- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Chuyển đổi số trong giáo dục đại học và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn hiện nay
Xem mẫu
- Ngô Hoài Phương
Nguyễn Đình Nam
Trường Đại học Thông tin liên lạc
Tóm tắt: Chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo là yêu cầu khách quan trong giai
đoạn hiện nay trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN
4.0) đến mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Qua tìm
hiểu, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, bài báo này bàn thêm về thuật ngữ chuyển đổi
số trong giáo dục đại học, tác động của chuyển đổi số đối với việc dạy học các môn
khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) ở các cơ sở giáo dục đại học. Trên cơ sở
đó đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả dạy học các môn KHXH&NV
trước yêu cầu chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Chuyển đổi số; giáo dục đại học; khoa học xã hội và nhân văn; quản
lý đào tạo; thách thức trong chuyển đổi số.
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số là bước tiếp theo của số hóa (bao gồm số hóa dữ liệu và số
hóa quy trình). Chuyển đổi số đã và đang được nghiên cứu, tìm hiểu và ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó giáo dục và đào tạo, trực tiếp
là giáo dục đại học là một lĩnh vực trọng điểm. Đối với các môn KHXH&NV,
với đặc điểm là những nội mang tính lý luận, trừu tượng, góp phần hình thành ở
người học thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng, nhân sinh quan
cộng sản, phẩm chất, nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa…, chuyển
đổi số vừa tạo ra tiền đề, cơ hội thuận lợi để thúc đẩy quá trình dạy học các môn
KHXH&NV dễ dàng đạt đến cái đích, chuẩn đầu ra đã được xác định, đồng thời
vừa đặt ra những thách thức lớn để quá trình dạy học các môn KHXH&NV không
mất đi tính khoa học, tính đảng và tính định hướng chính trị. Vì vậy, việc tìm
hiểu, nhận thức đúng, có hệ thống tác động của chuyển đổi số đối với quá trình
dạy học các môn KHXH&NV ở các cơ sở giáo dục đại học có ý nghĩa cần thiết
để góp phần thực hiện thành công định hướng chuyển đổi số trong giáo dục đại
học thời gian tới.
427
- 2. Nội dung
Chuyển đổi số (Digital transformation) là thuật ngữ xuất hiện phổ biến
trong những năm gần đây ở nhiều quốc gia trên thế giới khi mà những tiện ích
trên nền tảng về công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại của cuộc CMCN
4.0 mang lại. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi định nghĩa về chuyển đổi số.
Theo GS. Hồ Tú Bảo - Viện trưởng viện John Von Neumann: “Chuyển đổi số là
quá trình ứng dụng công nghệ số vào mọi khía cạnh của doanh nghiệp để làm
thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, quản trị, nhằm cải thiện, gia tăng giá
trị mới, vượt trội hiệu quả hơn” [5]. Tiếp cận ở góc độ nhận thức, tư duy,
Microsoft cho rằng: “Chuyển đổi số là việc tái cấu trúc tư duy về việc phối hợp
giữa dữ liệu, quy trình và con người để tạo ra nhiều giá trị mới” [5]. Tiếp cận một
cách cụ thể, chi tiết hơn, FSI - doanh nghiệp chuyển đổi số hàng đầu Việt Nam
đã quan niệm: Chuyển đổi số trong tổ chức, doanh nghiệp là quá trình thay đổi
từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số, bằng cách áp dụng công nghệ
mới như dữ liệu lớn (Big data), Internet vạn vật (IOT), điện toán đám
mây(Cloud)…thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn
hóa công ty…[5]. Các quan niệm đều thống nhất ở chỗ cho rằng, chuyển đổi số
cần dựa trên nền tảng số hóa dữ liệu (digitization) và số hóa quy trình vận hành,
số hóa tổ chức (Digitalization). Theo đó, có thể hiểu: Chuyển đổi số là quá trình
triển khai một loạt những thay đổi về công nghệ và con người để tái cấu trúc cách
thức hoạt động (từ quy trình truyền thống sang quy trình số), từ đó tạo ra những
cơ hội và giá trị mới [2], [3].
Cuộc CMCN 4.0 với nền tảng về công nghệ thông tin hiện đại như: internet
kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ điện toán đám mây.. đã
làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội hiện nay. Giáo dục và đào tạo là một
lĩnh vực trọng yếu của xã hội, thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo
là yêu cầu khách quan.
Chuyển đổi số trong giáo dục đại học là cách thức chuyển đổi từ quản
lý giáo dục, tổ chức quá trình dạy học ở đại học theo kiểu truyền thống sang
quản lý và tổ chức quá trình dạy học dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ
hiện đại của cuộc CMCN 4.0, đảm bảo cho người học được tham gia vào quá
trình học tập mọi lúc, mọi nơi theo nhu cầu cá nhân thông qua các kết nối
của môi trường mạng, nhằm đào tạo người học có đủ phẩm chất và năng lực
đáp ứng yêu cầu xã hội số hiện nay. Khi thực hiện chuyển đổi số, có thể nói
toàn bộ cái cách giáo dục được tổ chức, thực hiện và quản lý thay đổi. Trọng
tâm của chuyển đổi số trong giáo dục đại học là trải nghiệm của người học
sẽ hoàn toàn thay đổi, theo đó năng lực, phẩm chất cũng sẽ được chuyển biến
theo hướng tích cực và thiết thực.
428
- Ở Việt Nam, quan điểm đẩy mạnh ứng dụng và thực hiện chuyển đổi số
được Đảng, Chính phủ, Nhà nước, các Bộ, ngành rất quan tâm, nhất là lĩnh vực
hành chính công, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, tài chính, sản xuất,
thương mại, … Trong xu thế đó, giáo dục đào tạo ở bậc đại học thời gian gần đây
đã thực hiện được những bước quan trọng trong chuyển đổi số, như: việc số hóa
dữ liệu; số hóa một số quy trình trong công tác quản lý, điều hành giáo dục đào
tạo; tổ chức dạy học trực tuyến; kiểm tra đánh giá kết quả người học, liên thông,
liên kết trong dạy học, khai thác dữ liệu… Điểm nổi bậc nhất được nhìn thấy
rộng rãi là việc tổ chức triển khai dạy và học online do tác động của dịch bệnh
Covid-19.
Như đã đề cập ở trên, dạy học các môn KHXH&NV ở các cơ sở giáo dục
đại học với mục tiêu chính là hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp
luận biện chứng, nhân sinh quan cộng sản, xây dựng phẩm chất, nhân cách của
con người mới xã hội chủ nghĩa ở người học, để họ có ý thức, thái độ, trách nhiệm
và khả năng thực hiện tốt các yêu cầu của thực tiễn, góp phần phát triển xã hội.
Đối với dạy học các môn KHXH&NV ở các cơ sở giáo dục đại học, thực
hiện ứng dụng chuyển đổi số sẽ tạo tiền đề, cơ hội thuận lợi để thúc đẩy quá trình
dạy học các môn KHXH&NV dễ dàng đạt đến cái đích, chuẩn đầu ra đã được
xác định, cụ thể là:
Thứ nhất, nhờ việc số hóa mà nguồn học liệu phục vụ cho dạy học
KHXH&NV hết sức đa dạng và phong phú. Dựa trên nền tảng môi trường mạng,
với thiết bị thông minh cầm tay, cả người dạy và người học đều được tiếp cận
nguồn học liệu đã được số hóa từ các trung tâm học liệu lớn trong các trường đại
học, các viện nghiên cứu, các tạp chí về các chuyên ngành KHXH&NV trong
nước và trên thế giới. Đặc biệt, với nguồn học liệu mở cùng với trí tuệ nhân tạo
trong dịch thuật, giảng viên có thể khai thác được nhiều thông tin quan trọng liên
quan đến chủ đề bài học được trình bày trong các tạp chí, hội thảo. Mặt khác, nền
tảng không gian mạng cũng sẽ tạo được sự kết nối giữa người dạy và người học
ở khắp mọi nơi, từ đó mở ra cơ hội lớn trong việc tìm kiếm và chia sẻ nguồn học
liệu phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu. Điều này khó đáp ứng được nếu thực
hiện giảng dạy theo lối truyền thống.
Thứ hai, chuyển đổi số đã tạo cơ hội thuận lợi trong việc phổ biến, chia sẻ
kinh nghiệm, ý tưởng hay, độc đáo về phương pháp dạy học các môn
KHXH&NV. Những bài giảng KHXH&NV hay, ấn tượng, có nét mới và độc
đáo, những cách thức tổ chức lớp học hiệu quả sẽ được đăng tải, phổ biến trên
môi trường công nghệ số. Mỗi giảng viên dù ở cương vị, địa điểm nào cũng có
thể tham khảo và học hỏi để bổ sung, làm mới phương pháp dạy học của mình.
Đặc biệt, chuyển đổi số đã thực hiện được quan điểm “cá biệt hóa” trong dạy học
429
- các môn KHXH&NV mà cách tổ chức dạy học truyền thống khó thực hiện được.
Theo đó, sinh viên có thể học theo nhu cầu, sở thích và khả năng của mình.
Thứ ba, trên cơ sở chuyển đổi số, việc giảng dạy các môn KHXH&NV sẽ
làm cho sinh viên hứng thú hơn trong học tập nhờ nội dung ngắn gọn, mang tính
tích hợp, thiết kế theo dạng mô-đun học tập, được dẫn chứng cụ thể thông qua
các liên kết. Bài giảng được sinh động hơn, trực quan hơn nhờ các phần mềm,
các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong thiết kế bài giảng điện tử, bài thuyết trình
của giảng viên.
Thứ tư, việc tương tác giữa giảng viên và sinh viên cũng trở nên dễ dàng
hơn thông qua học tập trên môi trường mạng. Thông qua học tập môi trường
mạng, sinh viên vượt qua được tâm lý e ngại trong trao đổi, họ sẽ mạnh dạn hơn
trong việc bày tỏ quan điểm, chính kiến, ý tưởng của mình trong học tập thông
qua các phản hồi trên môi trường mạng được kết nối với giảng viên. Qua đó, phát
triển được kỹ năng tư duy lập luận, kỹ năng phản biện của người học trong học
tập các môn KHXH&NV.
Thứ năm, mục tiêu, chương trình, nội dung đã được số hóa và công khai từ
đó sinh viên có thêm nhiều thông tin để lựa chọn phù hợp với nhu cầu, nguyện
vọng và khả năng của bản thân để đạt được mục tiêu đề ra. Đồng thời, nhờ chuyển
đổi số, vấn đề kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học
trong học tập các môn KHXH&NV cũng sẽ đa dạng hơn, linh hoạt hơn và hạn
chế rất lớn việc sử dụng giấy bút, ghi chép, tái hiện kiến thức dài dòng.
Tuy nhiên, với đặc thù trong việc dạy học các môn KHXH&NV, việc
chuyển đổi số cũng đặt ra không ít những thách thức để có thể đáp ứng được
trong xu hướng chung.
Một là, chương trình, nội dung dạy học các môn KHXH&NV trong chuyển
đổi số phải được thiết kế lại theo hướng tích hợp, liên kết chặt chẽ giữa các môn
để đảm bảo có tính hệ thống, logic nhưng đồng thời có tính chuyên sâu hơn. Để
dạy học các môn KHXH&NV trong xu hướng chuyển đổi số, giảng viên phải
chuyển đổi từ hệ thống giáo trình tài liệu được trình bày dài dòng trở thành các
bài giảng ngắn gọn, cô đọng, dễ hiểu, dễ tiếp thu. Phương pháp dạy học trong
môi trường số phải thực thực sự hấp dẫn, lôi cuốn người học thông qua việc giảm
thuyết trình, tăng các tình huống trong từng bài học và ứng dụng triệt để công
nghệ thông tin. Thiết kế hình thức dạy học tập từ hình thức tập trung theo lớp
sang hình thức dạy học theo cá nhân, học tập theo nhóm. Điều này đặt ra yêu cầu
giảng viên KHXH&NV phải là người có kinh nghiệm trong giảng dạy, có chuyên
môn sâu trong lĩnh vực để xây dựng, thiết kế chương trình, nội dung nhưng đồng
thời lại là người giỏi trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng thành
thạo phần mềm.
430
- Hai là, đối với giảng viên, việc chuyển đổi số trong dạy học các môn
KHXH&NV đòi hỏi giảng viên thay đổi tâm thế từ người giữ vị trí trung tâm
sang người “phục vụ” cho nhu cầu học tập của sinh viên. Giảng viên KHXH&NV
phải vừa phải là người thầy, vừa là nhà tư vấn và đồng thời vừa là nhà quản lý.
Điều này đặt ra yêu cầu giảng viên phải nỗ lực rất lớn từ việc tìm kiếm và quản
lý học liệu, thiết kế và số hóa bài giảng, biên soạn và thực hiện chuyển đổi các
bài giảng truyền thống sang bài giảng E-learning cho đến sử dụng công nghệ để
quản lý, tương tác, phản hồi kịp thời với người học.
Ba là, đối với người học, chuyển đổi số trong giáo dục đại học yêu cầu sinh
viên phải có ý thức tự giác, tính trung thực cao trong học tập, trong kiểm tra đánh
giá; thành thạo trong khai thác, sử dụng các phương tiện về công nghệ thông tin,
các phần mềm trong quá trình học tập. Đồng thời, sinh viên phải có kỹ năng trong
tìm kiếm, khai thác đúng tài liệu phục vụ cho việc học các môn KHXH&NV
trong một kho dữ liệu khổng lồ.
Bốn là, việc định hướng chính trị, tư tưởng, hình thành niềm tin, thái độ cho
người học sẽ khó thực hiện được. Bởi vì, ngoài chức năng trang bị kiến thức,
thông qua việc lên lớp trực tiếp giảng dạy các môn KHXH&NV, giảng viên góp
phần phát triển cho sinh viên về niềm tin, định hướng chính trị, tư tưởng, thái độ
trước các hiện tượng xã hội, chính trị, kinh tế, đời sống…Tuy nhiên do việc học
theo nhu cầu, nguyện vọng, do học online, ofline nên việc định hướng chính trị,
truyền bá quan điểm, tư tưởng cho sinh viên sẽ bị hạn chế đi rất nhiều.
Năm là, công tác bảo mật, bảo đảm an toàn thông tin, vấn đề về bản quyền,
pháp lý trong khai thác, sử dụng tài nguyên về KHXH&NV trong môi trường
mạng phục vụ cho học tập và nghiên cứu khó được thực thi, phụ thuộc rất nhiều
vào đạo đức, thái độ của người sử dụng.
Từ những vấn đề trên, để dạy học các môn KHXH&NV đáp ứng chuyển
đổi số cần tiếp tục quan tâm làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho các chủ thể giáo dục về
chuyển đối số trong dạy học các môn KHXN&NV, trực tiếp là đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học. Nhận thức đúng về quy
định trong khai thác tài liệu đảm bảo tính pháp lý về bản quyền, quyền tác giả,
các nguyên tắc bảo mật, an toàn thông tin đối với lĩnh vực KHXH&NV. Giáo
dục nâng cao tính trung thực, đạo đức nghề nghiệp trong dạy, học và đánh giá
kết quả học tập trong môi trường mạng cho giảng viên và sinh viên.
Hai là, triển khai xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về
KHXH&NV ở các cơ sở giáo dục đại học đảm bảo kết nối, liên thông, chia sẻ dữ
liệu giữa các cơ sở với nhau. Thực hiện số hóa từ hệ thống giáo trình tài liệu cho
đến sổ sách học bạ, sổ điểm điện tử của sinh viên. Xây dựng hệ thống quản lý
431
- quá trình học tập, chất lượng học tập từ đó đưa ra nhắc nhở (khuyến cáo, tư vấn)
cho sinh viên. Chú trọng xây dựng đội ngũ quản trị, khai thác, vận hành, khả
năng làm việc trong môi trường hiện đại, chuyên nghiệp, tuân thủ nghiêm ngặt
quy trình làm việc trong môi trường mạng.
Ba là, tiến hành đào tạo, dưỡng cho giảng viên KHXH&NV về năng lực
dạy học tích hợp, biên soạn tài liệu, bài giảng trong môi trường số; khả năng tư
vấn, chỉ dẫn tài liệu trên môi trường mạng đảm bảo cho người học dễ khai thác,
sử dụng. Đào tạo, bồi dưỡng về công nghệ thông tin, ứng dụng các phần mềm
trong số hóa tài liệu, xây dựng hệ thống bài giảng E-learning. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học và đổi mới phương pháp dạy học, kiểm
tra đánh giá phù hợp với chuyển đổi số. Khai thác thành thạo các phần mềm phục
vụ giảng dạy và quản lý chuyên môn trong lĩnh vực KHXH&NV.
Bồi dưỡng cho sinh viên biết tự học tập phù hợp với năng lực và đặc điểm,
sở trường cá nhân; tự tiếp cận các tài liệu, tài nguyên học tập; bồi dưỡng kỹ năng
sử dụng, khai thác thành thạo công nghệ thông tin trong học tập và nghiên cứu
các quan điểm khoa học xã hội, khai thác học liệu số, E-learning trên môi trường
mạng.
Bốn là, xây dựng, củng cố, phát triển hạ tầng số đáp ứng chuyển đổi số
trong dạy học các môn KHXH&NV. Trong đó, tập trung đẩy mạnh xây dựng và
phát triển hệ thống phần mềm ứng dụng trong quản lý điều hành dạy học chuyên
ngành KHXH&NV đảm bảo nhanh chóng chính xác, hiệu quả trên môi trường
mạng, đảm bảo có chức năng tự động phân tích hỗ trợ cho giảng viên trong đánh
giá được chất lượng học tập của sinh viên.
Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra đánh giá
các môn KHXH&NV, tập trung đánh giá năng lực vận dụng các quan điểm cơ
bản của môn học để xem xét, nhận định các hiện tượng xảy ra trong xã hội. Thiết
kế hệ thống kiểm tra thông minh để quản lý được hành vi của sinh viên trong
kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
3. Kết luận
Chuyển đổi số sẽ mang lại nhiều cơ hội cho giáo dục đại học nói chung và
việc giảng dạy các môn KHXH&NV nói riêng trong xu thế hiện nay. Đứng trước
những cơ hội đó đòi hỏi các cơ sở giáo dục đó cần nắm bắt, tận dụng cơ hội vượt
qua được các thử thách để việc dạy và học các môn KHXH&NV nâng lên một
tầm cao mới, thực hiện được sứ mệnh của mình trong công nghệ số hiện nay.
432
- Tài liệu tham khảo:
[1]. Chính phủ (2020), Quyết định về chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025,
định hướng đến năm 2030, số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020, Hà Nội.
[2]. Tô Hồng Nam (2020), “Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Thực trạng và
giải pháp”, Tạp chí Thông tin và Truyền thông, Số 2 tháng 4, tr. 35-39.
[3]. Phạm Quang Thiệu, Đỗ Văn Chương (2021), “Ứng dụng chuyển đổi số trong giáo dục
đào tạo Tại trường sĩ quan thông tin”, Tạp chí Khoa học đào tạo - Thông tin liên lạc, Số
25 - Quý I, tr….
[4]. Saliu A. Danladi, Odjugo, Darling Inyigi. (2020), “A. Digitalization of Social Science
Education: Implication for the 21st Century Teacher”, International Journal of Humanities
Social Sciences and Education (IJHSSE) Volume 7, Issue 4, April, PP 175-181.
[5]. Chuyển đổi số là gì? Định nghĩa chuyển đổi số, ngày 26/12/2020,
433
nguon tai.lieu . vn