Xem mẫu
- Nguyễn Thị Phú
Viện Nghiên cứu Giáo dục
Trường Đại học Sư phạm TPHCM
Tóm tắt: Bài báo tập trung vào phân tích những nội dung cần thực hiện để triển
khai chuyển đổi số trong giáo dục theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm
2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ; đánh giá mức độ quan trọng của các
điều kiện cần để thực hiện chuyển đổi số trong nhà trường đạt hiệu quả.
Từ khóa: người dạy, người học, chuyển đổi số, quản lý
1. Đặt vấn đề
Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 749/QĐ-TTg về
việc phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng
đến năm 2030”. Trong đó, Giáo dục là một trong tám lĩnh vực ưu tiên, là lĩnh
vực được ưu tiên chuyển đổi số thứ 2 sau lĩnh vực Y tế. Điều đó cho chuyển đổi
số trong lĩnh vực giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng.
Ngày 9/12/2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã tổ chức hội thảo
“Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”, phát biểu tại hội thảo, Thứ trường Bộ
GDĐT Hoàng Minh Sơn cho biết năm 2007, từ một số ít trường triển khai đào
tạo tín chỉ, cho phép người học đăng ký học tập, xem kết quả học tập, đóng học
phí online, đến nay hầu hết các trường đại học đã triển khai loại hình đào tạo này.
Việc đăng ký thi THPT và xét tuyển qua mạng, các nghiệp vụ quản trị trường
học cũng được số hoá, thực hiện trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin.
Chuyển đối số trong GDĐT đã được xác định là nhiệm vụ quốc gia, vậy
các trường cần phải thực hiện những gì để chuyển đổi số đạt hiệu quả như
mong muốn?
2. Chuyển đổi số và những việc cần làm để thực hiện chuyển đổi số trong
giáo dục
Cuối năm 2019, đại dịch Covid-19 bùng phát ở một số quốc gia. Năm 2020,
Việt Nam đối diện với nhiều đợt bùng phát liên tục của dịch bệnh. Thực hiện
cách li xã hội đồng nghĩa với việc nhà trường đóng cửa, học sinh sinh viên phải
ở nhà. Để đảm bảo cho hoạt động học tập không bị gián đoạn, các nhà trường đã
chủ động và thích ứng nhanh với dịch bệnh, áp dụng hiệu quả công nghệ thông
tin, công nghệ số vào giảng dạy. Đến nay, việc dạy học online đã trở thành hoạt
625
- động thiết yếu, trong bất kỳ tình huống nào nhà trường cũng có thể chuyển sang
chế độ dạy học online. Theo số liệu của Bộ GDĐT,hơn 80% các trường phổ
thông, 240 cơ sở đào tạo đã tổ chức dạy học trực tuyến, trong đó có 79 cơ sở tổ
chức quản lý dạy học hoàn toàn qua mạng.
Theo báo cáo PISA năm 2020 được Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) công bố gần đây, việc học trực tuyến để phòng, chống Covid-19 của
Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Cụ
thể, Việt Nam có 79,7% học sinh phổ thông được học trực tuyến. Tỷ lệ này cao
hơn mức trung bình chung của các nước OECD (67,5%) [1].
Thực tế cho thấy, Việt Nam đã thích ứng rất nhanh với diễn biến của đại
dịch và đảm bảo được phương châm “Tạm dừng đến trường, không ngừng học”.
Vậy chuyển đối số là gì và các nội dung cần thực hiện để chuyển đổi số
trong nhà trường là gì?
2.1. Chuyển đổi số là gì?
Chuyển đổi số có thể được hiểu là chuyển các hoạt động của chúng ta từ
thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Qua đó, chúng ta tiếp cận
thông tin được nhiều hơn, rút ngắn khoảng cách, tiết kiệm thời gian.
2.2. Những việc cần làm để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục
Câu hỏi đặt ra là chuyển đổi số trong lĩnh vực GDĐT bao gồm chuyển đổi
số ở những lĩnh vực nào và mức độ chuyển đổi ra sao?
Chuyển đổi số trong lĩnh vực GDĐT tập trung vào các vấn đề: Quản lý nhà
trường và hoạt động dạy học, kiểm tra, đánh giá người học. Thực hiện chuyển
đổi số trong quản lý giáo dục gồm số hóa thông tin quản lý, xây dựng hệ thống
cơ sở dữ liệu liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến cũng như ứng
dụng các công nghệ để phân tích dữ liệu…để quản lý, dự báo và ra quyết định
kịp thời, nhanh chóng và chính xác. Trong hoạt động dạy, học, kiểm tra, đánh
giá cần thực hiện số hóa học liệu (Bài giảng điện tử, kho bài giảng E-learning,
sách giáo khoa điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, ngân hàng đề thi…), thư
viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây dựng
các trường học ảo…
Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT, toàn ngành giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu tiên, đã xây dựng cơ sở
dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, được triển khai tại
63/63 sở GD-ĐT, 710 phòng GD-ĐT, thu thập được 22 triệu hồ sơ học sinh, 1,5
triệu hồ sơ giáo viên, nhân viên và cán bộ quản lý từ 53.000 trường học và thông
tin về cơ sở vất chất, nhà vệ sinh trường học. Hệ thống thống kê về giáo dục đại
học được triển khai đến nay đã thu thập được khoảng 1,3 triệu hồ sơ sinh viên,
626
- 94.000 hồ sơ giảng viên từ 247 trường đại học, học viên, cao đẳng sư phạm, trung
cấp sư phạm. Đây là cơ sở dữ liệu rất quan trọng phục vụ công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành của ngành.
Để thực hiện giáo dục trực tuyến được hiệu quả, tất cả dữ liệu phải được số
hóa, quan trọng nhất là kho học liệu, tài liệu, sách giáo khoa. Hiện nay, Bộ GDĐT
đã xây dựng được kho số hóa hơn 5.000 bài giảng điện tử e-learning, 2000 bài
dạy trên truyền hình, 200 đầu sách giáo khoa phổ thông, 200 thí nghiệm ảo, ngân
hàng câu hỏi trắc nghiệm lên đến 35.000 câu hỏi, kho luận án tiến sĩ với 7.000
luận án… là đóng góp từ các giáo viên, cơ sở giáo dục trên cả nước. Tài nguyên
học liệu mở giúp người dạy, người học kết nối với kiến thức hiệu quả dù họ ở
đâu và thực hiện được ở bất kỳ thời điểm nào. Hơn nữa, người học có thể tìm
kiếm được nguồn tài nguyên học tập nhiều hơn, dễ dàng và ít tốn kém hơn. Hiện
nay, nhờ các phương tiện công nghệ hiện đại như máy tính thông minh, điện thoại
thông minh người học có thể khai thác học liệu nhanh chóng mà không phụ thuộc
vào tình trạng kinh tế cũng như không cần phải mua sách hay mượn từ thư viện.
Song song với việc số hóa kho học liệu, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo,
số hóa dữ liệu người học thì việc thay đổi phương thức dạy học được chuyển biến
rõ rệt nhất. Việc chuyển đổi từ dạy học trực tiếp sang dạy học trực tuyến khiến
cho những phương pháp, kỹ thuật dạy học truyền thống không còn hữu dụng.
Phương pháp, kỹ thuật dạy học bắt buộc phải thay đổi, đòi hỏi sự linh hoạt, sáng
tạo của người dạy. Việc vận dụng các thiết bị, công nghệ phục vụ cho dạy học
sao cho hiệu quả được đặt lên hàng đầu. Chuyển đổi số không chỉ là số hóa bài
giảng, hay ứng dụng các phần mềm vào soạn bài dạy, mà còn là sự chuyển đổi
toàn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác
với người học sang không gian số, khai thác công nghệ thông tin để tổ chức giảng
dạy thành công.
Cùng với việc dạy học, chuyển đổi số phải đảm bảo việc kiểm tra, đánh giá
được thực hiện trong quá trình giáo dục, kể cả đánh giá kết quả đào tạo. Kết quả
đào tạo được số hóa, quá trình đánh giá cũng phải được triển khai thực hiện bằng
ứng dụng công nghệ trên máy tính. Toàn bộ dữ liệu về người học cũng cần được
số hóa để thực hiện quy trình quản lý và đánh giá . Dữ liệu về quá trình học tập
của người học cũng được theo dõi và lưu trữ bằng công nghệ chứ không phải
thông qua hồ sơ sổ sách thông thường. Từ đó, người dạy được giải phóng khỏi
những việc hồ sơ sổ sách hành chính, bớt thời gian làm sổ điểm, học bạ, quản lý
hồ sơ học tập… mà chỉ cần tập trung vào giảng dạy.
Chuyển đổi số trong giáo dục là một quá trình thay đổi nằm ở phương thức
thực hiện giáo dục. Việc thay đổi phương pháp, kỹ thuật thực hiện giảng dạy, đào
tạo dẫn đến việc thay đổi tiêu chuẩn đầu vào để thích ứng với phương pháp dạy
627
- học mới. Sản phẩm đầu ra cũng vì thế mà thay đổi theo. Khi thực hiện chuyển
đổi số, toàn bộ hệ thống giáo dục từ đào tạo, tổ chức thực hiện và quản lý điều
hành nhà trường đều thay đổi. Khi chuyển đổi phương thức dạy học, giáo dục
trải nghiệm của người học cũng thay đổi tưởng ứng. Trải nghiệm mới sẽ khiến
những năng lực, phẩm chất, kỹ năng mới của người học sẽ hình thành. Để điều
hành, quản lý nhà trường đáp ứng được nhưng thay đổi khi thực hiện chuyển đổi
số điều hiển nhiên tư duy về quản lý giáo dục, quản lý nhà trường cần phải chuyển
đổi, cởi mở hơn, linh hoạt hơn.
Tóm lại, để thực hiện chuyển đổi số, nhà trường cần phải thực hiện thay đổi
rất nhiều phương diện như phương pháp dạy học, giáo dục phù hợp với môi
trường số; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu từ dữ liệu người học đến kho học
liệu, bài giảng, sách giáo khoa, bài thực hành thí nghiệm đến dữ liệu người dạy
để kết nối, trao đổi; và quan trọng nhất là thay đổi tư duy giáo dục, tư duy quản
lý để thích ứng với môi trường dạy học mới.
3. Các điều kiện để thực hiện chuyển đổi số trong nhà trường
3.1. Con người
Giáo dục là môi trường tác động qua lại mạnh mẽ giữa người và người.
Muốn chuyển đổi số thành công, con người không chỉ phải thay đổi để thích nghi,
mà phải thay đổi để dẫn dắt quá trình đó. Cần phải hành động để tạo ra sự thay
đổi chứ không chờ đợi mọi thứ sẽ thay đổi.
Người cần thay đổi và thích nghi đầu tiên với chuyển đổi số là người dạy.
Con người phải thay đổi để thích nghi thì chuyển đổi số mới thành công. Bởi lẽ,
giờ đây học sinh, sinh viên có quá nhiều kênh thông tin, tài liệu. Người thầy cần
phải thay đổi từ việc truyền thụ kiến thức sang biết chọn lọc và tập hợp kiến thức
để xây dựng được chương trình, bài dạy. Người dạy, trước hết cần phải học công
nghệ thông tin để vận dụng một cách thành thạo, biết cách sử dụng các phần mềm
hỗ trợ cho hoạt động dạy học, biết cách thiết kế bài dạy phù hợp với yêu cầu vừa
dạy trực tiếp, vừa dạy trực tuyến hỗ trợ dạy hoc trực tiếp. Người dạy cần thay đổi
tư duy, thích nghi với môi trường mạng và tương tác qua mạng để điều khiển
được hoạt động dạy học online.
Chuyển đổi số yêu cầu đổi mới quản lý từng lớp học, đổi mới nội dung từng
tiết học, từng bài giảng, làm sao để tăng tương tác giữa thầy và trò trong và ngoài
lớp học, làm sao để từng học sinh được tham gia tích cực, chủ động hơn vào quá
trình học tập. Hướng dẫn và khuyến khích học sinh tự học, sử dụng các kho học
liệu mở và phần mềm miễn phí sẵn có. Người học trở nên năng động hơn, sáng
tạo và tự chủ hơn trong việc học tập.
Bên cạnh người dạy, người học cần thay đổi để thích ứng với chuyển đổi
số thì tư duy và năng lực quản lý của lành đạo ngành giáo dục và lãnh đạo nhà
628
- trường phải thay đổi. Nhà quản lý phải hiểu được cách thức quản lý trên không
gian ảo, cần phải trang bị kiến thức để làm chủ công nghệ và khai thác hiệu quả
công nghệ cho mục tiêu quản lý nhà trường.
3.2. Hạ tầng và công nghệ
Thực hiện thành công chuyển đổi số, cơ sở hạ tầng trang thiết bị đặc biệt
quan trọng. Trang thiết bị công nghệ thông tin: máy tính, camera, máy quét, máy
in… đường truyền internet cho nhà trường. Công nghệ nền tảng, các công cụ
phần mềm sẵn có là các phương tiện thực hiện chuyển đổi số. Hiện nay, việc
trang bị cơ sở hạ tầng, trang thiết bị công nghệ chưa đồng bộ ở các địa phương.
Vì vậy, để triển khai thực hiện chuyển đối số được thực hiện đồng bộ ở các địa
phương cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng đồng bộ, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ và
huy động nguồn lực xã hội hóa cùng tham gia thực hiện.
Để thiết kế một bài giảng trực tuyến cần có môi trường để xây dựng bài dạy
như phòng nghe nhìn, phim trường… điều này không phải trường học nào cũng
đáp ứng được. Cho nên, việc liên kết, kết nối giữa các trường học để khai thác
nguồn học liệu chung và xây dựng mối liên kết để dùng chung cơ sở vật chất
trang thiết bị là giải pháp hữu hiệu trong tương lai.
Song song với việc xây dựng hạ tầng công nghệ, cần thực hiện phổ cập tin
học, làm quen với tin học cho người học ở tất cả các cấp học. Hơn nữa, cần
khuyến khích người dân bổ túc kiến thức tin học để có thể hỗ trợ con em trong
wuas trình học tập. Trang bị công nghệ, sử dụng được công nghệ hiệu quả mới
có thể thực hiện chuyển đổi số thành công.
3.3 Phát triển học liệu số
Hiện tại, nguồn học liệu số tập hợp từ các trường ngày càng được mở rộng.
Tuy nhiên, để chuyển đổi hoàn toàn sang hoạt động dạy học và quản lý theo
chuyển đổi số thì cần phải được đầu tư thúc đẩy phát triển mạnh hơn nữa. Thúc
đẩy phát triển học liệu số để phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo,
nghiên cứu khoa học ở tất cả các cấp học, ngành học, môn học. Việc xây dựng
học liệu số cần gắn với việc thẩm định nội dung, kết nối, chia sẻ học liệu giữa
các địa phương, nhà trường; hình thành kho học liệu số, học liệu mở dùng chung
toàn ngành, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, học tập suốt đời, thu
hẹp khoảng cách giữa các vùng miền. Bộ cần tiếp tục đổi mới cách dạy và học
trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mô hình
GDĐT mới dựa trên các nền tảng số. Học liệu số giúp cho người học học tập
được ở bất kỳ môi trường nào và thời gian phù hợp với bản thân, vì vậy xây dựng
kho học liệu số phong phú để đáp ứng nhu cầu của người học là yêu cầu đầu tiên
để quá trình chuyển đổi số được thực hiện hiệu quả.
4. Kết luận
629
- Chuyển đổi số ở Việt Nam đang ở bước khởi đầu, cần một quá trình để thực
hiện. Để quá trình chuyển đổi số thực hiện hiệu quả, cần phải:
- Hoàn thiện cơ sở hạ tầng mạng đồng bộ, thiết bị công nghệ thông tin
phục vụ dạy - học, quản lý nhà trường;
- Thúc đẩy phát triển học liệu số;
- Tạo môi trường số kết nối, chia sẻ giữa các trường, cơ quan quản lý giáo
dục từ trung ương đến địa phương;
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo năng lực công nghệ
thông tin, an toàn thông tin để thực hiện dạy học và quản lý trên môi trường số;
- Xây dựng văn hóa số trong ngành giáo dục.
Học tập trực tuyến sẽ mở ra cơ hội học tập với chi phí rẻ hơn nhiều lần so
với trước đây các do trường học sẽ phải tốn ít chi phí hơn để chi trả cho các vấn
đề liên quan đến mặt bằng, cơ sở vật chất, thiết bị… Chuyển đổi số cũng tạo ra
nhiều sự lựa chọn hơn cho người học. Đổi mới giáo dục chú trọng đến phát triển
năng lực, phẩm chất người học; các hình thức dạy học được mở rộng để phù hợp
với nhu cầu học tập suốt đời của người học. Vì vậy, chuyển đổi số là tất yếu của
phát triển giáo dục. Dù vậy, môi trường học tập trực tiếp vẫn là môi trường ưu
tiên để người dạy - người học và người học - người học được tương tác, xây dựng
các mối quan hệ trên nền tảng giáo dục. Chuyển đổi số là phương tiện để GDĐT
hội nhập và phát triển hơn.
Tài liệu tham khảo:
[1]. https://nhandan.com.vn/dien-dan-giao-duc/day-nhanh-chuyen-doi-so-trong-giao-duc-
635300/.
[2]. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=7123
[3]. https://ictvietnam.vn/chuyen-doi-so-trong-linh-vuc-giao-duc-va-dao-tao-thuc-trang-va-
giai-phap-20200522150010574.htm
[4]. Hồ sợ dự thảo Đề án chuyển đổi số Quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ.
[5]. Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính
sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4.
630
nguon tai.lieu . vn