Xem mẫu
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
Chuyên đề thanh tra
Chủ đề: Thực trạng hoạt động thanh
tra trong phòng ngừa và xoá bỏ tình
trạng lao động trẻ em
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 1
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm có liên quan
1.1. Khái niệm Thanh tra
1.2. Khái niệm Kiểm tra
1.3. Khái niệm trẻ em.
1.4. Trẻ em bị lạm dụng sức lao động
2. Mục đích, nguyên tắc của cuộc thanh tra
2.1 Mục đích thanh tra
2.2 Nguyên tắc của hoạt động thanh tra
3. Quan điểm của ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra, kiểm
tra đối với tình hình sử dụng lao động trẻ em hiện nay.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng chung hoạt động thanh tra hiện nay.
2. Thực trạng thanh tra đối với tình hình sử dụng lao động trẻ em.
3. Thuận lợi và khó khăn khi tiến hành thanh tra.
IV. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
1. Giải pháp.
2. Kiến nghị với Nhà nước và với địa phương.
2.1. Với Nhà nước.
2.2. Với địa phương.
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo.
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 2
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
I. LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, tình trạng sử dụng lao động trẻ em đang là một hiện tượng
phổ biến và càng ngày càng phát triển. Rất nhiều trẻ em trên thế giới bị bóc
lột sức lao động triệt để và phải làm việc trong những điều kiện nguy hiểm.
Theo số liệu mới nhất của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), có ít nhất 250
triệu trẻ em trong độ tuổi từ 5 đến 14 tuổi tham gia vào các hoạt động kinh tế,
phần lớn trong số này là ở các nước đang phát triển.
Mức độ sử dụng, hình thức sử dụng lao động trẻ em (LĐTE) thay đổi
từ vùng này sang vùng khác và từ nước này sang nước khác. Theo một điều
tra của ILO tại 26 nước, lao động trẻ em có rất nhiều loại khác nhau và tập
trung chủ yếu ở nông thôn và khu vực phi kết cấu. Phần lớn lao động trẻ em
là thuộc dạng làm công.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm có liên quan.
1.1. Khái niệm thanh tra.
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của QLNN, là hoạt động kiểm tra,
xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; Thường được
thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự thủ tục do pháp luật
quy định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu khuyết điểm, phát huy nhân tố
tích cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm, góp phần hoang thiện cơ chế quản lý,
tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
1.2. Khái niệm Kiểm tra.
Theo từ điển tiếng Việt: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh
giá, nhận xét”
1.3. Khái niệm trẻ em.
Khái niệm quyền trẻ em theo pháp luật quốc tế.
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 3
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: Trẻ em là những người dưới 18
tuổi trừ một số nước quy định khác hơn.
Theo luật bảo vệ chăm sóc trẻ em Việt Nam: Trẻ em là những công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi.
- Những người chưa thành niên là những người chưa đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi những người chưa đủ quyền công dân.
- Trẻ em vị thành niên là những người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
1.4. Trẻ em bị lạm dụng sức lao động:
Là trẻ em đi làm ở độ tuổi nhỏ dưới quy định của pháp luật đã đi làm vì
mưu sinh cho bản thân và gia đình mà công việc đó các em chịu trách nhiệm
lớn hoặc quá sức mình, những công việc ảnh hưởng đến sự phát triển về tinh
thần và thể chất.
Theo bộ Luật lao động : Trẻ em từ 15 tuổi được giao kết hợp đồng lao
động trừ một số ngành đặc biệt được sử dụng trẻ em sớm hơn (Ngành nghề do
BLĐTB-XH quy định).
2. Mục đích, nguyên tắc của cuộc thanh tra.
2.1 Mục đích thanh tra:
Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Phát hiện trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
Phát huy nhân tố tích cực.
Góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động QLNN.
Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
2.2 Nguyên tắc của hoạt động thanh tra.
Nguyên tắc thanh tra là tập hợp các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuản
hành động mà các cơ quan QLNN, các tổ chức thanh tra, cán bộ thanh tra
viên phải tuân theo trong quá trình hoạt động thanh tra.
Bao gồm các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1. Hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật.
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 4
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
Nguyên tắc 2. Không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức, các nhân là đối tượng thanh tra.
Nguyên tắc 3. Đảm bảo chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời.
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác Thanh Tra, Kiểm
Tra đối với tình hình sử dụng lao động trẻ em hiện nay.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác Thanh Tra (TTr),
Kiểm Tra (KTr) từ trước tới nay đều nhất quán; pháp lệnh TTr năm 1991 đã
quy định mục đích của TTr, KTr là: “Nhằm phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện
cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, của tổ chức và của công dân”.
Ở nước ta, theo các số liệu điều tra dân số định kỳ các năm 1979, 1989,
1999 và điều tra chọn mẫu giữa các kỳ cho thấy, số trẻ em 13-14 tuổi tham
gia lao động (hoạt động kinh tế) ở thành thị khoảng 18%, ở nông thôn khoảng
38%.
Hơn hai thập kỷ nay, những trẻ em làm việc như người lớn để nuôi mình, nuôi
gia đình không còn là hiện tượng cá biệt. Trong đó, đáng lưu ý nhất là những
trẻ em tha phương, làm những công việc nặng nhọc quá sức với đồng tiền
công thấp kém, rẻ mạt.
Khảo sát điều tra thực trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức
lao động. Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam chủ trì phối hợp với
Bộ LĐTBXH, các viện, trung tâm nghiên cứu xây dựng và triển khai thực
hiện kế hoạch điều tra, đánh giá thực trạng tình hình trẻ em bị lạm dụng sức
lao động trong cả nước.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng hoạt động thanh tra hiện nay.
Về nguyên tắc, trẻ em mới chỉ được quyền làm việc với tư cách là rèn
luyện, tập dượt trong quá trình phát triển thể chất, nhân cách và tinh thần;
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 5
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
chưa được phép tham gia lao động với ý nghĩa là một thành tố của lực lượng
sản xuất xã hội và chưa phải nguồn thu nhập chính đối với gia đình. Điều đó
thể hiện khá rõ ràng trong luật pháp quốc tế và trong nước.
Công ước số 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã quy định, tuổi
tối thiểu được làm việc trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15
tuổi. Còn ở nước ta, Bộ luật Lao động cũng đã nói rõ: Cấm nhận trẻ em chưa
đủ 15 tuổi vào làm việc (những trường hợp ngoại lệ có quy định riêng).
Do các quy định đó nên các nước trên thế giới và ở nước ta hầu như
không tổ chức việc thống kê theo dõi lao động trẻ em thường xuyên. Nhưng
trên thực tế, từ lâu, trẻ em ở nhiều nước đã làm việc với tư cách một lao động
kiếm sống cho mình và cho gia đình, nhất là các em ở độ tuổi 10-14 tuổi.
2. Thực trạng hoạt động thanh tra trong phòng ngừa và xoá bỏ tình
trạng lao động trẻ em.
Trên thế giới:
Tỷ lệ trẻ em tham gia vào các hoạt động kinh tế ở nông thôn cao hơn ở
đô thị. Chín phần mười lao động trẻ em ở nông thôn là làm nông nghiệp hoặc
các hoạt động tương tự. Theo điều tra của ILO, 70% trẻ em làm công trong
các hoạt động nông nghiệp với tỷ lệ ở các em gái cao hơn các em trai (75% và
69%). Ở Châu Mỹ la tinh và khu vực Caribê, hơn 15 triệu trẻ em tham gia vào
thị trường lao động, 56% trong số đó làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp từ
lứa tuổi 5 đến 7 tuổi. Trẻ em nông thôn phải đối phó với những rủi ro tác
động đến sức khoẻ do nghèo đói cũng như những điều kiện xấu trong lao
động nông nghiệp.
Ở các đô thị, phần lớn trẻ em làm việc trong lĩnh vực buôn bán và dịch
vụ (8,3%), sản xuất trong khu vực phi kết cấu (14,3%). Nghề nghiệp có thể
rất đa dạng như khai thác nhỏ, làm gạch, chế biến thực phẩm, làm hàng thủ
công, đan thảm, v.v.. Với những công việc ngoài đường phố, trẻ em có thể dễ
dàng tiếp xúc với các tệ nạn xã hội khiến sức khoẻ, tinh thần và sự phát triển
tình cảm của chúng bị huỷ hoại. Những mối nguy hại đe doạ trẻ em thay đổi
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 6
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
tuỳ thuộc vào loại hình lao động và điều kiện lao động. Tuy nhiên cũng có thể
kể ra một số nguy hại chung đe doạ phần lớn trẻ em như điều kiện vệ sinh
kém, không có phương tiện bảo vệ cá nhân hoặc có nhưng không đạt yêu cầu,
không gian và thiết bị lao động không phù hợp, máy móc và công cụ lao động
cũ kỹ và hỏng hóc, những căng thẳng về thể lực, làm việc nhiều giờ và lương
thấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của trẻ em.
Những mối nguy hại đe doạ trẻ em thay đổi tuỳ thuộc vào loại hình lao
động và điều kiện lao động. Tuy nhiên cũng có thể kể ra một số nguy hại
chung đe doạ phần lớn trẻ em như điều kiện vệ sinh kém, không có phương
tiện bảo vệ cá nhân hoặc có nhưng không đạt yêu cầu, không gian và thiết bị
lao động không phù hợp, máy móc và công cụ lao động cũ kỹ và hỏng hóc,
những căng thẳng về thể lực, làm việc nhiều giờ và lương thấp. Phần lớn các
em này làm việc 7 ngày/ tuần và bị trả lương thấp hơn người lớn tại đó. Trẻ
em làm việc trong những nghề nguy hiểm phải tiếp xúc với các loại hoá chất
độc hại, bụi, khói và khí, các tác nhân lý học và sinh học độc hại. Một tỷ lệ rất
lớn trẻ em bị tổn thương do lao động. Những chấn thương nghề nghiệp
thường gặp là bị thương do công cụ lao động, bị nhiễm trùng mắt, viêm da,
rối loạn hệ hô hấp, cảm nhiệt, ngộ độc do sử dụng hoá chất và thuốc trừ sâu.
Những đứa trẻ này còn phải chịu đựng sự mệt mỏi, khó chịu của các bệnh
không phải bệnh nghề nghiệp, sự chẩn đoán sai bệnh cũng đóng góp thêm vào
các yếu tố không phải do nghề nghiệp. Mặc dù, là những nạn nhân vị thành
niên của những bệnh tật và mất năng lực liên quan đến lao động nhưng trong
phần lớn các trường hợp, những đứa trẻ này không được hưởng các dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ xứng đáng.
Ở Việt Nam:
Hơn 1.200 trẻ em phải lao động sớm.
Tại Hà Nội, tổng số trẻ em từ 6 đến 16 tuổi phải lao động sớm là 352,
nữ chiếm 74% . Trong đó, có 167 em làm giúp việc trong các gia đình, 116
em làm việc trong các nhà hàng, cơ sở dịch vụ, 15 em trong các cơ sở sản
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 7
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
xuất, 44 em làm các công việc khác... Các em có thu nhập bình quân 500.000
- 750.000 đồng một tháng.
Tại TP HCM, có 750 lao động trẻ em, chuyên đi bán vé số, bán báo,
phụ hồ... Mức thu nhập của trẻ từ 300.000 đến 700.000 đồng một tháng.
Số liệu từ Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP HCM,
có đến 70% trong số 45.000 doanh nghiệp cùng hàng chục nghìn cơ sở kinh
doanh nhỏ lẻ, kinh tế hộ gia đình đang hoạt động trên địa bàn không có giấy
phép đăng ký kinh doanh.
Qua kiểm tra, có 62 trong 173 cơ sở được kiểm tra có sử dụng đến 149
lao động trẻ em (LĐTE). Trong đó, cơ sở không có giấy phép kinh doanh
chiếm 69%, cơ sở không có đăng ký lao động chiếm 85,5%. Số lượng lao
động trẻ em tập trung nhiều tại hai quận Tân Bình và Bình Tân. Các em làm
việc trong điều kiện vất vả, không được ký hợp đồng lao động, thời gian làm
việc 10-14 giờ/ngày. Mức thu nhập mỗi em ở các cơ sở này chỉ trên dưới
330.000 đồng một tháng, không có khoản phụ cấp nào khác. Tất cả các em lao
động tại các cơ sở đều bỏ học, không được quan tâm đến kỹ năng sống, nhiều
em bị lạm dụng sức lao động.
Lao động trẻ em trong
một cơ sở may gia
công
tại quận Bình Tân.
(ảnh minh họa)
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 8
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
Một cán bộ Phòng LĐ-TB-XH quận Tân Phú, cho biết, vừa phát hiện
một cơ sở có sử dụng LĐTE với chuỗi thời gian kín mít: ca sáng 7 - 12h,
chiều 13 - 17h, tối từ 18 - 24h. Khi đơn hàng về nhiều, việc các em làm thêm
đến 2 - 3 h hôm sau là chuyện bình thường. Tính "rộng rãi", sau 1 giờ "bán
sức", LĐTE được trả công… 1.000 đồng. Những LĐTE này thường không
thuê phòng riêng để ở mà ăn ngủ ngay tại xưởng sản xuất hoặc nhà của chủ cơ
sở, trong khi môi trường, vệ sinh an toàn lao động không đảm bảo.
Vài năm gần đây, khi nhiều doanh nghiệp phát hiện nguồn lao động giá
rẻ vô tận tại các xóm lao động nghèo, các sản phẩm cần lao động thủ công:
thêu trang trí quai, quốc, dép; may đồ gia công được đưa về tận xóm, trẻ em
nghiễm nhiên trở thành một lao động chính trong gia đình. Toàn bộ nguyên
liệu: quai guốc, kim, chỉ, hạt nhựa do chủ cung cấp. Công việc mỗi ngày của
các em là ngồi kết theo đúng nguyên mẫu đưa xuống. Một em kể rằng, mới
nhìn qua thì có vẻ nhẹ nhàng nhưng ngồi kết từ 7 giờ sáng, trưa nghỉ 1 tiếng
rồi làm đến 9, 10 giờ đêm thì mỏi lưng không chịu được. Tuy nhiên, so với
nhiều đứa trẻ ngoại tỉnh khác, em còn may mắn hơn vì chỉ làm với mẹ, mỏi
quá thì nghỉ nhưng vẫn phải đảm bảo số lượng sản phẩm đạt 10.000 đến
15.000 đồng/ngày. Chịu áp lực nhiều nhất là những đứa trẻ bị ở chung với
chủ, được cha mẹ gửi lên theo diện người quen, nhận lương trọn gói từ 4 triệu
đến 8 triệu/năm/người, tùy theo tính chất công việc: cắt chỉ, may, thêu…
Mang tiếng là ở cơ sở sản xuất nhưng thực tế chỉ là ngôi nhà thuê tạm
bợ, con gái tập trung ngủ ở gác trên, con trai ngủ ở phía dưới. Mọi giờ giấc
sinh hoạt, ngủ nghỉ đều bị kiểm soát rất chặt. Thời điểm hút hàng, các em phải
làm từ sáng đến tận khuya.
Thất học, mù chữ, không có điều kiện phát triển đầy đủ cả về thể thất
lẫn tinh thần, dễ bị lạm dụng… Có cả ngàn lẻ những hệ lụy cho những đứa trẻ
phải lao động sớm. Hành lang pháp lý để xử phạt các cơ sở vi phạm sử dụng
lao động trẻ em, các bậc phụ huynh, những người có trách nhiệm giám sát các
em đã từng bước dần được hoàn thiện nhưng để vận dụng xử phạt và xử lý
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 9
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
dứt điểm tình trạng vi phạm này trong thực tế thì ngay cán bộ cơ sở cũng còn
nhiều lúng túng.
Theo kết quả thanh tra, kiểm tra mới đây của Sở lao động, Thương binh
và xã hội TP HCM, có 69,4% số cơ sở bị kiểm tra không có giấy phép kinh
doanh, 85,5% số cơ sở này không đăng ký lao động, 96,8% không có sổ bảo
hiểm xã hội. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả theo khai báo của chủ cơ sở.
Thực tế, có cả ngàn lẻ một phương thức để các chủ cơ sở "lách luật":
Không khai báo tạm trú tạm vắng, khai báo ít hơn nhiều lần con số thực, khai
khống tuổi hoặc nhận dưới dạng nuôi con cháu để phụ giúp công việc trong
nhà… Đó là chưa kể phần lớn các chủ cơ sở lẫn đối tượng lao động trẻ em
đều là người ngoại tỉnh, đến địa bàn thuê nhà tạm thời. Có khi văn bản phạt
hành chính đưa đến nơi thì tất cả đã di chuyển đi nơi khác. Nhiều cơ sở chấp
nhận phạt vì thực tế, so với mức lợi nhuận thu về thì tiền phạt chưa đáng bao
nhiêu…
3. Thuận lợi và khó khăn khi tiến hành thanh tra.
3.1 Khó khăn.
- Quy định pháp luật liên quan đến LĐTE nằm ở nhiều văn bản pháp
luật khác nhau gây khó khăn cho việc áp dụng. Mặt khác, chưa có văn bản
hướng dẫn về danh mục những công việc nặng nhọc. Nguyên nhân của tình
trạng này là do chưa có sự thống nhất giữa quy định trong Bộ Luật lao động
và Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Cụ thể Bộ Luật lao động quy
định trẻ từ 15 tuổi trở lên đã được lao động, nhưng Luật Bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em lại quy định trẻ 16 tuổi trở xuống vẫn được bảo vệ và chăm
sóc”.
- Với rất nhiều gia đình hoàn cảnh khó khăn, con số vài triệu đồng tiền
công mỗi năm của con em từ thành phố gửi về là khoản tiền rất lớn, phải cậy
nhờ quen biết mới có được suất lao động ấy. Thế nên, làm thế nào để hạn chế
tình trạng vi phạm sử dụng lao động trẻ em, lạm dụng việc trẻ em lao động
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 10
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
hiện nay vẫn là câu hỏi không dễ giải quyết với các địa phương tại các thành
phố lớn.
- Trở ngại lớn nhất trong việc ngăn chặn nạn sử dụng LĐTE trái phép
là chính quyền không nắm bắt được tình hình này. Tại quận Bình Tân
(Tp.HCM), nơi được xem là địa bàn "nóng" về sử dụng LĐTE trái phép,
nhiều chủ lao động thuê nhà xưởng tạm bợ để đưa các em vào làm việc (như
đi gõ hủ tíu, may gia công, làm giày…). Nếu bị kiểm tra, xử phạt, họ lập tức
dọn đi chỗ khác. Vì trẻ em lang thang tại thành phố là người ngoại tỉnh, vì thế
việc nắm thông tin lại càng khó.
Nắm rõ sự biến động dân cư trên địa bàn là cảnh sát khu vực, song một
phường thường có đến 15.000 nhân khẩu mà chỉ có một cán bộ chuyên trách
nên "quản lý không xuể". Việc kiểm tra cơ sở có dấu hiệu sử dụng LĐTE trái
phép cũng gặp nhiều khó khăn, vì trước khi tiến hành kiểm tra, phải báo trước
cho cơ sở, do đó khi xuống đến nơi gần như không phát hiện gì, nếu có thì chỉ
xử phạt những lỗi vi phạm hành chính không đáng kể và cũng không đủ sức
răn đe.
- Các quận, huyện ngoại thành rất khó kiểm soát vì số lượng hộ nhập
cư nhiều và không ổn định.
- Các hộ này tuyển dụng trẻ em vốn cùng quê với chủ và đưa vào TP
làm việc, rồi nói với người xung quanh rằng các em là con cháu trong gia
đình vào làm việc.
Qua kiểm tra cho thấy các em chỉ lao động ở khu vực ít bị kiểm soát,
không ai để ý. Các em lại ít được tiếp xúc với người xung quanh. Một số
trường hợp chủ cơ sở đưa các em vào làm việc sau nhà, trên lầu cao. Do đó,
nhiều lúc cộng đồng cũng không phát hiện được. Trong điều kiện hộ nhỏ lẻ
như nhà riêng không đăng ký kinh doanh, không báo cáo thuế, không báo cáo
lao động, quy mô sản xuất dạng gia đình thì rất khó phát hiện và cũng khó xử
lý.
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 11
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
3.2 Thuận lợi
- Trong tháng 9 và Quý III/2009, kết thúc thanh tra việc thực hiện pháp
luật lao động thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động đối với lao động
chưa thành niên tại các tỉnh Hà Nam, Bình Phước, Bình Thuận và Tp Hồ Chí
Minh.
- Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc liên quan đến lạm dụng sức lao động
trẻ em.
IV. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ.
1. Giải pháp.
Xử lý những vấn đề nói trên, không phải đơn giản. Bởi trên thực tế, các
nguyên nhân có sự đan xen, lồng quyện tác động qua lại lẫn nhau. Vì thế,
muốn tìm kiếm một giải pháp độc lập hữu hiệu, màu nhiệm là việc rất khó.
Chúng ta cần thực hiện cùng lúc nhiều giải pháp tạo ra một hợp lực cùng
chiều để giải quyết thì mới đạt hiệu quả cao.
- Nhóm giải pháp thứ nhất là gia đình và xã hội cùng có trách nhiệm
với trẻ em. Điều có tính quyết định nhất là, người làm cha, làm mẹ hơn ai hết
phải ý thức được nghĩa vụ của mình với con cái; mỗi tính toán, mỗi sự định
đoạt của cha mẹ là một định hướng cuộc đời tương lai của các con, vì thế
không vì nghèo túng, không vì bức xúc bởi đồng tiền, bát gạo mà bắt con cái
phải bỏ học, sớm dấn thân vào những công việc quá nặng nhọc, lam lũ, đánh
mất tuổi thơ trong trắng. Trong trường hợp này, về phía Nhà nước và cộng
đồng phải thông qua các chính sách tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, miễn
giảm học phí, viện phí, cứu trợ xã hội... để giúp họ có thể vượt qua khốn khó.
- Nhóm giải pháp luật pháp, chính sách, quản lý: Phải nhấn mạnh hơn
nữa việc chống lạm dụng sức lao động trẻ em. Trong chương trình hành động
bảo vệ và phát triển trẻ em Việt Nam (được Chính phủ quyết định từ thập niên
cuối cùng của thế kỷ trước) và trong chỉ đạo thực hiện chương trình này, cho
đến nay hầu như mới chỉ tập trung nhiều vào bốn loại vấn đề là sức khỏe cho
mọi trẻ em; giáo dục tiểu học; chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần; quan tâm
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 12
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Một chừng mực nào đó có nói đến
giáo dục trẻ em hư, phạm pháp, nhưng chưa đề cập thỏa đáng đến việc chống
lạm dụng sức lao động trẻ em là vấn đề xuất hiện và phát triển khá nhanh
trong nền kinh tế thị trường.
Năm 1994, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Lao động và Luật có
hiệu lực từ 01-1-1995. Điều 119 khoản 2 nói “Nghiêm cấm lạm dụng sức lao
động của người chưa thành niên”, nhưng từ đó đến nay, các cơ quan hữu trách
cũng chưa giám sát, kiểm tra, kiểm soát xem điều khoản này được thực hiện
như thế nào. Trong nền kinh tế thị trường và trong tình hình hiện nay, phải
nhấn đậm vấn đề bảo vệ và phát triển của trẻ em, triệt để chống lạm dụng sức
lao động trẻ em. Vì nếu trẻ em lâm vào tình trạng lao động sớm, làm việc quá
sức thì các mục tiêu bảo vệ sức khỏe, giáo dục đào tạo, văn hóa tinh thần...
đều khó mà thực hiện được. Mặt khác, các cơ quan chức năng phải tổ chức
nhiều đợt kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện Điều 119 khoản 2 Bộ
luật Lao động và xử lý vi phạm một cách nghiêm khắc, khách quan.
- Nhóm giải pháp thứ ba là tuyên truyền vận động (trong đó phải quan
tâm nhiều đến khu vực nông thôn): Trong nhiều thông tin khó đến được các
vùng nông thôn xa xôi thì có thông tin về lao động và việc làm. Trong thông
tin về lao động và việc làm thì các thông tin về lạm dụng sức lao động trẻ em
và biện pháp ngăn ngừa lại càng ít ỏi và hầu như không có. Do thiếu thông
tin, nên có những gia đình cho con thôi học để ra thành phố kiếm sống với
mong muốn vừa bớt được nhân khẩu phải nuôi, vừa đỡ đần được cha mẹ, khi
xảy ra hậu quả nặng nề thì đã muộn. Thiết nghĩ, các chương trình thời sự,
chương trình vì trẻ thơ, chương trình thiếu niên nhi đồng của đài truyền hình,
đài phát thanh phải nói kỹ, nói rõ, nói theo cách dân dã để ông bà, cha mẹ các
cháu hiểu được vấn đề.
Các chương trình văn hóa, văn nghệ cũng cần đề cập sâu sắc tới vấn đề
này. Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên phải phổ biến các kiến thức thiết thực
đến các em. Các cơ quan chức năng của Nhà nước phải giới thiệu, phổ biến,
tập huấn sâu rộng Bộ luật Lao động (chương 11, mục lao động chưa thành
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 13
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
niên) đến mọi người dân, có lưu ý đầy đủ đến những người sử dụng lao động
nhất là các cơ sở, các hộ tư nhân sản xuất, kinh doanh.
2. Kiến nghị với Nhà nước và địa phương.
2.1 Với Nhà nước.
Nhà nước giữ vai trò chủ chốt trong việc phát triển và thực hiện các
chính sách dài hạn để loại bỏ hẳn LĐTE. Sau đây là 4 hình thức hoạt động cơ
bản chống lại LĐTE chỉ có thể do Nhà nước (chính phủ) thực hiện:
a) Luật pháp về LĐTE và các cơ chế tăng cường phù hợp.
b) Một chính sách quốc gia về LĐTE đưa ra những ưu tiên công cộng
liên quan tới mọi thành phần xã hội.
c) Thiết lập một hệ thống cơ sở giáo dục đảm bảo chất lượng học
đường (thể chất cũng như kinh tế) đối với mọi trẻ em, kể cả những gia đình
nghèo nhất.
d) Các chính sách hữu hiệu cho việc tạo việc làm cho người lớn.
Để xử lý vấn đề này một cách căn bản, có hiệu quả, Nhà nước cần tiến
hành một cuộc điều tra để đánh giá đúng hiện trạng, từ đó đưa ra những giải
pháp thích hợp.
Ðối với số trẻ em lao động làm thuê tại các cơ sở sản xuất tư nhân, cá
thể tại các địa bàn, UBDSGÐ & TE đã phối hợp với Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội, các quận huyện tổ chức các đợt kiểm tra, giám sát theo định
kỳ để nắm bắt các vấn đề liên quan đến trẻ như: môi trường làm việc, chăm
sóc sức khỏe, giờ giấc làm việc, tiền công, hợp đồng lao động,...
2.2. Với địa phương :
- Đề nghị UBNDTP, sở Lao động Thương binh và Xã hội, Ủy ban dân
số - gia đình và trẻ em cùng quận huyện phải có sự quyết tâm trong việc triển
khai thực hiện có hiệu quả việc quản lý lao động trẻ em trên địa bàn, giảm
mạnh tình trạng lạm dụng và bóc lột sức lao động trẻ em, giảm tối đa và tiến
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 14
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
tới nghiêm cấm hoàn toàn việc sử dụng lao động trẻ em trong điều kiện làm
việc nặng nhọc và độc hại trên địa bàn thành phố.
- UBND thành phố chỉ đạo ngay Sở Lao động –thương bình và xã hội
tiến hành thực hiện việc kiểm tra tình hình lao động của trẻ tại các cơ sở có sử
dụng trẻ em.
- Xác định trách nhiệm của UBND phường – xã trong việc ngăn chận
trẻ lao động, phát hiện trẻ lao động sớm ở trên địa bàn, phát huy vai trò của
các đoàn thể ở địa phương, đặc biệt là Ðoàn TNCSHCM trong việc phát hiện
trẻ lao động sớm, tập hợp, chăm lo và bảo vệ quyền lợi của trẻ em lao động tự
do trên địa bàn, giúp các em vừa lao động, vừa học tập văn hóa và học nghề.
Giải pháp tích cực nhất hiện nay vẫn chủ yếu là tuyên truyền cho chính
các chủ cơ sở sử dụng lao động và sự tích cực tạo điều kiện, giúp đỡ các em
được đến với các lớp học văn hóa bổ túc ban đêm, các sinh hoạt vui chơi giải
trí dịp lễ, Tết và thành lập, cung cấp những địa chỉ tin cậy cho các em tìm đến
cầu cứu kịp thời trong trường hợp bị lạm dụng qua mức…
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 15
- Chuyên đề Thanh tra GVHD: Ths. Đặng Thị Phương Lan
KẾT LUẬN
Do LĐTE có cội nguồn từ sự nghèo khó, việc loại trừ hẳn LĐTE sẽ mất
thời gian và đòi hỏi những cải thiện dần dần về mức sống và các điều kiện
kinh tế - xã hội của nhiều đất nước. Tuy nhiên, nếu nguồn tài chính có hạn,
việc bảo vệ trẻ em từ những nghề nghiệp độc hại nhất cũng không thể chờ đợi
những thay đổi cơ chế hoặc những cải thiện đáng kể về mức sống chung của
đất nước đó. Một số nước đang phát triển ở châu Á và Mỹ la tinh đã giảm
được đáng kể tỷ lệ LĐTE ngay cả khi mức tăng trưởng và phát triển kinh tế
thấp. Trẻ em cần phải trải qua một qúa trình phát triển thể lực, trí tuệ và xã
hội. Dù trẻ em có làm gì thì công việc đó cũng phải phù hợp với sự phát triển
về thể lực, tâm lý - xã hội của chúng. Mọi đòi hỏi đều phải phù hợp với tình
trạng sức khoẻ của chúng, cho chúng khả năng phát triển để phục vụ xã hội
như người lớn mà không làm tổn thương đến sức khoẻ và tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí Thanh tra.
Báo Đất Việt
http://tintuconline.vietnamnet.vn
http://tim.vietbao.vn/
http://vnexpress.net/
SVTH: Nguyễn Văn Huy – C11CT2 16
nguon tai.lieu . vn