Xem mẫu

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM
KHI GIA NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
NCS. Nguyễn Thị Tâm
Bộ Lao động Thương binh & Xã hội
Tóm tắt
Sau khi trình bày về quá trình hình thành và mục tiêu phát triển của Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC), hành động của Việt Nam và ASEAN đang thực hiện trong AEC,
tác giả đã phân tích sâu những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập AEC. Xét về
cơ hội, Việt Nam có được một thị trường hàng hoá và dịch vụ rộng lớn hơn,
Việt Nam cũng sẽ có cơ hội thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn, đặc biệt là từ
các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore, Indonesia và nâng cao năng
lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng
lực cạnh tranh. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội là những thách thức không nhỏ do hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ nhỏ bé về quy mô mà còn cả công nghệ. Thời
điểm cộng đồng ASEAN bắt đầu có hiệu lực vào năm 2015, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu từ ASEAN, đầu
tư của các nước ASEAN. Một số ngành sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa.
Từ khoá: Cộng đồng kinh tế ASEAN, AEC, Việt Nam
Abstract
After an overivew on the process of formation, objectives of the ASEAN Economic
Community (AEC), and the actions of Vietnam and ASEAN in implementing the AEC, the
author has in-depth analysis of the opportunities and challenges Vietnam joined the AEC.
In terms of opportunities, Vietnam can have access to a broader good and service
market. Vietnam will have the opportunity to attract more foreign investment, especially
from countries with higher level economic development such as Singapore and Indonesia
and raise competitiveness of Vietnam's exports. However, besides the opportunties, there
are big challenges. Most of Vietnam's enterprises are small not only in size but also in
technology. When AEC is established in 2015, Vietnam's enterprises will face
competition from imported goods and services, and investment from ASEAN countries.
Some industries will have to narrow production and even shut down.
Key words: ASEAN Economic Commutinty, AEC, Vietnam
1. Giới thiệu về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập từ năm 1967, hiện tại
bao gồm 10 nước: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Hiệp hội ASEAN dựa trên 03 trụ cột chính: an ninh
chính trị; kinh tế; văn hóa xã hội. Kinh nghiệm thực tế từ cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Á năm 1997/1998, cộng thêm sự nổi lên của các nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ
đã khiến các nước ASEAN quyết tâm tạo ra một cộng đồng hợp tác kinh tế mạnh mẽ, gắn
1

kết hơn. Hội nghị thượng đỉnh Hiệp hội ASEAN năm 1997 tại Kualar Lumpur, Malaysia
đã ra Tuyên bố về Tầm nhìn ASEAN 2020 với ý tưởng biến ASEAN thành một khu vực
phát triển ổn định, hội nhập và cạnh tranh, thiết lập một cộng đồng kinh tế khu vực vào
năm 2020. Vào năm 2003, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Bali đã quyết đinh đẩy nhanh
quá trình hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN (Asean Economic Community - AEC),
thay vì thời hạn 2020, các nước quyết định hình thành AEC vào cuối năm 2015. Năm
2007 thông qua Kế hoạch AEC 2007 đặt ra các thời hạn rõ ràng cụ thể cho các nước
thành viên ASEAN thực hiện để hình thành AEC, với mục đích hợp nhất các quốc gia
thành viên thành một cộng đồng kinh tế chung vào ngày 31/12/2015. Không giống như
EU, ASEAN không tạo lập các tổ chức quản lý trung ương như Ủy ban Liên minh châu
Âu EU hay Ngân hàng Trung ương châu Âu mà sẽ tập trung vào việc xóa bỏ các rào cản
kinh doanh, thương mại.
Kế hoạch AEC bao gồm 04 trụ cột (04 nội dung then chốt): tạo lập một thị trường
và cơ sở sản xuất thống nhất; tạo lập một khu vực kinh tế cạnh tranh cao; thúc đẩy sự
phát triển kinh tế công bằng; xây dựng một khu vực hội nhập hoàn toàn với nền kinh tế
toàn cầu. Tóm lại, AEC sẽ biến ASEAN thành một khu vực với sự tự do dịch chuyển
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có kỹ năng và tự do dịch chuyển dòng vốn.
Liên quan đến việc tạo lập một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, các quốc
gia thành viên ASEAN đang tập trung thực hiện giảm và tiến tới xóa bỏ các rào cản để
đảm bảo dòng chảy hàng hóa, dịch vụ và vốn trở nên tự do giữa các nước ASEAN. Đối
với lĩnh vực dịch vụ tài chính, các quốc gia thành viên đã cam kết tự do hóa mạnh mẽ,
xóa bỏ các hạn chế trong các ngành ngân hàng, bảo hiểm và các thị trường vốn vào năm
2015. Điều này bao hàm tự do hóa 4 phương thức cung cấp thương mại dịch vụ qua biên
giới như được định nghĩa trong WTO - là cung cấp thương mại dịch vụ qua biên giới
(phương thức 1), Tiêu dùng (sử dụng dịch vụ) ở nước ngoài (phương thức 2), Hiện diện
thương mại (Phương thức 3) và Tự do dịch chuyển cá nhân (Phương thức 4) .
2. Hành động của Việt Nam & ASEAN để thực hiện hội nhập AEC
Hiện nay, trong khối ASEAN, Việt Nam được đánh giá là một trong bốn thành
viên có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong Lộ trình tổng thể thực hiện AEC. Việt
Nam đã tham gia hợp tác một cách toàn diện với các nước ASEAN từ các lĩnh vực truyền
thống như: thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn
thông, cho đến các lĩnh vực mới như: bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, bảo vệ
người tiêu dùng… Cho tới nay, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho hơn 10 nghìn
dòng thuế xuống mức 0 - 5% theo ATIGA, chiếm khoảng 98% số dòng thuế trong biểu
thuế.
Về thương mại hàng hoá, ASEAN đã sửa đổi, bổ bổ sung các hiệp định kinh tế
ASEAN, trong đó Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) được ký kết ngày
26/02/2009 tại Thái Lan. Nghị định thư về sửa đổi một số Hiệp định kinh tế ASEAN liên
quan đến thương mại hàng hóa đã được ký ngày 08/3/2013 trong dịp Hội nghị AEM
Retreat lần thứ 19 tại Hà Nội. Các nước cũng đang trong quá trình thảo luận về các vấn
đề hàng rào phi thuế quan trong ASEAN và 7 nước thành viên (gồm Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) đã thử nghiệm thành công kết
nối cổng ASW trong cơ chế hải quan một cửa ASEAN.
Về thương mại dịch vụ, ASEAN đã có những thỏa thuận giúp các bên sớm hoàn
tất các thủ tục cần thiết để Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân có hiệu lực, trên cơ
2

sở đó tạo thuận lợi cho việc di chuyển của các cá nhân tham gia vào các hoạt động
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư trong khu vực. Bên cạnh đó, việc
thực thi Kế hoạch Chiến lược Du lịch ASEAN 2011 - 2015 cũng đang được tích cực triển
khai nhằm tạo thuận lợi cho di chuyển của những người làm du lịch thông qua các thỏa
thuận công nhận lẫn nhau.
Về đầu tư, ASEAN đang trong giai đoạn thực thi Hiệp định ACIA, trong đó quá
trình rà soát lẫn nhau đã được triển khai nhằm giám sát việc xóa bỏ các hạn chế/trở ngại
hoặc cải thiện các biện pháp theo Kế hoạch tổng thể về xây dựng AEC nhằm thúc đẩy
ASEAN thành một khu vực thu hút đầu tư thống nhất.
Về quyền sở hữu trí tuệ, việc thực thi kế hoạch làm việc với 28 sáng kiến và 5
mục tiêu chiến lược trong Kế hoạch hành động IPR ASEAN 2012 - 2015 đã giúp nâng
cao tính pháp lý và chính sách trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến sở hữu trí
tuệ.
3. Những cơ hội khi gia nhập AEC của Việt Nam
Cơ hội có được một thị trường rộng lớn hơn
ASEAN có tổng GDP trên 2,7 nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung bình 5%-6% hàng
năm. Dân số trên 600 triệu người, với cơ cấu dân số tương đối trẻ. Thu nhập bình quân
đầu người trên 4.500 USD/người/năm. Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2012 đạt 110 tỷ
USD. Tổng giá trị giao dịch thương mại 2,5 nghìn tỷ USD (*). AEC với việc tự do hóa
dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động
kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Đầu tư nước ngoài trực tiếp gia tăng và hoạt
động kinh tế ở khu vực đương nhiên sẽ mang lại việc gia tăng nhu cầu bảo hiểm ở Đông
Nam Á. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
nhiều hơn ở các nước khác trong khu vực ASEAN… Đây là cơ hội tốt để các doanh
nghiệp Việt Nam nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường. Mặt khác, AEC tạo lập một khu
vực thị trường và sản xuất thống nhất, dẫn đến kinh tế của nhiều nước trở nên phồn vinh
hơn, dẫn đến tăng thu nhập và hình thành nên một lượng mới người tiêu dùng trung lưu
với thu nhập cao - cũng là đối tượng khách hàng rất tiềm năng của các doanh nghiệp.
Cơ hội mở rộng xuất khẩu
Khi tham gia vào AEC, thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam sẽ ngày
càng mở rộng. Thêm vào đó, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài hơn, đặc biệt là từ các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore,
Indonesia...
“Điều quan trọng nhất là việc tham gia sâu rộng vào AEC sẽ giúp Việt Nam tăng
cường cải cách nền kinh tế ở trong nước theo những tiêu chuẩn của hội nhập, giúp cho
nền kinh tế Việt Nam phát triển hiệu quả hơn, qua đó dần vượt qua những thách thức.”,
Theo Ông Nguyễn Hồng Sơn - Hiệu trường Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
AEC giúp tăng trưởng xuất khẩu. ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng
hàng đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng
và xuất khẩu trong nhiều năm qua, vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ.
Với lợi thế là khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai chiều
Việt Nam và ASEAN năm 2013 đã tăng hơn 5 lần, chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất
3

nhập khẩu của cả nước. Giai đoạn 2002 - 2013, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình
của Việt Nam sang ASEAN đạt 28,4%/năm và nhập khẩu đạt 27%/năm.Từ năm 2010,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia, Indonexia, Philippines, Thái Lan,
Singapore đều đạt trên 1 tỷ USD.
Cơ hội mở ra cho thấy khi AEC đi vào hoạt động sẽ tạo ra một thị trường đơn
nhất, khai thác được tối đa các hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại, thuế suất lưu
thông hàng hoá giữa các nước trong khu vực sẽ được cắt giảm dần về 0%. Đặc biệt trong
giai đoạn từ nay đến năm 2015 và những yêu cầu ngày càng cao đối với hàng xuất khẩu
sẽ là thách thức không nhỏ với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các
biện pháp về phòng vệ thương mại đang có xu hướng gia tăng. Vì vậy, giai đoạn 20142015 sẽ là “nước rút” để tiến đến mục tiêu xây dựng AEC với kỳ vọng ra đời vào cuối
năm 2015. Điều này khiến doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ
không thể chỉ bó hẹp tầm nhìn trong tỉnh, thành phố hay trong phạm vi quốc gia mà cần
phải mở rộng hơn tới toàn cầu. Thời gian qua, ASEAN liên tục thuộc nhóm các thị
trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Dẫn số liệu thống kê từ Cục Xuất Nhập khẩu
cho thấy cán cân thương mại của Việt Nam với khối ASEAN đã có sự thay đổi rõ rệt.
Nếu như năm 2011, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam sang khối các nước
ASEAN tương ứng là 13,5 tỷ USD và 20,9 tỷ USD thì con số này của năm 2013 là 18,4
tỷ USD và 21,3 tỷ USD. Điều này thể hiện khoảng cách giữa xuất và nhập của Việt Nam
đã được rút ngắn và con số xuất khẩu cũng tăng vọt. Riêng 6 tháng đầu năm 2014, kim
ngạch thương mại hai chiều ước đạt 20,45 tỷ USD, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2013
và chỉ đứng sau 2 thị trường lớn là Mỹ và EU.
Khi AEC hình thành, các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán hàng sang các nước
ASEAN gần như bán hàng trong nước. Đây là một trong những thuận lợi đối với việc lưu
chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp. Hơn nữa, các thủ tục xuất nhập khẩu sẽ đỡ rườm
rà hơn và việc cải cách thủ tục xuất xứ, tiến tới cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận
xuất xứ cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thông quan hàng hoá sang các
thị trường ASEAN.
Dự báo trước thềm AEC, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN sẽ tiếp tục tăng
trưởng ổn định nhờ được hưởng ưu đãi thuế quan với tổng số trên 99% dòng thuế của
ASEAN 6 là 0% theo Hiệp định ATIGA. Đây là thời điểm để các doanh nghiệp hết sức
linh hoạt, nhạy bén, sớm nhận diện và nắm bắt những lợi ích tiềm năng từ AEC để thúc
đẩy khả năng tăng quy mô kinh tế không chỉ khối thị trường này mà còn với các thị
trường khác; trong đó có các thị trường ASEAN đã ký các Hiệp định thương mại tự do
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand.
Theo bà Phạm Thị Hồng Thanh, hiện nay, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam
với các đối tác trong khu vực ASEAN giai đoạn 2003 - 2013 tăng trưởng đều qua các
năm, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 17,7%. Trong đó, xu hướng tăng trưởng xuất
khẩu, nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN trong giai đoạn 2003 - 2013 tương
đối giống với xu hướng tăng trưởng kim ngạch thương mại Việt Nam - ASEAN. Theo số
liệu thống kê năm 2013, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng truyền thống có thể kể đến
như: hàng dệt may đạt 330 triệu USD (tăng 23%), hàng thủy sản đạt 313 triệu USD (tăng
12,6%), gỗ và sản phẩm của gỗ đạt 73 triệu USD (tăng 34%). Các mặt hàng công nghiệp
tăng cao như: máy móc thiết bị và phụ tùng khác đạt giá trị xuất khẩu 801 triệu USD,
tăng 9%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 1,5 tỷ USD tăng 30%, điện thoại
các loại và linh kiện đạt 2,1 triệu USD, tăng 76%. Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt
4

Nam sang ASEAN những năm qua, có thể thấy hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và
tỷ trọng lớn nhất là dầu thô (thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40%) sau đó là gạo
(chiếm tỷ trọng trên 10%). Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN chủ yếu là nông sản, hải sản và khoáng sản thô. Những mặt hàng này tuy hầu hết
đều được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị
thấp, giá cả phụ thuộc vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn
định.
Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam
Khi AEC được thành lập, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường rộng lớn hơn.
Thêm vào đó, khi thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực
cạnh tranh. Theo quy định của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40%
được xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các
thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các ưu
đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị trường
khu vực.
Cơ hội thu hút các nguồn đầu tư
Cơ hội được trông đợi nhất, từ tất cả các nước ASEAN chứ không riêng gì Việt
Nam đó là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Bởi vì việc kết nối
và xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt chia cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn
ASEAN như một sân chơi chung, một công xưởng chung, ở đó có khối nguồn lực thống
nhất, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ.
AEC cũng sẽ giúp Việt Nam cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh từ thủ tục
hải quan, thủ tục hành chính cho tới việc tạo ra ưu đãi đầu tư cân bằng hơn. Thu hút đầu
tư nhiều hơn đồng nghĩa với quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh và tích cực
hơn, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp, tạo đà cho nền công nghiệp
Việt Nam hướng tới phát triển cân bằng với các quốc gia khác.
4. Những thách thức của Việt Nam khi gia nhập AEC
Một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam khi tham gia vào AEC là sự
chênh lệch về trình độ phát triển so với các nước ASEAN - 6, thể hiện cả ở quy mô vốn
của nền kinh tế, các doanh nghiệp, trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề lao động,…Thời
điểm cộng đồng ASEAN bắt đầu có hiệu lực vào năm 2015, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm, dịch vụ, đầu tư
của các nước ASEAN, đặc biệt là khi các nước ASEAN loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan. Một số ngành sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa.
Thứ hai là vấn đề năng suất lao động của Việt Nam thấp là một trong những thách
thức của Việt Nam. Theo báo cáo về năng suất lao động của ILO, năng suất lao động của
Việt Nam tháp nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương APEC, So với các nước
trong khu vực ASEAN, năng suất trung bình của người lao động Việt Nam thấp dưới một
nửa so với Philippines, 2 người lao động Thái Lan, Mailaysia bằng 5 người lao động Việt
Nam, 1 người lao động Singapore bằng 15 người lao động Việt Nam. Như thế chúng ta
có thể hình dung chất lượng của lao động Việt Nam hiện nay thấp như thế nào. Thường
thì năng suất thấp đi liền với tiền lương thấp, nên nhiều người cho rằng đó là lợi thế của
nước đi sau. Nhưng thực tế không đơn thuần như vậy. Tiền lương chỉ hấp dẫn khi nó thấp
hơn năng suất thực (đồng nghĩa với việc người chủ khi trả lương sẽ thu được lợi thế). Tuy
5

nguon tai.lieu . vn