Xem mẫu
- CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN
THỰC TIỄN TỪ TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Nguyễn Thị Mai
Hoàng Thị Tâm
Trần Ngọc Trang
Trường Đại học Thương Mại
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, thuật ngữ ‘chuyển đổi số’ (digital
transformation) được nhắc đến ngày càng nhiều, các quốc gia trên thế giới đã và đang
triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển đổi số. Nội dung chuyển đổi số rất rộng
và đa dạng nhưng có thể thấy chuyển đổi số tập chung vào những nội dung chính sau:
chính phủ số (như dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở), kinh tế số (như tài chính số,
thương mại điện tử), xã hội số (như giáo dục, y tế, văn hóa) và chuyển đổi số trong
các ngành trọng điểm (như nông nghiệp, du lịch, điện lực, giao thông). Với sự bùng nổ
của khoa học công nghệ, chuyển đổi số sẽ đưa đến những thay đổi lớn trong giáo dục
góp phần tăng hiệu quả đào tạo và đảm bảo sự bình đẳng trong giáo dục và giáo dục
đào tạo (GDĐT) ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thế giới. Bài viết
tập trung phân tích một số nội dung liên quan đến chuyển đổi số trong GDĐT bao gồm:
làm rõ nội hàm của chuyển đổi số trong giáo dục, đánh giá thực trạng giảng dạy trực
tuyến tại Trường Đại học Thương mại, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị chung
nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong GDĐT.
Chuyển đổi số trong giáo dục
Việc nghiên cứu chuyển đổi số được tiếp cận từ nhiều quan điểm và góc độ
khác nhau nên thuật ngữ chuyển đổi số (Digital transformation) trên thế giới hiện
nay được diễn đạt không giống nhau, mà chưa có một định nghĩa thống nhất.
Theo trang Tech Republic - Tạp chí trực tuyến, cộng đồng xã hội dành cho
các chuyên gia công nghệ thông tin (CNTT), khái niệm chuyển đổi số là “cách
sử dụng công nghệ để thực hiện lại quy trình sao cho hiệu quả hơn hoặc hiệu
quả hơn.”
Theo Gartner - công ty nghiên cứu và tư vấn công nghệ thông tin hàng đầu
thế giới đưa ra định nghĩa về chuyển đổi số như sau: “Chuyển đổi số là việc sử
dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội,
doanh thu và giá trị mới”
Tại Việt Nam, thuật ngữ chuyển đổi số mới xuất hiện trong vài năm trở lại
đây với nhiều định nghĩa khác nhau. Song, cho dù được định nghĩa theo cách nào
thì về nội hàm đều có đặc điểm chung, đó là:
349
- - Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ
chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên sự tích hợp
các công nghệ kỹ thuật số”
- Chuyển các hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống, kinh
tế, xã hội từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng.
Các quan điểm trên là chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực nói chung vậy
chuyển đổi số trong giáo dục được hiểu như nào? chuyển đổi số trong giáo dục
bao gồm sự chuyển đổi ở nội dung hay khía cạnh nào khác và mức độ ra sao.
Tiến trình thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục sẽ không giống nhau đối với
các cá nhân, tổ chức và các quốc gia, bởi lẽ xuất phát điểm của chuyển đổi số là
rất khác Tuy nhiên, chuyển đổi số trong giáo dục ở các quốc gia sẽ đều có đặc
điểm chung đó là:
Chuyển đổi số trong giáo dục không đơn giản chỉ là số hóa các nguồn
dữ liệu mà còn bao gồm việc chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi phương
thức đào tạo.
Toàn bộ đầu vào và ra của quá trình giáo dục phải được số hóa, trong đó
quan trọng nhất là học liệu, tài liệu, sách giáo khoa. Quá trình giảng dạy được
thực hiện trên các nền tảng số, vì vậy các học liệu cũng như bài giảng phải được
số hóa. Bên cạnh đó, toàn bộ dữ liệu về người học, quá trình học tập cũng sẽ
được theo dõi và lưu trữ bằng công nghệ, không thông qua hệ thống hồ sơ sổ
sách thông thường nhằm phục vụ quy trình quản lý người học và thực hiện kiểm
tra, đánh giá kết quả đào tạo. Như vậy, mọi dữ liệu có liên quan đến quá trình
đào tạo sẽ phải được số hóa, triển khai, thực hiện bằng ứng dụng công nghệ trên
máy tính.
Chuyển đổi số trong giáo dục không chỉ là số hóa bài giảng, tài liệu học tập
hay ứng dụng các phần mềm vào soạn bài giảng và giảng dạy, mà còn là sự
chuyển đổi toàn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học,
tương tác với người học sang không gian số, khai thác công nghệ thông tin để tổ
chức giảng dạy thành công.
Khi phương thức đào tạo thay đổi, đòi hỏi trang thiết bị, cơ sở vật chất hạ
tầng công nghệ phục vụ đào tạo và giáo dục cũng phải thay đổi. Cần có trang
thiết bị mới cho cả người học, người trực tiếp giảng dạy, các cơ sở giáo dục và
cho các cơ quan quản lý, đi kèm thiết bị CNTT là các ứng dụng phần mềm, các
nền tảng (platform) để toàn bộ các hoạt động giáo dục và quản lý ở các cấp diễn
ra trên các thiết bị đó.Yêu cầu cơ bản của chuyển đổi số là phải đảm bảo sự tích
hợp, kết nối tất cả các chương trình, phần mềm trên cùng một nền tảng. Nền tảng
này trong lĩnh vực giáo dục cho phép các hoạt động giảng dạy, quản lý, học tập,
350
- kiểm tra, đánh giá cũng như toàn bộ hoạt động tương tác giữa người học với
người dạy và nhà trường cùng diễn ra.
Chuyển đổi số trong giáo dục cần có sự tham gia và kết hợp của nhiều
yếu tố, trong đó công nghệ và nguồn lực là hai yêu tố trực tiếp tác động còn
các yếu tố khác bao gồm chiến lược, môi trường, văn hóa là nền tảng, cơ sở
cho giáo dục số phát triển.
Chuyển đổi số trong giáo dục là sự kết hợp của nhiều yếu tố tương thích
mang tính hệ thống, không chỉ bao gồm công nghệ, nguồn nhân lực tham gia vào
quá trình thực hiện đào tạo mà cần có cả các yếu tố như môi trường, chiến lược
và văn hóa. Điều này được thể hiện rõ trong khung chuyển đổi số do tác giả
Bumann và Peter (2019) đề xuất [1]
Khung chuyển đổi số trong giáo dục cấp hệ thống của Bumann và Peter (đã
được dịch sang tiếng Việt) .
Theo khung chuyển đổi số trên, có thể thấy để tiến hành chuyển đổi số
trong giáo dục cần có sự tham gia của cả hệ thống các yếu tố kết hợp với
nhau bao gồm:
Chiến lược giáo dục số: Để vận hành cả hệ thống giáo dục thông minh đòi
hỏi tư duy và năng lực quản lý của lãnh đạo ngành giáo dục cũng như lãnh đạo
các cơ sở giáo dục phải thay đổi, cần phải có các chiến lược phù hợp với tình
hình thực tế, trang bị những hiểu biết về tư duy số để có thể làm chủ và khai thác
351
- có hiệu quả công nghệ với điều kiện thực tế nhằm hướng tới mục tiêu không chỉ
đáp ứng được yêu cầu của thời đại mà còn đi tiên phong, chiếm lĩnh khoa học.
Do đó, các cơ sở giáo dục đi tiên phong trong áp dụng công nghệ khoa học nhằm
tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao là thực sự cần thiết cần thiết.
Môi trường: Để hoạt động giáo dục số được thực hiện cần phải có khung
pháp lý, các quy định thống nhất, hướng dẫn chi tiết cũng như hệ sinh thái số
phục vụ cho việc tổ chức đào tạo, đánh giá, công nhận kết quả và cấp bằng, chứng
chỉ cho đúng đối tượng, đây sẽ là cơ sở cho các đơn vị đào tạo có thể dễ dàng tổ
chức, triển khai hoạt động chuyển đổi số.
Văn hóa giáo dục số: bao gồm các vấn về đề thái độ học tập, hiểu biết về
đạo đức học thuật, tính tự giác, ý thức về học tập suốt đời (lifelong learning).
Trong đó, yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn tới sự thành công của chuyển đổi số
là sự sẵn sàng tiếp nhận của người học, đối với đào tạo trực tiếp, việc kiểm soát
quá trình đào tạo phần lớn thuộc về cơ sở giáo dục và giáo viên, trong khi đối với
đào tạo trực tuyến, người học cũng phải chia sẻ nhiệm vụ này, điều này đỏi hỏi
người học phải có ý thức, thái độ tham gia học một cách tự chủ và cầu thị.
Chuyển đổi số trong giáo dục ở Việt Nam
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ cùng với
việc chuyển đổi nền kinh tế số sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến phân công, cơ cấu lao
động xã hội theo hướng đòi hỏi nguồn nhân lực số chất lượng cao, có khả năng
cạnh tranh trong nền kinh tế mới. Do đó, đòi hỏi phải nhanh chóng chuyển đổi
số trong giáo dục đặc biệt là tại các cơ sở giáo dục đại học là nơi có rất nhiều lợi
thế khi là tổ chức đi đầu về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục,
tuyển sinh và đào tạo.
Đặc biệt, khi đại dịch Covid-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu làm đình
trệ mọi hoạt động kinh tế xã hội, người học không thể đến trường, điều này càng
khẳng định vai trò của công nghệ đối với dạy và học, yêu cầu bức thiết của ngành
giáo dục là phải thay đổi cách dạy, cách học từ trực tiếp sang giáo dục trực tuyến,
mặc dù trước đây giáo dục trực tuyến không mới nhưng trong điều kiện hiện nay,
chuyển đổi số sẽ là một quá trình mà kết quả của nó có thể thay đổi hoàn toàn
diện mạo giáo dục, với cách thức, phương pháp, kĩ thuật, công cụ và phương tiện
mới, lúc này chuyển đổi số trong giáo dục càng cần phải nhanh chóng được triển
khai. Trước bối cảnh đó, trong “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm
2025, định hướng đến năm 2030” được phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg
ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ, đã xác định, “Giáo dục đào tạo là một
trong tám lĩnh vực ưu tiên thực hiện. Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định chuyển
đổi số là một chiến lược đột phá, giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước”. [6]
352
- Ngành giáo dục đặt mục tiêu Việt Nam phải trở thành một trong những
quốc gia tiên phong trong chuyển đổi số giáo dục và đào tạo”, với nhiệm vụ của
ngành giáo dục và đào tạo trong giai đoạn chuyển đổi số được nhấn mạnh như
sau: “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ
số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hoá tài liệu, giáo trình; xây
dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực
tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá
thể hoá. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó
thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối
thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà
và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học.” [2]
Cục công nghệ thông tin (Bộ GD&ĐT) cho rằng, chuyển đổi số trong giáo
dục là việc chuyển đổi cách dạy, cách học, quản trị và quản lý giáo dục dựa trên
công nghệ số hướng tới một hệ thống giáo dục chất lượng tốt, chi phí thấp và tiếp
cận dễ dàng với mọi người dân. Theo đó, chuyển đổi số là việc nhà trường đổi mới
mô hình tổ chức giảng dạy và quản lý, giáo viên đổi mới nội dung và cách dạy dựa
trên bài học điện tử, học sinh được học chủ động hơn, trải nghiệm nhiều hơn qua
tương tác trên môi trường số, từ đó nắm bắt kiến thức dễ hơn và chất lượng giáo
dục được nâng cao hơn; nhờ có học liệu số và môi trường học tập số đó mà mô
hình, cách thức dạy học được đổi mới theo hướng hiệu quả hơn [3]
Như vậy, có thể xác định thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo
ở Việt Nam hiện nay tập trung vào hai nội dung chủ đạo là chuyển đổi số trong
quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu
khoa học (NCKH) [8].
- Chuyển đổi số trong quản lý: số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ
thống cơ sở dữ liệu (CSDL) lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến,
ứng dụng các Công nghệ 4.0 (AI, blockchain, phân tích dữ liệu, ..) để quản lý, điều
hành, dự báo, hỗ trợ các cấp lãnh đạo, quản lý ra quyết định trong lãnh đạo, điều
hành dự báo, hỗ trợ ra quyết định trong ngành GDĐT nhanh chóng, chính xác.
- Chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá gồm: Số hóa học liệu
(sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng e-learning, ngân hàng
câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào
tạo trực tuyến, xây dựng các trường đại học ảo (cyber university).
Riêng đối với các cơ sở giáo dục đại học tại Hội nghị Giáo dục đại học năm
2021 tổ chức sáng ngày 12/12. Bộ Giáo dục đã xác định “Ngay trong năm 2021,
chuyển đổi số phải trở thành một nhiệm vụ chiến lược của mỗi cơ sở giáo dục
353
- đại học, được triển khai nhanh chóng và hiệu quả trong quản trị nhà trường,
trong tuyển sinh và đào tạo, trong đổi mới dạy và học.” theo đó giáo dục đại học
có 5 nhiệm vụ trọng tâm, gồm: Thực hiện công tác tuyển sinh, tự chủ đại học,
chuyển đổi số trong giáo dục, kiểm định đại học và xây dựng hệ thống cơ sở dữ
liệu quốc gia về giáo dục đại học; trong đó chuyển đổi số là chiến lược đột phá
của toàn ngành.
Thực tế giảng dạy trực tuyến tại Trường đại học Thương mại trong thời
gian qua
Tại Việt Nam, nhiều cơ sở giáo dục và các trường học đã áp dụng giảng
dạy trực tuyến trong suốt thời gian diễn ra dịch Covid-19 và Trường đại học
Thương mại cũng không ngoại lệ. Qua quá trình giảng dạy thực tế nhóm tác giả
trình bày một số vấn đề như sau:
Về cơ sở học liệu và hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ công tác
giảng dạy
Đối với hệ thống phần mềm: Ngay khi có kế hoạch triển khai thực hiện
công tác giảng dạy trực tuyến, nhà trường đã triển khai hệ thống phần mềm Trans
tới giáo viên và sinh viên, tổ chức tập huấn kỹ năng sử dụng phần mềm cho toàn
bộ giảng viên và các chuyên viên quản lý giáo dục của nhà trường, thông tin và
gửi hướng dẫn sử dụng phần mềm cũng như tài khoản sử dụng cho tất cả các đối
tượng là sinh viên hiện đang tham gia học tập tại trường nhằm đảm bảo cho việc
dạy và học được tiếp tục diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh. Qua quá trình triển
khai và thực hiện theo đánh giá của giảng viên và sinh viên, phầm mềm hỗ trợ
giảng dạy trực tuyến về cơ bản dễ sử dụng, tiện ích, 100% giảng viên và sinh
viên đều có thể tham gia ngay buổi học đầu tiên.
Đối với hạ tầng viễn thông: Do thực tế nhà Trường chưa trang bị đường
truyền Internet đến từng giảng đường hoặc đến từng khu vực xung quanh giảng
đường để phục vụ cho việc triển khai giảng dạy trực tuyến mà các giảng viên sử
dụng mạng 4G của nhà mạng và phát wifi qua điện thoại để thực hiện giảng dạy,
điều này dẫn đến một số hạn chế nhất định như: buổi học đôi khi bị gián đoán do
mạng 4G không đảm bảo tốc độ truy cập truyền phát, hoặc có những vị trí giảng
đường không thể có được sóng 4G điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình
giảng dạy và chất lượng bài giảng của giáo viên.
Về số hóa dữ liệu, hiện tại trường mới số hóa dữ liệu người học, đối với cơ
sở học liệu phục vụ cho việc học tập hiện vẫn chưa được số hóa, nhà trường đang
trong giai đoạn triển khai xây dựng thư viện thông minh, làm cơ sở upload các
tài liệu học tập để người học có thể tiếp cận qua các nền tảng trực tuyến. Nhà
354
- trường cũng đang lên kế hoạch cụ thể và đồng bộ việc xây dựng kho học liệu số
(như sách điện tử, thư viện điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện
tử, phần mềm học điện tử, phần mềm ứng dụng mô phỏng) nhằm cung cấp điều
kiện học tập, nghiên cứu tốt nhất cho giảng viên và người học.
Về mức độ sẵn sàng tham gia dạy và học trực tuyến của người dạy và
người học
Đối với người dạy phần lớn các giáo viên trong trường là giáo viên trẻ nên
dễ dàng thích ứng với phương thức giảng dạy trực tuyến mà không gặp nhiều trở
ngại, riêng một số giáo viên có tuổi sẽ mất thời gian ban đầu để làm quen với
việc sử dụng phần mềm và thực hiện các thao tác trong quá trình giảng dạy
Về mức độ sẵn sàng đối với học tập trực tuyến của sinh viên, nhóm tác giả
đã khảo sát thu được kết quả cho thấy sinh viên của trường có mức độ sẵn sàng
học trực tuyến thấp hơn rất nhiều so với giáo viên. Trên 80% số sinh viên tham
gia khảo sát (từ các khóa và các chuyên ngành) đều chưa sẵn sàng cho học tập
trực tuyến, vì nhiều lý do trong đó chủ yếu do một số lý do như trang thiết bị và
hạ tầng viễn thông của người học ở một số vùng có băng thông Internet yếu,
người học chưa được chuẩn bị về tâm thế, tinh thần và kỹ năng học tập trực tuyến,
phần lớn sinh viên chưa được tiếp xúc, trải nghiệm với cách thức học kiểu mới
nên còn có tâm lý e dè về tính hiệu quả của việc học trực tuyến cũng như chưa
được hướng dẫn về phương pháp học tập hiệu quả, thích nghi với việc học qua
nền tảng trực tuyến.
Về chất lượng giảng dạy
Mặc dù việc giảng dạy được thực hiện trực tuyến, giảng viên không thể trực
tiếp theo dõi và quan sát hết quá trình học tập của tất cả sinh viên trong lớp,
nhưng các hoạt động tổ chức trên lớp như thảo luận nhóm, tương tác giữa người
dạy và người học vẫn diễn ra bình thường như khi dạy học trực tiếp, thậm chí
nhiều giáo viên đánh giá việc quản lý sinh viên còn hiệu quả hơn so với trực tiếp,
bằng kỹ năng, kinh nghiệm giảng dạy và quản lý lớp học phần lớn các giảng viên
nhanh chóng thay đổi phương thức truyền đạt kiến thức, hạn chế thuyết giảng mà
liên tục đặt các câu hỏi để sinh viên giải quyết vấn đề, điều này buộc sinh viên
phải luôn theo dõi bài giảng và có ý thức tham gia học tập; giảng dạy trực tuyến
cũng tạo điều kiện cho giảng viên có thể nhanh chóng truyền tải, chia sẻ các
thông tin hữu ích ngay lập tức trên lớp giúp cho sinh viên có những trải nghiệm
đa giác quan, dễ hiểu, dễ nhớ, gây tò mò và hứng thú cho người học, đồng thời
tăng tính tương tác, thực hành và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học.
355
- Về kiểm tra và đánh giá kết quả học tập
Việc giãn cách xã hội thời gian qua buộc trường phải tổ chức thi trực tuyến
cho một học kỳ, việc vận hành cách thi này được đa phần sinh viên tham gia ủng
hộ, tuy nhiên nó chỉ mang tính chất tình thế do chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về
cơ sở hạ tầng, hành lang pháp lý mà việc tổ chức kiểm tra, đánh giá vẫn còn
những hạn chế nhất định trong quá trình tổ chức, bởi vì nền tảng giám sát người
học khi họ thi trực tuyến vẫn còn khá nhiều hạn chế đặc biệt trong điều kiện cơ
sở vất chất của trường đang trong giai đoạn hoàn thiện.
Một số khuyến nghị chung nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo
Từ việc phân tích các khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện giảng dạy
trực tuyến tại Trường đại học Thương mại, để thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo
dục và đào tạo, không bỏ lỡ cơ hội mà cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4
mang lại cho ngành GDĐT nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc
đẩy chuyển đổi số trong giáo dục như sau:
Thứ nhất: Từng bước hoàn thiện, đồng bộ cơ sở hạ tầng công nghệ thông
tinphục vụ cho dạy học trực tuyến và chuyển đổi số
Trước tiên, có thể thấy chuyển đổi số đòi hỏi phải phát triển hạ tầng viễn
thông đường truyền, dịch vụ Internet, trang thiết bị CNTT (như máy tính, camera,
máy in, máy quyét), cho nhà trường, giáo viên, học sinh ở một mức độ nhất định
giúp cho việc quản lý, dạy - học có thể được thực hiện một cách bình đẳng giữa
các địa phương, nhà trường có điều kiện hoàn cảnh kinh tế khác nhau - đặc biệt
ở các vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa
đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số (cả về quản lý giáo dục và dạy - học). Để
thực hiện việc này ngành giáo dục không thể đi một mình mà phải đồng hành,
phối hợp với các ngành khác, cần huy động được các nguồn lực xã hội hóa cùng
tham gia thực hiện chung tay hỗ trợ trang thiết bị đầu cuối và tham gia cung cấp
các hệ thống, giải pháp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Thứ hai: Trang bị kỹ năng sử dụng công nghệ, an toàn thông tin, kỹ năng
khai thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng cho cán bộ quản lý, giáo viên và
người học
Trong giai đoạn chuyển đổi số các cơ sở giáo dục không chỉ tập trung đào
tạo kiến thức chuyên môn mà còn cần chú trọng tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ quản lý, giáo viên về kiến thức, kỹ năng CNTT, an toàn thông tin cần thiết
để tác nghiệp trên môi trường số.
- Một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của chuyển đổi số là giáo
viên, giáo viên sẽ là yếu tố hàng đầu và quan trọng nhất quyết định sự thành công
356
- của đào tạo trực tuyến và quá trình chuyển đổi số, là người điều phối quá trình
dạy - học trực tuyến. Việc đầu tư cho nền tảng số phải luôn đi kèm với đào tạo
và phát triển giáo viên ở cả ba mặt kiến thức, kỹ năng và thái độ. Giáo viên cần
phải nắm vững và sử dụng thành thạo các phần mềm giảng dạy, điều này hỗ trợ
rất lớn trong việc truyền tải kiến thức tới người học, và đảm bảo việc giảng dạy
diễn ra suôn sẻ, trôi chảy. Ngoài ra, giáo viên cũng cần tiếp tục đổi mới cách dạy
để duy trì sự chú tâm của học sinh vào các nhiệm vụ và hoạt động học tập cũng
như quản lý được quá trình học tập của người học.
- Đối với người học, các cơ sở giáo dục cũng cần chú trọng tới việc nâng
cao nhận thức, kỹ năng số trong công cuộc chuyển đổi số cho người học. Giáo
dục cần tập trung vào việc trang bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng và thái độ
cần thiết để thích ứng với sự chuyển đổi số trong cuộc sống và công việc. Bên
cạnh đó, cần trang bị kiến thức về an toàn, an ninh mạng, do giảng viên, sinh viên
có thể phải đối diện với một số rủi ro về an ninh thông tin cùng những nguy cơ
tiềm ẩn từ Internet và mạng xã hội.
Thứ ba: Thúc đẩy số hóa dữ liệu, phát triển học liệu mở
Muốn thực hiện hoạt động quản lý và giảng dạy trực tuyến cũng như phục
vụ chuyển đổi số, các tài liệu học tập, dữ liệu quản lý cần phải được số hóa. Vì
vậy, các trường cần có sự đầu tư về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân
lực triển khai) cũng như tài chính để xây dựng kho học liệu số đầy đủ, đạt chất
lượng, đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu, tham khảo của học sinh, sinh viên
ở các cấp học, ngành học, môn học
Ngoài ra, cần có hệ thống học liệu mở, giúp mở rộng cơ hội tiếp cận tri
thức, bởi có kho học liệu mở thì dù ở đâu, thời gian nào, có bị cách ly xã hội như
hiện nay hay không, việc học tập sẽ không bị gián đoạn. Do đó, cac cơ sở giáo
dục cần sẵn sàng trao đổi chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, tài nguyên, cùng hợp tác
xây dựng và phát triển kho học liệu điện tử và học liệu, tăng cường hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực đào tạo trực tuyến.
Thứ tư: Hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý
Để việc chuyển đổi số trong giáo dục có thể sớm được thực hiện, cần có hệ
thống chính sách đồng bộ từ cấp hệ thống đến cấp cơ sở giáo dục. Cơ chế, chính
sách, hành lang pháp lý phải được hoàn thiện, tạo thuận lợi cho chuyển đổi số
trong toàn ngành.
- Để thực hiện được những điều này một trong những việc cần làm đầu tiên
là trong thời gian tới Bộ GDĐT nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý, rà soát,
điều chỉnh các quy định, có các hỗ trợ cho các trường đại học với cơ chế tài chính
357
- và các khung hướng dẫn chung cho quá trình chuyển đổi số như xây dựng cơ sở
hạ tầng để tăng khả năng tương tác và sự linh hoạt cho người học trong môi
trường học tập thực - ảo, số hoá học liệu, phát triển thư viện số, xây dựng lại
khung năng lực giáo viên - giảng viên - cán bộ quản lý phù hợp tạo điều kiện cho
việc chuyển đổi số,
- Tiếp tục ban hành và hoàn thiện những văn bản để hoàn thiện hành lang
pháp lý cho đào tạo trực tuyến như: xây dựng đề án phát triển đào tạo từ xa cho
giai đoạn tiếp theo; xem xét đưa phương thức đào tạo trực tuyến vào quy chế đào
tạo đại học, …. Song song với đó ban hành quy chế bảo đảm chất lượng các
chương trình đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến như quy định chương trình học,
thời lượng học, kiểm tra đánh giá trực tuyến, kiểm định chất lượng, công nhận
kết quả học trực tuyến (khác với học truyền thống); quy định điều kiện tổ chức
lớp học, trường học trên môi trường mạng (kể cả ngắn hạn và dài hạn).
- Việc thu thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo dục và học liệu số cần
có hành lang pháp lý chung phù hợp với các quy định về bản quyền tác giả, sở hữu
trí tuệ, an ninh thông tin, giao dịch điện tử và luật chia sẻ cung cấp thông tin.
- Cần phải có hệ thống các công cụ giám sát, quản lý và đảm bảo chất lượng
giáo dục trực tuyến để đảm bảo tính giá trị của hình thức đào tạo này. Tức là các
thiết chế tạo điều kiện cho giáo dục (enablers) cần phải được chuyển đổi sang số
hóa cả về cách thức thực hiện, từ khâu lấy dữ liệu đầu vào cho đến khâu trích
xuất dữ liệu đầu ra.
Kết luận
Khoa học công nghệ phát triển làm thay đổi đời sống của con người, tác
động tới mọi ngành nghề và lĩnh vực, giáo dục là một trong lĩnh vực được hưởng
những thành quả của công nghệ. Ảnh hưởng này không chỉ đem đến những hiệu
quả trong hoạt động giáo dục mà còn tăng cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng cho
mọi đối tượng người học. Do đó, chuyển đổi số trong giáo dục là tất yếu khách
quan. Để thực hiện chuyển đổi số, không có một công thức chung cho các quốc
gia và các nền giáo dục, do xuất phát điểm về giáo dục và công nghệ của một
quốc gia là khác nhau, do đó mỗi quốc gia cần phải dựa trên năng lực của mình
để có những định hướng, chính sách thay đổi trong quản lý và thực hiện giáo dục.
358
- Tài liệu tham khảo:
[1]. Bumann, Jimmy & Peter, Marc. (2019). Action Fields of Digital Transformation - A
Review and Comparative Analysis of Digital Transformation Maturity Models and
Frameworks.
[2]. Chỉ thị, báo cáo tổng kết năm học và hướng dẫn nhiệm vụ CNTT các năm học của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
[3]. Chuyển đổi số đang ngày càng giúp thay đổi diện mạo ngành giáo dục,
https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=7142
[4]. Hồ sợ dự thảo Đề án chuyển đổi số Quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ.
[5]. Lankshear, Colin; Knobel, Michele (2008). Digital literacies: concepts, policies and
practices. p. 173. ISBN 978-1433101694 – via Google Books. The ultimate stage is that
of digital transformation and is achieved when the digital usages which have been
developed enable innovation and creativity and stimulate significant change within the
professional or knowledge domain.
[6]. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
[7]. Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 phê duyệt Đề án "Tăng cường ứng dụng
CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy-học, NCKH góp phần nâng cao chất
lượng GDĐT giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2925".
[8]. TS.Tô Hồng Nam (2020), “Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Thực trạng
và giải pháp”, Tạp chí Thông Tin và Truyền Thông Số 2 tháng 4/2020, http://
ictvietnam.vn/chuyen-doi-so-trong-linh-vuc-giao-duc-va-dao-tao-thuc-trang-va-giai-
phap-20200522150010574.htm.
359
nguon tai.lieu . vn