Xem mẫu

  1. - 1- Nhóm 2- kinh tế quốc tế Bài tập nhóm Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu và tổng quan về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ khi mở cửa thị trường cho đến nay
  2. - 2- Nhóm 2- kinh tế quốc tế CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ KHI MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG CHO ĐẾN NAY. I.Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu: 1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu: a. Khái niệm Hoạt động xuất khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán.Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá
  3. - 3- Nhóm 2- kinh tế quốc tế riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi một quốc gia nói chung và công nghiệp nói riêng. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn và là phương tiện thúc đẩy phát triển nền kinh tế.Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu. b. Đặc điểm - Xuất khẩu hàng hoá thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các khoa học quản lý kinh tế với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu tố khác của từng quốc gia như yếu tố luật pháp, kinh tế văn hoá. Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu hàng hoá nhằm khai thác lợi thế so sánh của từng nước, khai thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân gia tăng tiến bộ xã hội và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập, quốc tế hoá. Lợi thế so sánh đó là các lợi thế về vị trí địa lý, về lao động, về tài nguyên và sở hữu phát minh sáng chế. - Trong điều kiện hiện nay, xuất khẩu hàng hoá ở nước ta đang là một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu được chú trọng. Bởi nó đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho sự phát triển nước nhà, tạo cho nhiều quốc gia có cơ hội thuận lợi trong việc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội. - Hoạt động xuất khẩu hàng hoá diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia khác nhau, ở trong các môi trường và bối cảnh khác nhau. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có một trình độ hiểu biết và kinh nghiệm để giao lưu và học hỏi khi xuất khẩu ra nước ngoài. Vì vậy, chúng ta không thể lấy kinh nghiệm trao đổi hàng hoá thông thường trong một quốc gia để áp đặt hoàn toàn cho hoạt động trao đổi hàng hoá với nước ngoài.
  4. - 4- Nhóm 2- kinh tế quốc tế - Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành bởi tư nhân hoặc nhà nước. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì chính phủ có nhiều mục tiêu khác nhau như chính trị, ngoại giao, văn hoá... Do đó, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ có thể hiện hoặc không hoàn toàn hướng về lợi nhuận. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì mục đích của họ là tối đa hoá lợi nhuận, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là công cụ, phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế.Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các mặt sau: - Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, trong mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001- 2005 có nói: “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”.Như vậy, để làm được điều đó tât yếu phải cần một lượng vốn lớn để thực hiện. Cho nên vốn là một nhân tố không thể thiếu được, là vấn đề sống còn với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Bởi vì khi có một lượng vốn lớn chúng ta có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện đại... phục vụ cho phát triển kinh tế. Để có được một lượng vốn cho nhập khẩu có thể được hình thành từ nhiều nguồn như: liên doanh đầu tư nước ngoài với nước ta;
  5. - 5- Nhóm 2- kinh tế quốc tế vay nợ, viện trợ, tài trợ; hoạt động du lịch, dịch vụ; xuất khẩu hàng hoá,lao động...Nhưng vẫn quan trọng hơn cả là xuất khẩu hàng hoá.Bởi vì các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hoặc cách khác. Ngoại tệ thu được qua các hoạt động du lịch, dịch vụ hiện nay chỉ là rất nhỏ so với nhu cầu về vốn của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu lao động không ổn định đang có xu hướng giảm dần.Do vậy, nguồn ngoại tệ quan trọng nhất chi dùng cho nhập khẩu chính là từ xuất khẩu. - Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển: Việc coi thị trường và đặc biệt là thị trường quốc tế là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất.Điều này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở chỗ: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hoặc thuốc nhuộm.Mặt khác sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. + Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và ổn định. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ từ các nước phát triển và Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới.
  6. - 6- Nhóm 2- kinh tế quốc tế + Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng.Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với mọi thị trường. + Xuất khẩu còn đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh. - Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân: Việc xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua các thị trường quốc tế phải cần một lượng lớn nhân công để sản xuất và hoạt động xuất khẩu thu về một lượng ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân. Những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất còn kém như: ô tô,xe máy... do đòi hỏi trình độ và kỹ thuật cao cho nên việc đáp ứng nhu cầu đều qua con đường nhập khẩu đến với người tiêu dùng. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta: Quan hệ kinh tế đối ngoại bao các hoạt đông giao lưu giữa các nước với nhau.Trong đó xuất khẩu là một hình thức của hoạt động kinh tế đối ngoại.Điều này làm cho hoạt động xuất khẩu cùng với các mối quan hệ kinh tế quốc tế khác làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Chính nhờ thông qua xuất khẩu và các quan hệ đối ngoại khác nhau mà hiện nay nước ta đã thiết lập mối quan hệ thương mại với hơn 140 nước trên thế giới, ký các hiệp định thương mại với hơn 70 nước là thành viên của tổ chức kinh tế của thế giới và khu vực.
  7. - 7- Nhóm 2- kinh tế quốc tế II.Tổng quan về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ khi mở cửa thị trường cho đến nay: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của nước ta đã gia tăng nhanh chóng trong những năm qua. Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình thường,Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD trong năm 1990 lên trên 5,4 tỷ USD năm 1995, lên gần 14,5 tỷ USD năm 2000, lên gần 32,5 tỷ USD năm 2005, lên trên 39,8 tỷ USD trong năm 2006 và có khả năng đạt 47,5 tỷ USD trong năm 2007. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP cũng tăng nhanh từ 30,8% năm 1990 lên 46,5% năm 2000, lên 61,3% năm 2005, lên 65% năm 2006 và 67% năm 2007 - thuộc loại cao so với các nước (đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, đứng thứ 5 ở châu á và thứ 8 trên thế giới). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người cũng tăng từ 36,4 USD năm 1990, lên 75 USD năm 1995, lên 186,8 USD năm 2000, lên 391 USD năm 2005, lên 473,2 USD năm 2006
  8. - 8- Nhóm 2- kinh tế quốc tế và khả năng năm 2007 đạt 557 USD. Sự tăng tốc của xuất khẩu của Việt Nam do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do mở rộng thị trường xuất khẩu.Vậy từ thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý. Thứ nhất, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ nước ta đã tăng nhanh trong hơn mười năm qua. Trước đổi mới, Việt Nam chủ yếu có quan hệ buôn bán với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước bạn bè có cảm tình với Việt Nam. Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam bước đầu được mở rộng. Nhưng do Việt Nam còn là nền kinh tế thiếu hụt, lại vẫn còn bị bao vây cấm vận, nên số nước và vùng lãnh thổ đầu tư này vẫn còn rất ít và quy mô xuất khẩu của Việt Nam cũng còn rất nhỏ bé. Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình thường, Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã tăng nhanh. Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Cũng vì thế mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Thứ hai,trong 200 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam, số đạt trên 100 triệu USD có 28, số đạt trên 500 triệu USD có 16, số đạt trên 1 tỷ USD có 7, đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản, CHND Trung Hoa, Australia, Singapore, Đức, Malaysia, Anh.
  9. - 9- Nhóm 2- kinh tế quốc tế Như vậy, bên cạnh việc mở rộng thị trường, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá, việc xác định các thị trường trọng điểm là hết sức cần thiết để giảm chi phí vận chuyển, tiếp thị quảng cáo... Tuy nhiên, việc "bỏ trứng vào một giỏ"cũng là điều nên tránh và việc mở rộng thị trường để tăng lượng tiêu thụ, phòng tránh những rủi ro khi xảy ra ở một thị trường nào đó (chẳng hạn như việc kiện bán phá giá). Thứ ba, trong các thị trường trên có một số thị trường truyền thống, thị trường tiềm năng, thị trường mới, thì kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam còn thấp, như Indonesia, Mông Cổ, các nước Trung Nam Á, (kể cả Ấn Độ), các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các nước Mỹ La tinh, các nước châu Phi, các nước Châu Đại Dương (trừ Australia là thị trường lớn). Thứ tư,trong hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ buôn bán với Việt Nam, thì: Việt Nam đã có vị thế xuất siêu đối với 159 nước và vùng lãnh thổ, trong đó xuất siêu lớn là Mỹ, Australia, Anh, Philippines, Đức, Bỉ,... Việt Nam còn ở vị thế nhập siêu đối với 47 nước và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Thụy Sĩ, Ấn Độ, Kuwait,... Theo đó, thì nhập siêu của Việt Nam chủ yếu là ở các thị trường gần, chưa phải là nơi có công nghệ nguồn; còn xuất siêu của Việt Nam lại chủ yếu là ở các thị trường xa, thị trường có công nghệ nguồn.
  10. - 10- Nhóm 2- kinh tế quốc tế CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG, CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM. I: Thực trạng ngành xuất khẩu dệt may Việt Nam: Việt Nam được đánh giá là nước đứng đầu thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu dệt may. Cũng như nhiều mặt hàng xuất khẩu đang biến động trên thế giới thì dệt may Việt Nam cũng chịu nhiều tác động từ phía các bạn hàng khó tính. Hãy cùng nhìn vào thực trạng dệt may Việt Nam: Từ tháng 3 năm 2007 Việt Nam bắt đầu thực hiện các cam kết với WTO.Một vấn đề đặt ra là khi cắt giảm thuế nhập khẩu và bỏ hạn ngạch, dệt may Việt Nam liệu có bất lợi trong cạnh tranh?. Theo Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam, trong toàn bộ biểu thuế gồm 10.689 dòng thuế, Việt Nam sẽ cắt giảm khoảng 3.800 dòng, chiếm 34,5% số dòng thuế của biểu thuế. Với nhóm hàng dệt - may: nhóm hàng xơ, sợi, thuế suất giảm từ 20% xuống 5%; nhóm hàng vải, thuế suất từ 40% xuống 12%; nhóm quần áo và đồ may sẵn giảm từ 50% xuống 20%... Việc cắt giảm thuế nhập khẩu như trên cùng với “tự do hóa hạn ngạch”, đã làm cho dệt may Việt Nam gặp khó khi cạnh tranh với các sản phẩm dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc... tràn vào. Hàng dệt may Việt Nam từ đầu năm 2007 tuy có được lợi thế trên thị trường Hoa Kỳ và EU, nhưng lại bất lợi trên thị trường khu vực và ngay trên sân nhà. Theo báo cáo của Hiệp hội dệt may Việt Nam, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 5,834 tỷ USD, trong đó vào thị
  11. - 11- Nhóm 2- kinh tế quốc tế trường Hoa Kỳ đạt 3,044 tỷ USD (chiếm 52%), EU - 1,243 tỷ USD (chiếm 21%), Nhật Bản - 628 triệu USD (chiếm 11%), ASEAN - 107 triệu USD (chiếm 1,8%)... trong khi đó tại thị trường nội địa hàng dệt may Việt Nam chỉ chiếm 7% tổng mức bán lẻ (1,8 tỷ USD). Như vậy trên thị trường khu vực ASEAN, đặc biệt là thị trường nội địa, hàng dệt may Việt Nam đã lâm vào tình thế “bỏ trống sân nhà”. Cũng theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, năm 2006 xuất khẩu của dệt may đạt 5,834 tỷ USD, thì nhập khẩu vải, sợi, bông, phụ liệu... đã ở mức 5 tỷ USD. Chênh lệch chỉ là 0,8 tỷ USD. Mức chênh lệch này chỉ là lấy công làm lãi, vì ngành dệt may Việt Nam có tới 2 triệu lao động (chiếm 24% số lao động công nghiệp) trong 2000 doanh nghiệp dệt may và chưa hạch toán chi tiết chi phí khấu hao máy, thiết bị, nhà xưởng, đất đai... do đó hiệu quả của dệt may Việt Nam cần được đánh giá khách quan và chính xác. Mặc dù hiện nay Việt Nam đang được xếp hạng ở mức 16/153 nước xuất khẩu dệt may của thế giới; Kim ngạch xuất khẩu được đánh giá là lớn, nhưng lợi nhuận ròng đem lại là rất thấp.Thực tế cho thấy Việt Nam chưa chú trọng đầu tư vùng nguyên liệu cho công nghiệp dệt, mặc dù Việt Nam có điều kiện để phát triển bông xơ, dâu tằm, đay gai... Mặt khác, Việt Nam cũng chưa đầu tư phát triển ngành cơ khí với mục tiêu nội địa hóa những thiết bị cho công nghiệp dệt may; màu nhuộm và hóa chất khác... dệt may phải sử dụng thường xuyên với khối lượng lớn, nhưng chưa được đầu tư đúng mức để nghiên cứu sản xuất. Do đó nguyên liệu, phụ kiện, hóa chất... và hầu hết máy thiết bị cho dệt may của Việt Nam đều gần như phải trông chờ vào nguồn nhập ngoại. Một vài số liệu cụ thể cho thấy: bông xơ sản xuất trong nước mới đảm bảo 5% nhu cầu, sơ sợi tổng hợp - 30%; vải cho công nghiệp may phải nhập 52%, nguyên phụ liệu nhập 34%... hơn thế nữa ngay cả nhiều mẫu mã thiết kế cũng phải nhập ngoại! Vì vậy mà Việt Nam đang trở thành một thị trường hấp dẫn đối với các nước cung cấp nguyên liệu, thiết bị và dịch vụ dệt may trong khu vực và thế giới. Đồng thời, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang là những đơn vị gia công lớn cho các công ty nước ngoài. Một thực tế hiện nay, phần lớn các sản phẩm dệt may xuất khẩu làm theo đơn đặt hàng, hoặc mua lại mẫu mã thiết kế của nước ngoài, gia công cho các đối tác. Chưa chủ động trong nghiên cứu thị trường và thiết kế các mẫu mã thời trang theo thị hiếu của người tiêu dùng, hàng bán nội địa phần lớn vẫn sản xuất theo mẫu “truyền thống”. Do đó, hàng dệt may Việt Nam không những không hướng dẫn được tiêu dùng, mà thị phần nội địa bị co hẹp dần bởi hàng dệt may nhập khẩu. Thực trạng này không phải hoàn toàn là lỗi
  12. - 12- Nhóm 2- kinh tế quốc tế của ngành Mỹ thuật công nghiệp, mà chủ yếu ở định hướng chiến lược đầu tư.Hiệp hội dệt may Việt Nam, đúng hơn là ngành dệt may Việt Nam và Bộ công nghiệp đang thiếu (hay chưa coi trọng) chiến lược này. Bên cạnh đó, các chính sách và biện pháp trợ giúp quy hoạch vùng nguyên liệu, tạo giống mới về bông, đay,gai…tạo khả năng kháng bệnh tốt, cho năng suất cao, phù hợp với điều kiện vùng miền Việt Nam, chưa đặt ra cụ thể.Cơ sở hạ tầng cho các vùng nguyên liệu cũng trong điều kiện tương tự. Việc hỗ trợ kỹ thuật về chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho dệt may, đáng lẽ phải được thực hiện mạnh hơn nhưng cho đến nay Bộ Khoa học và Công nghệ mới đang triển khai xây dựng Chương trình hỗ trợ cụ thể cho từng lĩnh vực. Động thái này ảnh hưởng không nhỏ đối với ngành dệt may. Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia trong WTO, ngành dệt may Việt Nam phải chịu sức ép của những điều kiện cạnh tranh này. Tuy nhiên, do hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường Hoa Kỳ và EU với khối lượng lớn, nên cơ chế giám sát của họ đối với dệt may Việt Nam, sẽ chặt chẽ hơn. Để giảm thiểu sự bất lợi này, Ngành dệt may nên đề xuất những chính sách và biện pháp trợ giúp cho các doanh nghiệp của mình để trình Chính phủ. Có như vậy thì ngành dệt may Việt Nam nói chung và Tập đoàn dệt may mới có đủ những điều kiện để phát triển vững chắc. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, nếu không có sự cải cách triệt để, Tập đoàn dệt may Việt Nam trong tương lai gần vẫn chỉ là “số cộng” của các doanh nghiệp. Hiện nay, toàn ngành dệt may có khoảng 2.000 doanh nghiệp, trong đó có 27 doanh nghiệp Nhà nước, 1400 công ty cổ phần và tư nhân, khoảng 450 doanh nghiệp FDI. Theo Quyết định 314/2005/QĐ-TTg, ngày 02/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án thí điểm thành lập Tập đoàn dệt may, trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại Tổng công ty dệt may và các đơn vị thành viên, nhằm tạo ra một tập đoàn kinh tế mạnh. Về nguyên tắc dệt may Việt Nam đã xây dựng tập đoàn (mặc dù đang thí điểm) thì tất cả các doanh nghiệp dệt may và các tổ chức sản xuất - kinh doanh liên quan đến dệt may, như sản xuất nguyên liệu, chế tạo, sản xuất phụ kiện...đều phụ thuộc và bị chi phối bởi Tập đoàn Dệt may về sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu và cơ chế chính sách tài chính. Tuy nhiên, kể từ khi Quyết định được ban hành đến nay, Tập đoàn Dệt may Việt Nam và rộng hơn là Ngành dệt may Việt Nam chuyển động quá chậm, độ liên kết trong ngành và đặc biệt giữa các đơn vị trong Tập đoàn còn thiếu chặt chẽ. Chỉ còn 3 năm nữa (đến
  13. - 13- Nhóm 2- kinh tế quốc tế 2010) Ngành Dệt may phải thực hiện xong 8 chương trình trọng điểm quốc gia, trong đó có chương trình sản xuất nguyên liệu bông xơ. Nhưng cho đến nay dự án chưa triển khai được bao nhiêu và nhập khẩu nguyên liệu vẫn tiếp tục gia tăng. Đặc biệt trong Tập đoàn Dệt may gồm tuyệt đại bộ phận là các công ty dệt và may, hầu như không có đơn vị sản xuất nguyên liệu. Hơn nữa các loại may và phụ kiện cho dệt may cũng không có chương trình phát triển cụ thể. Nếu hai chương trình này (chương trình sản xuất nguyên liệu và chương trình sản xuất máy và phụ kiện) và những chương trình khác mà chính phủ đã duyệt, không được đầu tư, phát triển và thực hiện hiệu quả thì Tập đoàn Dệt may Việt Nam trong tương lai gần chỉ là đơn vị “thu mua tổng hợp” các sản phẩm dệt may được gia công bởi các doanh nghiệp trong ngành để xuất khẩu. Mục tiêu hướng tới Mục tiêu đặt ra của ngành dệt may Việt Nam đến 2010 doanh thu đạt từ 13 - 15 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt từ 10 - 12 tỷ USD. Để đạt được kế hoạch này, Ngành dệt may dự kiến sẽ phá thế gia công hiện nay, thực hiện một chu trình khép kín: “Thời trang – Công nghệ - Thương hiệu”, với 8 chương trình trọng điểm quốc gia. Riêng Tập đoàn Dệt may sẽ thực hiện 15 dự án lớn với tổng vốn đầu tư khoảng 16.000 tỷ đổng (tương đương với 1 tỷ USD). Đồng thời về mặt tổ chức bộ máy, năm 2007 Tập đoàn dệt may sẽ cổ phần hoá tất cả các đơn vị thành viên. Đây là những mục tiêu chiến lược, nếu thực hiện thành công sẽ tạo ra sự đột phá cho ngành dệt may Việt Nam.Tuy nhiên những mục tiêu này cần phải có những giải pháp khả thi. Vì vậy những vấn đề đặt ra đổi với Ngành dệt nay Việt Nam mà chủ yếu là đối với Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) trong tương lai gần sẽ là: Thứ nhất, đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu bông xơ tập trung lớn, đồng thời có chính sách tài chính thích hợp khuyến khích phát triển các vùng trồng bông, đay, gai,... không tập trung, để từ năm 2015 đảm bảo 60 - 65% nguyên liệu cho dệt và tiến đến xuất khẩu bông xơ. Đặc biệt cần xây dựng các chính sách và biện pháp trợ giúp “ngoài vùng cấm của WTO” đối với các vùng nguyên liệu, tạo điều kiện để các vùng nguyên liệu phục vụ dệt may Việt Nam phát triển vững chắc. Thứ hai, xây dựng trung tâm công nghiệp có khả năng chế tạo máy, thiết bị và sản xuất các phụ kiện cho Ngành dệt may, để đến 2015 nội địa hoá 50% và sau đó 100% các phụ kiện cho dệt may. Thứ ba, xây dựng trung tâm nghiên cứu thời trang để trước hết giảm chi phí mua thiết kế mẫu mã của nước ngoài.Sau đó, với thị trường nội địa hướng dẫn được tiêu dùng, để nâng thị phần bán lẻ sản phẩm dệt may trên sân nhà lên ít nhất 85% vào năm 2015 (hiện nay mới chỉ chiếm 7% - 1,8 tỷ USD). Thứ tư đào tạo và bồi dường nguồn nhân lực mang thương hiệu dệt may Việt Nam. Trước hết là đầu tư vào các trường dạy nghề, để công nhân và cán bộ quản lý dệt may được đào tạo nghề chu đáo. Sau đó, là đảm bảo mức thu nhập hợp lý cho công nhân so với mặt bằng giá cả hiện nay (lương công nhân dệt may của Việt
  14. - 14- Nhóm 2- kinh tế quốc tế Nam vào loại thấp, kể cả doanh nghiệp FDI so với các ngành công nghiệp tương đồng) đồng thời chú trọng đến đời sống, phúc lợi cho họ, như nhà ở, phương tiện đi lại, văn hoá thể thao,... tạo sự gắn bó lâu dài bền vững của công nhân với doanh nghiệp. Thứ năm, tạo nguồn tài chính đủ lớn, ổn định vững chắc đầu tư có hiệu quả để phát triển Ngành Dệt may Việt Nam. Nếu không có vốn đầu tư, thì các dự án cũng chỉ dừng ở kế hoạch triển vọng. Do đó tài chính là mấu chốt quyết định tính khả thi của những kế hoạch đã được vạch ra. Từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo,nhu cầu vốn đầu tư cho dệt may Việt Nam là rất lớn.Nguồn vốn này được huy động từ đâu? Một là, nếu các doanh nghiệp thuộc Vinatex đã hoàn thành cổ phần hoá, thì có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam, hoặc một số thị trường chứng khoán quốc tế. Hai là, xin phép Chính phủ phát hành trái phiếu ngắn hạn và trung hạn với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm của Ngân hàng thương mại Nhà nước, kèm theo một số ưu đãi khuyến khích của Virlatex. Ba là, lập một số dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài về các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn hoặc công nghệ hiện đại, như: sản xuất máy nguyên liệu, phụ kiện ,... cho dệt may. Bốn là, lập đề án trình Chính phủ để liên kết với các Ngân hàng thương mại lớn, thành lập Tập đoàn Tài chính - Dệt may Việt Nam, để giải quyết nhu cầu vốn cho tương lai phát triển lâu dài của dệt may Việt Nam. Với phương châm đa dạng hoá nguồn vốn và với cơ chế tài chính phù hợp, chắc chắn Ngành dệt may Việt Nam sẽ có đủ vốn để hoàn thành các mục tiêu nêu trên. II: Cơ hội đối với ngành xuất khẩu dệt may Việt Nam: Là mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu, hàng dệt may của nước ta đang dần chiếm lĩnh các thị trường quốc tế. Sau mức suy giảm nhẹ (0,6% so với năm trước) của năm 2009, xuất khẩu nhóm hàng dệt may đang bứt phá, hứa hẹn một năm tăng trưởng tốt với trị giá đạt 3,86 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2010, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2009, chiếm gần 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và cao hơn so với nhóm hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn thứ 2 (là dầu thô) tới gần 1,7 tỷ USD.
  15. - 15- Nhóm 2- kinh tế quốc tế Số liệu thống kê hải quan nhiều năm qua cho thấy, chu kỳ xuất khẩu của hàng dệt may thường bắt đầu tăng trưởng vào quý 2 và đạt mức cao nhất vào quý 3. Trong 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu hàng dệt may đạt trung bình là 771 triệu USD/tháng. Với mức tăng như hiện nay, cùng với tính chu kỳ xuất khẩu, chúng ta có thể kỳ vọng hàng dệt may sẽ đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD/tháng trong một vài tháng tới. Tuy nhiên để đạt được kế hoạch xuất khẩu 10,5 tỷ USD trong năm 2010 thì trong 7 tháng còn lại của năm, trung bình mỗi tháng xuất khẩu dệt may phải đạt gần 950 triệu USD/tháng. Hoa kỳ, đối tác lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam Số liệu thống kê hải quan trong nhiều năm qua cũng cho thấy, Hoa Kỳ luôn là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Xuất khẩu nhóm hàng này sang Hoa kỳ luôn chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước và khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước sang thị trường này. EU và Nhật Bản cũng là hai thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam với tỷ trọng lần lượt là 18% và 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước trong năm 2009. Tuy nhiên, Trong 3 thị trường dẫn đầu này, thì Hoa Kỳ vẫn là thị trường mà xuất khẩu dệt may của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao nhất, trung bình là 19%/năm trong giai đoạn 2005-2009, thị trường EU và Nhật Bản có tốc độ tăng bình quân lần lượt là 17% và 12%. Trong 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu nhóm hàng này sang Hoa kỳ đạt 2,22 tỷ USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ 2009 (tăng 426 triệu USD về số tuyệt đối). Xuất khẩu ngành hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng Mặc dù là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam từ năm 2009, nhưng so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả thế giới thì chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé (khoảng 1,6% năm 2009 theo www.trademap.org).
  16. - 16- Nhóm 2- kinh tế quốc tế Cũng theo thống kê của www.trademap.org , kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ năm 2009 lên tới 86,7 tỷ USD và xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này cũng chỉ chiếm 5,8% trị giá nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ. Số liệu thống kê trên đây cho thấy thị trường dệt may thế giới là rất lớn và cơ hội cho hàng dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng để phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển ngành dệt may của nước ta bên cạnh những thuận lợi thì cũng gặp phải nhiều khó khăn khi nguồn nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da, giày phần lớn là phải nhập khẩu. Số liệu thống kê hải quan mới nhất cho thấy, trong 5 tháng đầu năm 2010 tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày là 3,7 tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó, riêng vải các loại nhập khẩu đã là 2 tỷ USD, tăng 23,5%. Thời gian gần đây nhiều doanh nghiệp dệt may than phiền là càng xuất nhiều thì nguy cơ thua lỗ càng lớn cũng là ở nguyên nhân thiếu sự chủ động với nguyên liệu đầu vào. Phần lớn các phụ kiện của công nghiệp dệt may sản xuất trong nước chưa đáp ứng được đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng cần thiết của sản phẩm xuất khẩu. Giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm xuất khẩu dệt may của Việt Nam còn rất thấp.Việt Nam trong thời gian vừa qua đã phải đối mặt với tình trạng rất vất vả để đàm phán mở rộng thị trường nhưng trong khi đó phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước thứ ba để sản xuất. Công nghiệp thiết kế mẫu mã vẫn còn lạc hậu, chủ yếu là gia công và làm thuê theo đơn đặt hàng của nước ngoài. Vì vậy, để ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững, việc phát triển công nghiệp phụ trợ với hàng dệt may là vấn đề cấp bách nhất vì trong tương lai, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các thị trường chính đã đạt tới ngưỡng có thể bị xem xét trong các vụ kiện trợ cấp, bán phá giá…Sự phát triển dựa trên giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm thay vì chỉ chú trọng chạy theo phát triển kim ngạch
  17. - 17- Nhóm 2- kinh tế quốc tế như trong thời gian vừa qua sẽ biến dệt may thành mặt hàng có sức cạnh tranh cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, đem lại nguồn ngoại tệ quý giá cho đất nước. III: Thách thức đối với ngành xuất khẩu dệt may Việt Nam: Thời kì trước khi ra nhập WTO: Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... Hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực. Với hơn 1000 nhà máy dệt may,thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Tuy đã nhập bổ sung, thay thế máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt, thì cũng chỉ đáp ứng được rất ít công suất dệt. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất,đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài... Ngành dệt may Việt Nam tuy đã có nhiều yếu tố thuận lợi để tạo đà có tiến trình hội nhập sắp tới như Quota thị trường Eu được tăng 30%, bước đầu mở được
  18. - 18- Nhóm 2- kinh tế quốc tế thị trường Mỹ và thị trường vùng Trung Cận Đông, châu Phi; kinh tế Nhật Bản đang hồi phục khiến cho thị trường này tiêu thụ hàng dệt may Việt Nam tăng hơn trước. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may cũng gặp không ít khó khăn do giá sản phẩm giảm liên tục. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu lại tăng; đặc biệt thị trường phi quota, trong đó thị trường Đông Âu giảm mạnh từ giữa năm..... Trong các mặt hàng may mặc xuất khẩu vào Eu, mới chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm như áo jacket,sơ mi...còn các mặt hàng có giá trị, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn như bộ complet hay các loại áo sơ mi cao cấp thì ít doanh nghiệp có thể sản xuất được. Do đó, trên thực tế, nhiều mặt hàng có hạn ngạch nhưng lại chưa có doanh nghiệp xuất khẩu. Vấn đề bức xúc hiện nay là hàng vải sợi,may mặc từ nước ngoài tràn vào từ nhiều nguồn (hàng trốn lậu thuế, hàng cũ) giá rất rẻ đã làm cho sản xuất trong nước bị ảnh hưởng. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước chưa có tổ chức, để thả nổi cho một số tư thương làm giả nhãn mác một số công ty có uy tín. Bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa tạo được các kênh tiêu thụ ngay ở thị trường trong nước. Do vậy, để các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam làm chủ được thị trường nội địa không có biện pháp nào khác ngoài việc phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, bán buôn và bán lẻ. Trong khi chờ Chính phủ phê duyệt Chiến lược tăng tốc phát triển đến năm 2010, ngành Dệt May Việt Nam đã đề ra 4 giải pháp lớn phải đồng bộ thực hiện, đó là: đổi mới công nghệ, ổn định chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản xuất để tăng sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Đầu tư mở rộng quy mô sản xuất từ khâu may đến khâu sản xuất vải và phụ liệu may, bông xơ sợi cho sản xuất vải; trong đó, đầu tư cho các nhà máy may hiện đại may hàng Fob (xuất khẩu trực tiếp) ở trung tâm hai thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; mở rộng mạng lưới may gia công ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Cùng với việc quy tụ các nhà máy mới vào 10 cụm công nghiệp dệt là phát triển mạnh vùng bông ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, ngành sẽ đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, xây dựng mạng lưới bán buôn bán lẻ trong nước và các đại diện thương mại
  19. - 19- Nhóm 2- kinh tế quốc tế quốc tế; áp dụng ngay phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử và cuối cùng là đào tạo nguồn nhân lực. Thời kỳ sau khi ra nhập WTO: Dệt may đã chịu nhiều tác động sau sự kiện Việt Nam là thành viên của WTO. Không những vậy,từ 1/1/2009, khi Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các DN nước ngoài thì sức ép cạnh tranh ngày càng lớn. Thách thức cả trong lẫn ngoài: Gia nhập WTO từ 11/1/2007, Việt Nam có điều kiện hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài.Nhưng đổi lại, Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế và các hàng rào bảo hộ khác, minh bạch hóa chính sách. Và thực tế đó đã khiến cho các doanh nghiệp dệt may trong nước gặp không ít khó khăn. Tại hội thảo “Phát triển ngành dệt may Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO và những giải pháp để tăng tốc”, ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội dệt may Việt Nam cho biết: “Do phải cạnh tranh với hàng ngoại và mức thuế nhập khẩu dệt may đã giảm 2/3 xuống còn 5 - 20%, trong khi chúng ta chưa nhận thức hết được những thách thức, áp lực cạnh tranh khi hội nhập, dẫn đến việc thiếu chuẩn bị, thiếu phương án khi sản xuất kinh doanh khó khăn. Đặc biệt từ 1/1/2009, khi Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các DN nước ngoài thì sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn.” Đầu tư nước ngoài tăng nhanh tại TPHCM và các khu công nghiệp dẫn đến việc thiếu hụt nguồn lao động, nhất là lao động có kỹ năng tay nghề cao. Tình trạng chảy máu chất xám, “săn đầu người” diễn ra khá phổ biến và các DN đang rất lúng túng trong việc duy trì đội ngũ các quản lý, kỹ thuật giỏi của mình. Các cuộc đình công trong ngành dệt may đặc biệt là tại các khu công nghiệp tập trung và các thành phố lớn liên tục xảy ra, gây đảo lộn kế hoạch sản xuất giao hàng của nhiều DN, tạo ra hình ảnh xuất đối với các nhà đầu tư kinh doanh thế giới. “Tình hình này nếu không được cải thiện thì dệt may khó có thể giữ được mức tăng trưởng về sản xuất và xuất khẩu trong những năm tới. Đây là nguy cơ lớn nhất ảnh hưởng đến khả năng phát triển của ngành” - ông Ân nói.
  20. - 20- Nhóm 2- kinh tế quốc tế Khó khăn lớn nhất đối với các DN xuất khẩu hàng dệt may hiện nay là cơ chế của Hoa Kỳ giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nguy cơ tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá. Đây là thị trường chiếm tỷ trọng khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm. “Dù đã hai lần công bố kết quả là không tìm thấy Việt Nam chống bán phá giá vào Mỹ song có khả năng cơ chế này tiếp tục được thực hiện thêm ít nhất 1 năm nữa gây lo ngại cho các nhà nhập khẩu bán lẻ Hoa Kỳ cũng như các nhà sản xuất Việt Nam do rủi ro cao” - đại diện Hiệp hội dệt may cho hay. Bà Nguyễn Thị Hồng Tín, Trưởng ban nghiên cứu Xúc tiến thị trường, Tập đoàn dệt may Việt Nam còn cảnh báo thêm: “Thị trường tài chính và kinh tế Mỹ đang suy thoái, sức mua của người dân giảm trong đó tiêu dùng và hàng dệt may giảm đáng kể. Hơn nữa, hàng dệt may vào Mỹ cũng sẽ khó khăn hơn do Ủy ban quốc hội Mỹ vừa thông qua luật mới về an toàn sản phẩm nhập khẩu vào Mỹ và có hiệu lực từ tháng 2/2009”. Ngành dệt may Việt Nam sẽ được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư, dỡ bỏ hạn ngạch nhưng phải đối diện với nguy cơ bị ép nếu Mỹ đặt chế độ giám sát chống bán phá giá đặc biệt ngay khi Việt Nam chính thức bước vào cửa WTO. Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã đưa ra những nhận định thẳng thắn về khả năng hội nhập của ngành dệt may Việt Nam khi vào WTO. Có vẻ như ngành dệt may đang chịu nhiều sức ép hơn cả, khi cánh cửa WTO mở với Việt Nam; bởi để chuẩn bị vào WTO, Chính phủ đã hủy quyết định 55 - một quyết định hỗ trợ đầu tư cho ngành dệt may Việt Nam tăng tốc? Đây không phải là khó khăn lớn nhất.Vì chương trình hỗ trợ thực hiện trong 4 năm,nhưng đến thời điểm hủy chương trình cũng chỉ mới thực hiện được 20%. Nguy cơ lớn nhất, trực diện nhất mà chúng tôi lo sẽ phải đối mặt, đó là phía Mỹ đặt chế độ giám sát chống bán phá giá đặc biệt với hàng dệt may Việt Nam. Theo các nhà nhập khẩu, để cản trở thương mại, có 3 giải pháp áp dụng: Chế độ tự vệ, chế độ quota và chế độ chống bán phá giá. Mà chế độ sau cùng này là tệ hại nhất, vì trong lịch sử, khi Mỹ thực hiện chế độ chống bán phá giá với mặt hàng nào, lập tức mặt hàng đó mất tính cạnh tranh, không thể vào thị trường Mỹ được (như thép của Nhật, Hàn Quốc...); thậm chí giết chết cả một ngành sản xuất chỉ trong một thời gian ngắn (như mặt hàng áo len của Đài Loan...). Nếu Mỹ áp dụng biện pháp này với hàng dệt may Việt Nam,kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ giảm hẳn một nửa, vì các thị trường khác chưa thể bù vào ngay được.Trong điều kiện đối xử bình thường, ngành dệt may sẽ có 3 cái lợi: Thứ nhất,xuất khẩu không bị khống chế quota. Thứ hai,một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế nhập khẩu từ Việt Nam xuống bình thường. Thứ ba,được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư được cải thiện. Nhưng cũng có 3 thách thức:
nguon tai.lieu . vn