nói đến tư bản người ta thường liên tưởng
đến tiền, đến tư liệu sản xuất, nhưng không phải như vậy, mà tư bản là
quan hệ sản xuất hàng hoá, là mối quan hệ sản xuất giữa gi ữa giai c ấp t ư
sản và giai cấp công nhân làm thuê, tư bản là giá trị mang lại giá trị th ặng
dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. B ởi
3
- vậy, cũng dễ hiểu khi mục đích của giai cấp tư sản là giá tr ị th ặng d ư.
Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết nhà tư bản ph ải s ản xu ất ra
hàng hoá có giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng là nội dung vật chất của hàng
hoá, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây cũng là quá trình nhà t ư b ản
tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu s ản xuất đ ể s ản xu ất giá tr ị
thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều được kiểm soát bởi nhà
tư bản và thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá trình sản xuất tư bản
chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mình công nhân lao động làm thuê s ử
dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá, bằng lao
động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động,
phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư. Ví dụ sau sẽ minh ho ạ rõ v ề giá tr ị
thặng dư:
Giả sử để chế tạo 1kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là 20.000 đ ơn v ị
tiền tệ mua 1kg bông, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đ ơn v ị
mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 10 giờ. Tổng
cộng số tiền ứng ra là 28.000 đơn vị tiền tệ. Trong quá trình sản xuất, bằng
lao động cụ thể công nhân sử dụng máy móc để chuy ển 1kg bông thành
1kg sợi, Theo đó giá trị của bông và hao mòn của máy móc đ ược chuy ển
vào sợi, bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị m ới nh ập vào
sợi. Trong 5 giờ công nhân đã chuyển được 1kg bông thành 1kg sợi thì giá
trị của 1kg sợi là:
+ Giá trị 1kg bông chuyển vào: 20.000 đơn vị
3.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc:
+ Giá trị mới tạo ra (bằng giá trị sức lao động): 5.000 đơn vị
Tổng cộng: 28.000 đơn vị
Nếu quá trình lao động dừng ở đây thì nhà tư bản không thu đ ược ít giá tr ị
thặng dư nào. Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động trong 10 giờ nên 5
4
- giờ tiếp theo nhà tư bản không phải trả công nữa mà chỉ cần ph ải chi thêm
2.000 đơn vị tiền tệ để mua 1kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy móc
nhưng sẽ có thêm 1kg sợi.
Tổng số tiền nhà tư bản bỏ ra để có 2kg sợi:
+ Tiền mua bông: 20.000 x 20 = 40.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc trong 10 tiếng 3.000 x 2 = 6.000 đơn vị
+ Tiền lương cả ngày 10 tiếng: = 5.000 đơn vị
Tổng cộng: = 51.000 đơn vị
Giá trị sợi nhà tư bản thu được 28.000*2 = 56.000 đơn vị
Như vậy nhà tư bản thu được giá trị thặng dư = 56.000 - 51.000 = 5.000
đơn vị
Từ ví dụ trên đây có thể thấy đích xác được giá trị th ặng d ư từ đâu mà có,
cái mà nhà tư bản thu được là cái gì, nguồn gốc sâu xa c ủa nó. Đó là c ơ s ở
của sự giàu có của giai cấp tư sản, cho nên K.Marx đã viết “Bí quyết của
sự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi ph ối đ ược m ột
số lượng lao động không công nhất định của người khác”. Nhà t ư b ản làm
được điều đó vì họ có trong tay tư liệu sản xuất, còn người lao động không
có tư liệu sản xuất chỉ có sức khoẻ, điều duy nh ất người công nhân có th ể
làm là bán sức lao động của mình để lấy tiền luôi sống bản thân và gia đình
của họ. Khi đó sức lao động trở thành hàng hoá, giá trị s ức lao đ ộng là đi ều
kiện quan trọng để sản xuất ra giá trị thặng dư. Như vậy, theo K.Marx giá
trị sản phẩm được khái quát theo công thức sau:
c+v+m
Trong đó:
c: giá trị tư liệu sản xuất
v: giá trị của sức lao động
m: giá trị thặng dư
5
- Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử
dụng vào những mục đich khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua
tư liệu sản xuất, để tái mở rộng sản xuất nhằm đem lại nhiều giá trị thặng
dư hơn.
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nh ưng
hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị th ặng dư
tuyệt đối và phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại
diện cho một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai
đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất ch ủ y ếu là s ử d ụng
lao động thủ công, hoặc lao động với những máy móc gi ản đ ơn ở các công
trường thủ công. Đó là sự gia tăng về mặt lượng của quá trình s ản xu ất ra
giá trị thặng dư. Bởi phương pháp giá trị thặng dư tuy ệt đối là giá tr ị th ặng
dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá th ời gian lao đ ộng t ất y ếu,
trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất
yếu là không thay đổi. Có nghĩa là khi nhà tư bản muốn tăng giá trị th ặng
dư, thì nhà tư bản sẽ mua thêm máy móc mua, thêm tư liệu sản xuât, thuê
thêm công nhân để sản xuất ra hàng hóa; nhưng móc, chỉ mua thêm nguyên
liệu sản xuất, và bắt công nhân hiện có ph ải cung c ấp thêm m ột l ượng lao
động, đồng thời tận dụng triệt để công suất của máy móc hiện có. Cái lợi
ở đây là nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản, thuê thêm công nhân, mua
thêm máy móc thiết bị, đồng thời máy móc sẽ được khấu hao nhanh h ơn,
hao mòn và chi phí bảo quản giảm đi rất nhi ều, th ời gian thu l ợi nhu ận s ẽ
dài hơn. VD: Một ngày người công nhân lao động 8 giờ, trong đó th ời gian
lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, m ỗi gi ờ
công nhân tạo ra một giá trị mới là 10.000 đơn vị tiền tệ, thì trong một ngày
6
- người công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 80.000, bao g ồm 40.000 là
chi phí sản phẩm và 40.000 là giá trị thặng dư tuy ệt đối, t ỷ su ất giá tr ị
thặng dư là 100%. Nhưng khi kéo dài thời gian lao động ra thêm 2 giờ với
điều kiện các yếu tố khác không đổi thì giá trị th ặng dư tuy ệt đ ối tăng lên
là 60.000, nhà tư bản được lợi thêm 20.000 đơn vị so với tr ước đó, t ỷ su ất
thặng dư là 150%.(Tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện của trình độ bóc lột
giá trị thặng dư).
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của người công
nhân làm thuê, nhưng thực tế thì không cho phép họ làm nh ư v ậy trong m ột
thời gian quá dài. Vì những việc làm đó là vượt quá gi ớ h ạn sinh lí c ủa
người công nhân, một người có thể duy trì mãi một cường độ lao động với
năng suất cao trong một thời gian dài là điều không th ể có được, h ọ cần
phải có thời gian ăn ngủ, nghỉ ngơi giải trí nhằm h ồi ph ục s ức kho ẻ. Th ật
dễ hiểu khi giai cấp tư bản gặp phải sự kháng cự của giai cấp công nhân.
Giai cấp tư sản muốn kéo dài thời gian lao động trong ngày, còn giai c ấp
công nhân muốn rút ngắn thời gian lao động, do đó độ dài ngày lao đ ộng có
thể co giãn và việc xác định độ dài ngắn ấy phụ thuộc vào so sánh l ực
lượng trong cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó. Điểm dừng c ủa đ ộ dài
ngày lao động là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản và l ợi ích
kinh tế của người lao động được thực hiện theo một thoả hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản sẽ tìm mọi
cách để tăng cường độ lao động của người công nhân. Tăng cường độ lao
động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động trong m ột kho ảng th ời gian
nhất định, nên về thực chất cũng giống như kéo dài thời gian lao động
trong ngày. Nhà tư bản có thể tăng thêm tư liệu lao đ ộng, yêu c ầu hay tho ả
thuận người lao động lao động với cường độ cao mức bình thường, yêu
cầu khi người lao động là họ phải tập trung làm việc h ơn, các thao tác làm
7
- việc phải nhanh hơn… những việc đó sẽ tốn nhiều sức lao động hơn so
với bình thường, và cũng tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Nhưng việc tăng
cường độ lao động khó hơn việc tăng thời gian lao động của người công
nhân. vì việc này muốn thực hiện đựoc thì nhà tư bản phải thay đ ổi máy
móc.
Việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ngoài
việc gặp khó khăn như ở trên đã đề cập, theo D.Ricardo “v ới s ự tăng thêm
của một nhân tố sản xuất nào đó, trong điều kiện các nhân tố s ản xu ất
khác là không thay đổi, năng suất của của nhân tố tăng thêm sẽ giảm đi”.
Bởi vậy, việc gia tăng các nguyên liệu sản xuất trong khi các điều kiện sản
xuất khác không đổi, là việc làm không hiệu quả khi mà nhà tư b ản mu ốn
tăng thu thêm giá trị thặng dư.
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt
đối gặp phải thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xu ất giá tr ị th ặng
dư tương đối vào sản xuất. Phương pháp này có tiến bộ vượt bậc so với
phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối, thể hiện trình độ s ản xu ất cũng
như trình độ xã hội đã được nâng lên một tầm cao hơn. Phương pháp giá trị
thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nh ờ đó tăng th ời gian
lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như
cũ. Vì giá trị sức lao động được quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và d ịch
vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nên muốn hạ thấp giá trị sức lao
động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ c ần thi ết cho
người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao
động xã hội cho các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất
tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ. VD: Giả
sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động t ất
8
- yếu, 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi này tỷ suất thăng d ư là
100%.Nhưng khi máy móc được thay đổi, ngày lao động không thay đổi,
thời gian lao động tất yếu của người công nhân chỉ còn lại là 3 gi ờ, th ời
gian lao động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì v ậy t ỷ su ất th ặng d ư đã tăng
lên là 166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so v ới
các công cụ thủ công, vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con
người trực tiếp sử dụng bằng sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng
sinh lý của con người, nhưng khi lao động bằng máy móc sẽ không gặp
phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử dụng máy móc làm năng suất lao
động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu sinh hoạt, làm h ạ th ấp giá tr ị
hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo dài thời gian
lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị th ặng dư h ơn.
Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng được nâng cao do các
cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công nghệ
phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch
sử loài người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến s ự hình
thành các nguyên lý công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công
cụ sản xuất như cách mạng khoa học, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao,
đưa xã hội loài người bước sang một nền văn minh mới - n ền văn minh trí
tuệ.
Phương pháp giá trị thặng dư tương đối là ph ương pháp s ản xu ất theo
chiều sâu, lao động phức tạp tăng lên và thay thế cho lao động giản đ ơn.
Để có lợi cho mình có lợi cho mình các nhà tư bản buộc phải chú trọng đến
nhân cách sáng tạo của lao động làm thuê. Điều đó đã ch ứng minh r ằng lao
động trí óc, lao động có trình độ kĩ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định
9
- tới việc sản xuất giá trị thặng dư và tầng lớp công nhân này có mức sống
tương đối cao. Chính những điều đó dã làm cho m ột s ố ng ười lao đ ộng
nhầm tưởng rằng họ không bị bóc lột sức lao động, sức lao động của h ọ
được trả một cách thoả đáng, họ an tâm làm việc mà không không bi ết
rằng một khối lượng lớn giá trị mới do sức lao động c ủa mình t ạo ra đã b ị
nhà tư bản chiếm đoạt. Hơn nữa, với tốc độ phát triển chóng mặt c ủa máy
móc công nghệ, tác hại của sóng điện từ từ những thiết bị tin h ọc hi ện đ ại
làm cho người lao động bị hao phí rất nhiều sức lực, phát sinh nhi ều b ệnh
nghề nghiệp, các bệnh này có thể phát sinh ngay trong quá trình còn đang
lao động của người công nhân nhưng cũng có th ể để lại di ch ứng sau m ột
thời gian dài mới biều hiện bệnh.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu
ngạch, đây là cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá
trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của nó. Xét trong từng
trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng t ạm th ời, nó s ẽ b ị
mất đi khi công nghệ đó đã được phổ biến rrộng dãi, nh ưng xét theo ph ạm
vi toàn xã hội thì đây một hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng
dư siêu ngạch là kì vọng của nhà tư bản và là động l ực m ạnh nh ất thúc
đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng su ất
lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh chóng. Bởi vậy K.Marx
gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị th ặng dư tương
đối.
Thực ra, hai phương pháp giá trị thặng dư đó không hề bị tách dời
nhau, mà chỉ trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là
nhiều hay ít mà thôi, trong thời kì đầu của ch ủ nghĩa tư b ản thì ph ương
pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng nhiều hơn so v ới ph ương
10
- pháp giá trị thặng dư tương đối, còn trong th ời kì sau c ủa ch ủ nghĩa t ư b ản
thì ngược lại. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc nhà t ư b ản k ết h ợp t ốt
hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã tạo ra ngày càng nhi ều giá tr ị
thặng dư cho nhà tư bản, bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật
và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều sức lao động làm thuê. Máy móc
hiện đại được áp dụng, các lao động chân tay bị cắt giảm nhưng điều đó
không đi đôi với giảm nhẹ cường độ lao động của người công nhân, mà trái
lại do việc áp dụng máy móc không đồng bộ nên khi máy móc ch ạy với tốc
độ cao, có thể chạy với tốc độ liên tục buộc người công nhân phải ch ạy
theo tốc độ vận hành máy làm cho cường độ lao động tăng lên, năng suất
lao động tăng, ngoài ra nền sản xuất hiện đại áp d ụng tự động hoá cao
cường độ lao động người công nhân tăng lên với hình thức mới đó là cường
độ lao động thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp, tạo ra sản
phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị lớn. Nên sản xuất tư bản ch ủ nghĩa
trong diều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi của hai ph ương pháp s ản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối.
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư:
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính
chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư,
nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư
siêu ngạch có thể vận dụng trong các danh ngh ệp ở nước ta nh ằm kích
thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải
tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc
nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính
sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh t ế. Trong
11
- điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và s ản xu ất
kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao
động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc
dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã h ội, thúc đ ẩy tăng
trưởng kinh tế.
2.3. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối
được vận dụng vào trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá
của nước ta hiện nay.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm
thuê tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, c ủa giai c ấp t ư
sản. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công
của người công nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị th ặng
dư không tồn tại, mà giá trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác
không giống như giai cấp tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở,
tiền đề để xây dựng đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, vì mục đích phát triển xã hội chủ nghĩa, vì con người. Không tác ra
khỏi xu hướng của xã hội, Việt Nam vận dụng các ph ương pháp s ản xu ất
giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây dựng đất nước, trong đó ti ến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhiệm vụ hàng đ ầu, đây cũng là m ột
quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
Khi tách riêng hai thuật ngữ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ra làm
hai, thấy công nghiệp hoá là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc dân một
nước từ trình độ phát triển thấp sang một trình độ phát triển cao h ơn nhi ều
dựa trên cơ sở các ngành kinh tế có trình độ khoa h ọc công ngh ệ hi ện đại,
với năng suất chất lượng hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn, còn hiện đại hoá
là việc xây dựng và phát triển đất nước đạt trình độ của những n ước phát
12
- triển nhất của thời đại mà mấu chốt là đạt trình độ hiện đại hoá của nền
sản xuất xã hội. Chính bởi vậy mà công nghiệp hoá phải luôn đi đôi với
hiện đại hoá, tạo thành khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh t ế xã h ội,
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách ph ổ bi ến lao
động với công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao
động xã hội cao.Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá: là quá trình tạo
ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công ngh ệ, ph ương
tiện, phương pháp, những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ
nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hi ện đ ại hoá là c ải
biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sủ dụng kỹ thuật tiên tiến
hiện đại đạt tới năng suất lao động xã h ội cao, t ạo ra s ự đ ổi m ới trong t ất
cả các ngành nghề, lĩnh vực.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành từng
bước, phải có sự đồng bộ trong giữa các bước, tránh nóng vội chủ quan s ẽ
đem lại những hậu quả đáng tiếc. Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất trước hết bằng việc cơ khí hoá nền sản xuất xã hội trên c ơ s ở áp
dụng những thành tựu khoa học công nghệ. Trong đó, chú trọng xây dựng,
phát triển công nghiệp và sản xuất tư liệu sản xuất, then chốt là công
nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất. Khi phát triển công nghiệp sẽ tạo điều
kiện cho các ngành công nghiệp sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị,
trong đó sản phẩm được sử dụng nhiều nhất là các tư liệu sản xuất. Đối
tượng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất cả các ngành trong nền kinh
tế quốc dân, các ngành công nghiệp chế tạo tư liệu có ý nghĩa đ ặc bi ệt
quan trọng, vì sản phẩm của ngành này sẽ được ứng dụng vào các ngành
khác để sản xuất ra sản phẩm cấp thấp hơn, nên ngành công nghiệp ch ế
13
- tạo tư liệu sản xuất có vị trí quan trọng việc thúc đẩy s ự nghi ệp phát tri ển
của các ngành khác. Xã hội phát triển kéo theo quy mô, cơ cấu, tỷ trọng các
ngành công nghiệp phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh tiềm năng của
đất nước. Đó là trong thời kì đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì sản
xuất công nghiệp nhẹ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp, bởi
trong hoàn cảnh này sẽ dễ dàng tận dụng được những nguyên liệu có sẵn
và lao động có tay nghề không cao, tuy nhiên phải không ngừng đầu t ư phát
triển để đưa ngành công nghiệp nặng tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Ở giai
đoạn sau công nghiệp nặng sẽ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp
nhẹ, công nghệ nặng sẽ là nền công nghiệp chủ đạo của nền kinh tế sử
dụng những lao động lành nghề, trình độ kỹ thuật cao. Đồng th ời, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là chuyển đổi cơ cấu kinh t ế theo h ướng
hiện đại hợp lý và hiệu quả hơn. Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
tăng dần, nhưng mỗi giai đoạn khác nhau mà tỷ trọng công nghiệp là l ớn
hay tỷ trọng dịch vụ là lớn hơn, nhưng một tất yếu là t ỷ tr ọng ngành nông
nghiệp sẽ giảm đi trong cơ cấu kinh tế. Kéo theo là lao động trong nông
nghiệp sẽ giảm và chuyển sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Thời kì này,
chúng ta phải tăng cường củng cố địa vị chủ đạo của quan hệ s ản xu ất xã
hội chủ nghĩa, tiến tới xác lập địa vị thống trị của quan h ệ s ản xu ất xã h ội
chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đảng ta đã lấy mục tiêu phát
triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên một làm cần thiết
là chúng ta phải tuyên truyền rộng khắp tư tưởng của chủ nghĩa xã h ội làm
cho nhân dân hiểu, tin tưởng vào chế độ mà đảng đã lựa ch ọn, yên tâm
tham gia sản xuất phát triển xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cuộc cải biến cách mạng từ xã hội
nông nghiệp trở thành xã hội công nghiệp, đó là cuộc cải biến trên mọi lĩnh
vực, làm được điều đó cần có nhiều điều kiện về kinh tế, văn hoá xã h ội.
14
- Một tiền đề quan trọng là việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Trong tình hình hội nhập kinh tế thé giới sôi động ngày nay thì m ỗi qu ốc
gia đều phát triển dựa trên hai nguồn vốn chính là vốn trong nước và vốn
ngoài nước, nhưng mỗi nước có quan điểm khác nhau trong việc coi trọng
nguồn vốn trong nước hay nước ngoài hơn. Quan điểm của nước ta là d ựa
vào vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài là quan trọng. Chúng ta phải
tận dụng hết mọi nguồn vốn trong nước để tạo ra sự phát tri ển b ền vững,
cân đối, nhưng nguồn vốn nước ngoài là chất xúc tác quan trọng đưa nền
kinh tế phát triển vượt bậc. Việc tích luỹ nguồn vốn từ nội bộ n ền kinh t ế
quốc dân được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao
động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế.
Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng
năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, hợp lý hoá sản xuất, mặt khác chúng ta phải khai thác và s ử d ụng t ốt
quỹ lao động. tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, chỉ như thế chúng ta mới tận dụng được hết các
nguồn lực sẵn có, tận dụng được lợi thế tương đối của nước ta. Chúng ta
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, quốc gia tham gia vào đ ầu t ư
tại nước ta, giúp nguồn vốn đầu tư được bổ sung, đó là các nguồn vốn nh ư
FDI, ODA, nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế nh ư: IMF,
ADB, WB… Khi các nguồn vốn này được đưa vào trong nước thì s ẽ cải
thiện rất nhiều cho tình hình kinh tế Việt Nam, như m ột lu ồng gió m ới,
chất xúc tác không thể thiếu đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích là nâng cao n ền sản xu ất xã h ội,
mà chỉ sử dụng các phương tiện công nghệ thì chưa đủ, một điều kiện
không thể thiếu là chúng ta phải sử dụng đội ngũ nh ững người lao động có
khả năng vận hành điều khiển các loại máy móc công nghệ đó. Nguồn
nhân lực có thể đáp ứng nhu cầu đó của quá trình công nghiệp hoá, hi ện
15
- đại hoá bao gồm những con người có tài có đức, ham học hỏi, thích sáng
tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của tổ quốc. Họ
phải được trang bị tốt về tư tưởng chỉ đạo của đảng, về kiến thức văn hoá,
được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất
kinh doanh, về điều hành kinh tế vĩ mô nền kinh t ế và toàn xã h ội, có trình
độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang tầm với thế giới. Đó là nguồn lực
của nền văn hoá công nghiệp hiện đại. Từ đó thấy rằng việc quan trọng
hàng đầu là chúng ta phải ưu tiên cho phát triển con người, phải đầu tư cho
giáo dục coi đó là nhiệm vụ quốc sách hàng đầu hướng chính của đầu tư
phát triển, phải tạo cơ cấu nhân lực đồng bộ trong tất cả các lĩnh v ực:
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, đào tạo cán bộ qu ản lý kinh t ế, cán b ộ
trong các ngành kỹ thuật, trong các ngành kinh doanh, đào tạo các công nhân
lành nghề có khả năng sử dụng công nghệ kỹ thuật cao. Tiềm lực khoa
học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khoa h ọc
công nghệ có vai trò ngày càng to lớn đến tăng trưởng nền kinh tế. Nếu quá
trình tích luỹ, mở rộng đầu tư theo quy mô sản xuất đ ược coi là tái s ản
xuất theo chiều rộng thì phát triển khoa học công ngh ệ được coi là quá
trình tái mở rộng sản xuất theo chiều sâu, khoa học công ngh ệ là bi ểu hiện
của trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Khoa học công nghệ có vai trò
quyết định tới lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia. Tiềm lực khoa
học công nghệ là tiềm lực trí tuệ sáng tạo của mỗi quốc gia. Theo m ột
nghiên cứu thấy rằng khả năng cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế
giới như sau:
Xếp hạng
Nước
2002 2003 2004
Phần Lan 1 1 1
Mỹ 2 2 2
Đài Loan 6 5 4
16
- Đan mạch 4 4 5
Singapore 7 6 7
Malaysia 30 29 31
Thái Lan 37 32 34
Inđônêxia 69 72 69
Trung Quốc 38 44 46
Phi-líp- pin 63 66 76
Việt Nam 62 60 77
Thấy rằng khả năng cạnh tranh của Việt Nam là thấp so với khu v ực
và thế giới, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của nước ta chậm hơn so
với các nước trên thế giới, điều đó có nghĩa là mức độ đóng góp của khoa
học công nghệ vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế. Với tình hình đó thì
việc thay đổi khoa học công nghệ là một việc làm tất yếu của nước ta thì
mới mong có sự thay đổi trong nền kinh tế. Để thay đổi công ngh ệ trong
sản xuất là một điều không phải dễ đối với tất cả các nền kinh tế đặc biệt
khi nước ta là một nước nông nghiệp đi lên, nhưng khi chúng ta mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại thì điều đó trở nên dễ dàng hơn. Quan hệ kinh tế
đối ngoại càng rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước càng thuận lợi, nhanh chóng bấy nhiêu. Th ực
chất của việc mở rộng quan hệ đối ngoại là việc thu hút vốn đầu tư từ bên
ngoài, là tiếp thu nhiều kỹ thuật và công ngh ệ hiện đại, h ọc h ỏi đ ược kinh
nghiệm điều hành, quản lý hiện đại để áp dụng vào tình hình th ực t ế n ước
ta, đồng thời cũng dễ dàng cho việc mở rộng thị trường, giúp cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành nhanh hơn. Một trong nh ững đi ều
kiện không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là s ự
lãnh đạo đảng và sự quản lý của nhà nước. Khi có sự lãnh đạo của đảng
thì chúng ta mới có thể đi đúng hướng theo con đường đảng đã ch ọn l ựa là
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà cao hơn cái mà
chúng ta đang hướng tới là chủ nghia cộng sản. Mặt khác khi có sự quản lý
của nhà nước thì, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới đ ược th ực
17
- hiện từng bước theo đứng quy luật và phù hợp với tình hình trong n ước và
quốc tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới được diễn ra đồng đều và rộng
khắp trên các vùng miền của đất nước. Có thế thì người dân mới tin tưởng
vào chế độ, an tâm để lao động và làm việc, ch ỉ có s ự qu ản lý c ủa nhà
nước thì các dịch vụ công được đảm bảo, trật tự công bằng mới được thực
hiện.
Khi nội dung và tiền đề của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được
vạch ra thì phương hướng, quy mô, bước đi của tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phải được cân nhắc kỹ trên cơ sở thấu suốt các quan điểm
của đảng và nhà nước, trong văn kiện đại hội ban chấp hành trung ương 7
(khoá VII) đã nêu rõ như sau:
- Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn di ện các ho ạt
động kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, ph ương
pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Đ ối v ới n ước ta, đó
là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã h ội nh ằm c ải
tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã h ội công nghiệp, gắn
với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng th ể
hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tạo ra những điều kiện cần thiết
về vật chất kỹ thuật, về con người và về khoa học công ngh ệ, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh
tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây
dựng một nền kinh tế mở cả trong và ngoài nước, đa phương hoá và đa
18
- dạng hoá quan hệ đối ngoại; kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, g ắn
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã h ội, phát tri ển văn hoá,
bảo vệ môi trường.
- Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay th ế
nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy l ợi
thế so sánh của đất nước trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao s ức
cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường
quốc tế.
- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương hướng phát triển, lựa chọn các dự án đầu tư công nghệ.
- Khai thác nhanh thế mạnh của cả nước, của mỗi vùng, mỗi ngành,
tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, địa bàn trọng đi ểm sớm
đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời quan tâm những nhu cầu thiết yếu,
có chính sách, cơ chế giải pháp thiết th ực đối với nh ững khó khăn, đ ẩy
mạnh hợp tác phát triển, bảo vệ cho các vùng và các thành ph ần dân c ư
đều có lợi ích và được hưởng thành quả của sự tăng trưởng.
- Chú trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, thu h ồi nhanh, theo
phương trâm lấy ngắn nuôi dài; xây dựng một số công trình có quy mô l ớn
và hiệu quả.
- Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất và công ngh ệ
hiện có, tập trung vào những khâu quyết định khả năng cạnh tranh của s ản
phẩm. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, bảo đảm
tính tiên tiến của thiết bị và công nghệ nhập khẩu, ưu tiên cho loại công
nghệ tốn ít vốn, tạo nhiều việc làm trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân. Đó là m ột
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người sức c ủa. Ch ỉ có huy
động sức mạnh và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân d ưới s ự lãnh đạo
19
- đúng đắn của đảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của nhà nước thì
mới đảm bảo thằng lợi.
Kết quả b ước đầu mà chúng ta đã đạt được sau ngày đổi mới rất
đáng mừng, chúng ta có sự phát triển về mọi mặt cả về kinh t ế xã h ội, văn
hoá, giáo dục, y tế. Đặc biệt về kinh tế chúng ta đang đạt được sự phát
triển không ngừng, với nhiều sự cố gắng Việt Nam đang tiến hành thay đổi
thể chế kinh tế sao cho phù hợp với các nước trên thế giới, để Việt Nam
nhanh chóng trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO,
một sân chơi đầy thuận lợi và khó khăn. Biểu đồ sau th ể hiện nh ững thành
tựu mà nước ta đạt được về kinh tế:
Gi¸ trÞs ¶n phÈm quèc d© (theo gi¸ hiÖ hµnh)
n n
(Tû ®ång)
300000 N«ng nghiÖp C«ng nghiÖp DÞ vô
ch
250000
200000
150000
100000
50000
0
1999 2000 2001 2002 2003 2004 (N¨ m)
Nguồn: Niên giám thống kê
Nhìn vào biểu đồ thấy rằng, giá trị sản phẩm quốc dân năm sau tăng
nhanh hơn năm trước tiêu biểu năm 2001 tăng 39647 tỷ đồng so với năm
2000, năm 2002 tăng 54467 tỷ đồng so với năm 2001, năm 2003 tăng 77771
20
nguon tai.lieu . vn