Xem mẫu

  1. Nguyễn Ngọc Xuân Huy Trường Đại học Bình Dương Abstract - Trên thế giới, nhiều quốc gia đã và đang triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển đổi số với nội dung chuyển đổi số rất đa dạng. nhưng có chung một số nội dung chính gồm chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và chuyển đổi số trong các ngành trọng điểm [1]. Trong bối cảnh đó, ngành giáo dục đào tạo (GDĐT) nói chung và trường Đại học Bình Dương nói riêng cũng không thể nằm ngoài xu thế chung của thế giới và phải đối mặt với thử thách nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội mà cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 mang lại. Bài viết phân tích một số nội dung cơ bản của chuyển đổi số trong GDĐT tại trường Đại học Bình Dương, các yếu tố đảm bảo chuyển đổi số thành công, thực trạng hiện nay, kết quả đạt được và tồn tại, khó khăn, từ đó đề xuất một số giải pháp định hướng trong giai đoạn tới. 1. Nội dung cơ bản của chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo Có nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số, nhưng cơ bản đó là “quá trình chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Mục tiêu là giúp tăng năng suất lao động, tiết kiệm thời gian, giúp con người tiếp cận được nguồn thông tin khổng lồ và rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian” [1]. Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng nêu rõ Chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong bối cảnh của cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện nay [2]. Trong lĩnh vực GDĐT, chuyển đổi số sẽ hỗ trợ đổi mới GDĐT theo hướng giảm thiểu thuyết giảng, truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra sinh viên toàn cầu và có thể học tập suốt đời [3]. Nhiều mô hình giáo dục thông minh đang được phát triển trên nền tảng ứng dụng CNTT; hỗ trợ đắc lực việc cá nhân hóa học tập; làm cho việc truy cập lượng kiến thức khổng lồ trực tuyến một cách nhanh chóng, dễ dàng; tăng hiệu quả tương tác giữa phụ huynh, nhà trường, giáo viên, học sinh [1]. Các điều kiện đảm bảo cho chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo Hệ thống dữ liệu toàn quốc về GDĐT, bao gồm thông tin chi tiết của việc dạy - học và quản lý đào tạo, có sự liên kết giữa các ngành, các cơ sở từ trung ương tới địa phương [1], [4], [6]. 314
  2. Cơ chế, chính sách cẩn được hoàn thiện một cách chặc chẽ, tạo thuận lợi cho chuyển đổi số trong toàn ngành. Đó là các chính sách liên quan như bản quyền tác giả, an toàn thông tin mạng, kiểm định chất lượng, tính pháp lý và công nhận kết quả khi dạy - học trực tuyến [1], [3]. Nền tảng hạ tầng CNTT, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ trong toàn ngành giáo dục [1], [6]. Cuối cùng cần đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số [1], [3], [6]. 2. Thực trạng chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo hiện nay ở nước ta Chuyển đổi số ngành giáo dục đào tạo hiện nay còn gặp nhiều khó khăn cần được khắc phục, hoàn thiện cụ thể như sau: Hạ tầng mạng, trang thiết bị CNTT, đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giáo viên, học sinh - đặc biệt ở các vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số (cả về quản lý giáo dục và dạy - học) [1], [4], [6]. Số hóa, xây dựng, cập nhật học liệu số, thẩm định, chia sẻ học liệu số đòi hỏi sự đầu tư lớn về nhân lực cũng như tài chính để đảm bảo kho học liệu số đầy đủ, đồng bộ, đạt chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu, tham khảo của học sinh – sinh viên ở các cấp học, ngành học, môn học [1], [4], [5], [6]. Thu thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo dục và học liệu số cần có cơ sở pháp lý chặt chẽ, phù hợp với các quy định về bản quyền tác giả, an ninh thông tin [1], [4], [5], [6]. Hoàn thiện quy định chương trình học trực tuyến, thời lượng học, kiểm tra đánh giá trực tuyến, kiểm định chất lượng học trực tuyến, công nhận kết quả học trực tuyến; quy định điều kiện tổ chức lớp học, trường học trên môi trường mạng [1], [3], [6]. 3. Một số giải pháp chung thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục tại đại học Bình Dương Tổng hợp từ việc phân tích các yếu tố tác động, các khó khăn hạn chế ở trên, và chủ trương của Nhà nước. Trường ĐH Bình Dương đã thực hiện các giải pháp sau: Chuyển đổi số trong đào tạo trực tuyến và phát triển các khóa học trực tuyến Đầu năm 2020, đánh dấu bước ngoặc của thế giới khi đại dịch covid-19 bùng phát trên toàn cầu. Cả thế giới trong tình trạng bị phong tỏa nhiều tháng liền. Riêng ở Việt Nam, cách ly toàn xã hội bắt đầu từ tháng 04/2020, đánh dấu thử thách rất lớn đối với nền giáo dục khi học sinh, sinh viên cả nước không thể đến trường trong suốt gần 6 tháng liền. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Khoa 315
  3. CNTT, Robot và TTNT triển khai chương trình giảng dạy và học trực tuyến trên hệ thống Microsoft STEAM cho toàn thể GV và SV trường ĐH Bình Dương. Các môn học trực tuyến được triển khai cho tất cả các môn lý thuyết, hoặc có một phần nội dung lý thuyết. Mặc dù quá trình triển khai còn gấp rút, tuy nhiên nhà trường đã hoàn thành chương trình học kì 2 năm học 2019-2020 đúng hạn. Các nhóm Khoa kỹ thuật, công nghệ đã xây dựng hội đồng bảo vệ đề tài, đồ án, báo cáo trực tuyến trong năm 2020. Đặc thù của Đại học Bình Dương là có 2 cơ sở (một cơ sở chính tại Bình Dương và một cơ sở tại Cà Mau), việc tổ chức thành công hội đồng trực tuyến đã tăng hiệu quả, giảm chi phí và thời gian làm việc cho các giảng viên. Tất cả nội dung báo cáo, chạy thử sản phẩm và thử nghiệm của sinh viên đều được ghi nhận và các thủ tục hoàn thành môn học, điểm số đều được thực hiện đúng yêu cầu của các phòng ban. Triển khai Google classroom trong toàn thể GVCH và GVTG. Tất cả các nội dung giảng dạy, học liệu, lịch học và tương tác giữa GV với sinh viên đều được ghi nhận thông qua hệ thống Google Classrom. Được Khoa chuyên môn, phòng Đào tạo và Quản lý sinh viên, Ban thanh tra định kì theo dõi và giám sát để đảm bảo nề nếp thực hiện và chất lượng giảng dạy môn học. Ở các nhóm Khoa có sử dụng thiết bị thực hành thí nghiệm như Khoa CNTT, Robot và TTNT, Khoa Điện – Điện tử, nhà trường đang triển khai xây dựng PTN ảo về tự động hóa. Mô hình PLC được lắp đặt sẵn theo các bài thí nghiệm và sinh viên có thể cài đặt, lập trình từ xa thông qua internet. Hệ thống được giám sát thông qua camera. Các khoa cũng đang tiến tới sử dụng hệ thống mô phỏng thí nghiệm trên các nền tảng web cho các môn học có liên quan. Chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học Nhà trường xây dựng hệ thống đánh giá sinh viên, đăng ký môn học, quản lý điểm số trực tuyến trong nhiều năm, bao gồm cho hệ chính quy, cao đẳng, liên thông. Việc này hỗ trợ phụ huynh và sinh viên chủ động hơn trong nắm bắt tình hình học tập cũng như giảm thiểu tình trạng tiêu cực giữa giảng viên và sinh viên. Sinh viên có thể đăng nhập vào tài khoản để thực hiện các yêu cầu kiểm tra lịch học, lịch thi, tự đánh giá điểm rèn luyện, khiếu nại, đăng kí môn học, quản lý thông tin học phí. Giảng viên có thể kiểm tra thông tin sinh viên đã đăng kí môn học, điểm sinh viên, hỗ trợ thay đổi và gợi ý tư vấn sinh viên đăng kí môn học phù hợp. Các phòng ban có thể trích xuất thông tin thống kê sinh viên. Phụ huynh có thể trực tiếp kiểm tra điểm, danh sách môn học, chương trình đào tạo, lịch học, học phí. Ngoài ra phụ huynh có thể liên hệ trực tiếp với Giảng viên chủ nhiệm, phòng ban liên quan để góp phần quản lý và hỗ trợ sinh viên được trọn vẹn nhất. 316
  4. Chuyển đổi số trong phát triển, khai thác hệ thống học liệu và môi trường học tập số Nhà trường xây dụng hệ thống ngân hàng câu hỏi điện tử, góp phần giảm thời gian ra đề thi, đánh giá kết quả và giảm khối lượng và áp lực công việc cho giảng viên. Hệ thống ngân hàng câu hỏi điện tử cũng góp phần hỗ trợ quá trình đánh giá kết quả sinh viên nhanh hơn, phù hợp cho sinh viên trong bối cảnh chương trình đào tạo theo hệ tín chỉ. Thư viện điện tử cập nhật giáo trình mới nhất phù hợp với từng khóa học. Việc cập nhật danh sách và nội dung thư viện điện tử được cập nhật hàng học kì theo đề xuất của từng giảng viên và từng khoa bộ môn. Nhà trường cũng thiết lập hệ thống thống kê thời gian và khối lượng công việc sinh viên tham gia học tập, đọc sách tại thư viên thông qua thẻ từ, và xem đó là một tiêu chí bắt buộc để mỗi sinh viên hoàn thành học kì. Ứng dụng giáo dục STE(A)M, học theo dự án và kết nối cộng đồng Giáo dục STE(A)M được lồng ghép trong các môn học, gắn việc học của học sinh thông qua các hoạt động ứng dụng công nghệ để giải quyết các bài toán và hiện tượng trong cuộc sống. Trong giáo dục đại học, triển khai cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực CNTT, qua đó giúp các cơ sở đào tạo gia tăng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế để huy động các nguồn lực của xã hội tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực CNTT, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân lực ở các doanh nghiệp và nhu cầu của xã hội. Ngoài ra, sinh viên còn được yêu cầu học tập và đánh giá thông qua thực hiện dự án gắn với nhu cầu thực tế của cộng đồng. Đây là một phương pháp đào tạo phù hợp với tình hình thực tế của xã hội và triết lý giáo dục “Học – Hỏi – Hiểu – Hành” của nhà trường. Sinh viên đề xuất dự án thông qua quá trình khảo sát nhu cầu, hoặc tìm hiểu các vấn đề của cộng đồng. Sau khi xác định được nhiệm vụ, sinh viên sẽ thực hiện các dự án này. Dự án có thể sẽ được quy đổi thành môn học, phụ thuộc vào đánh giá của giảng viên, hội đồng và Khoa phụ trách. Việc đào đào thông qua dự án sẽ giảm thiểu thời gian học trên lớp nhưng tăng cường nội dung sinh viên tự học và hỗ trợ tích cực trong quá trình chuyển đổi số trong giáo dục. 4. Phù hợp với Triết lý giáo dục 4H - 4T của nhà trường Trong khi hầu như các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân còn loay hoay tìm cho mình một phương châm để định hướng, tôn chỉ, triết lý cho công tác đào tạo, thì từ những ngày đầu thành lập vào năm 1997, trường đại học Bình Dương đã xác định cho mình tiêu chuẩn đào tạo cũng như phương pháp đào 317
  5. tạo của Nhà trường. Rõ ràng giáo dục không phải là công cụ để nhồi nhét những kinh nghiệm của quá khứ bằng cách áp đặt nó lên tư tưởng của thế hệ kế thừa. Thành tựu giáo dục là phải cho con người ý thức được, đánh giá được giá trị thật của bản thân. Từ đó có những hành vi, cách ứng xử phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, kiến tạo và vun đắp cuộc sống ngày càng văn minh hơn, tốt đẹp hơn [7]. 4H đại diện cho “Học – Hỏi – Hiểu – Hành” và 4T đại diện cho “Trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với xã hội và với thiên nhiên”. Đây là phương pháp học tập tích cực, giúp mọi người có tư duy độc lập, sáng tạo, giúp con người có thể dễ dàng tiếp cận với tri thức, suốt đời tự hoàn thiện bản thân, lao động sáng tạo, tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có chất lượng phục vụ cho đời sống, mang lại lợi ích cho bản thân, gia đình, cộng đồng xã hội, biết yêu quý và bảo vệ thiên nhiên [9]. Phù hợp với Nhiệm vụ, mục tiêu “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” của Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế [3]. Trong giữa bối cảnh toàn xã hội có nhu cầu chuyển đổi số trong GDĐT, triết lý giáo dục và phương pháp giáo dục của nhà trường lại thể hiện sự phù hợp khi tạo ra những sinh viên toàn cầu có khả năng tự học, tự nghiên cứu suốt đời, hiểu được trách nhiệm và có trách nhiệm với cá nhân và cộng đồng. 5. Các vấn đề phát sinh và đề xuất dành cho Đại học Bình Dương Bên cạnh những thành quả đã thực hiện, nhà trường cũng cần đổi mới và chuyển đổi thêm các đề xuất sau: Không chỉ riêng xây dựng chuyển đổi số trong đào tạo, nhà trường cần hoàn thiện hệ thống chuyển đổi số trong quản lý thủ tục hành chính, CSDL toàn trường: thực hiện số hóa một cách triệt để, tăng cường sử dụng văn bản điện tử, thay thế văn bản, tài liệu giấy; hoạt động chỉ đạo, điều hành, giao dịch, họp, tập huấn được thực hiện chủ yếu trên môi trường mạng; kết nối CSDL nhà trường với CSDL quốc gia. Phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm, thông suốt về tư tưởng và quyết tâm hợp lực thực hiện chuyển đổi số trong toàn ngành giáo dục, đến từng địa phương, nhà trường, giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý; xây dựng văn hoá số trong ngành giáo dục. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng mạng đồng bộ, thiết bị CNTT và tăng cường ứng dụng thành tựu CNTT trong thúc đẩy phát triển hình thức dạy - học trực tuyến qua mạng; chính sách quản lý các khóa học trực tuyến đảm bảo chất lượng thông qua các quy định về điều kiện mở trường mở lớp, thẩm định nội dung, kèm theo chế tài phù hợp, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người học. 318
  6. Thúc đẩy phát triển thư viện, tài liệu học liệu số ở tất cả các khoa, các ngành học, phù hợp với các tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục Đại học. Triển khai mạng xã hội giáo dục có sự kiểm soát và định hướng thống nhất, tạo môi trường số kết nối, chia sẻ giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, gia đình, giáo viên giảng viên, học sinh sinh viên; phát triển các khóa học trực tuyến mở, hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam; triển khai hệ thống học tập trực tuyến dùng chung toàn ngành phục vụ công tác bồi dưỡng giáo viên, hỗ trợ dạy học cho các vùng khó khăn. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo kiến thức, kỹ năng CNTT, an toàn thông tin cần thiết để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Cuối cùng, bên cạnh các nổ lực chuyển đổi số của các cơ sở giáo dục, các trường cũng rất cần sự hỗ trợ từ các ban ngành GDĐT, đây sẽ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số Quốc gia nói chung. Bài viết trên đây thể hiện một số quan điểm của tác giả về chuyển đổi số trong lĩnh vực GDĐT gồm nội dung về chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số tại ĐH Bình Dương nói riêng. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chung để thúc đẩy chuyển đổi số tại nhà trường. Các ý kiến về giải pháp đề xuất cần được tiếp tục nghiên cứu cụ thể, xây dựng kế hoạch chi tiết, và cần được thực hiện, đánh giá và thử nghiệm hợp lý, để đảm bảo tính hiệu quả khi triển khai thực tế. Tài liệu tham khảo: [1]. TS. Tô Hồng Nam, “tạp chí TT&TT số 2 tháng 4/2020”, trích xuất tại Cổng thông tin điện tử http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/chuyen-doi-so-trong-linh- vuc-giao-duc-va-dao-tao-thuc-trang-va-giai-phap-6454 [2]. Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. [3]. Nghị quyết của Chính phủ số 44/NQ-CP ngày 9/6/2014 ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; [4]. Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; [5]. Nghị quyết số 36a/ NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử; số 17/NQ-CP ngày 7/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025. [6]. Hội thảo “Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”, trích xuất tại cổng thông tin điện tử của Bộ giáo dục và đào tạo https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong- hop.aspx?ItemID=7123 [7]. GS. VS. Cao Văn Phường, “Xây dựng nền giáo dục mở”, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2019. 319
nguon tai.lieu . vn