Xem mẫu

  1. CHƢƠNG Khoa Ngữ văn, Trƣờng Đại TRÌNH NGỮ học Sƣ phạm Thái Nguyên VĂN THPT SAU NĂM 2015 – Điện thoại: 0989793169 HƢỚNG TIẾP Email: CẬN NĂNG ngothanhquy2007@gmail.com LỰC NGƢỜI HỌC TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ TÓM TẮT Việc xây dựng chƣơng trình Ngữ văn THPT sau năm 2015 cần căn cứ vào: Quan điểm, mục tiêu và chuẩn đầu ra của chƣơng trình giáo dục. Công việc phát triển chƣơng trình giáo dục phổ thông môn học Ngữ văn cần tập trung vào các vấn đề cơ bản nhƣ: Xây dựng các chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh; Rèn năng lực ngôn ngữ, giao tiếp ở ngƣời học thông qua 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết . Từ khoá: Chƣơng trình, Ngữ văn, trƣờng Trung học phổ thông, năng lực ABSTRACT Literature and Language arts curriculum for high schools after 2015 - learners’ ability approach The construction of the Literature and Language arts curriculum for high schools after 2015 should be based on: the views, objectives and outcomes of the education program. The Literature and Language arts curriculum development for high schools should focus on several basic issues such as constructing thematic learning and creative experience activities for students, training linguistic and communicative competence with four skills: listening, speaking, reading and writing. Key words: Curriculum, Literature and Language arts, high school, ability 1. 423
  2. Trong nhà trƣờng phổ thông, môn Ngữ văn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách, tài năng con ngƣời. Theo sự phát triển của lịch sử, trải qua các thời đại khác nhau, ở cả phƣơng Đông và phƣơng Tây, văn học luôn chứng tỏ và khẳng định ƣu thế vƣợt trội trong giáo dục ở nhà trƣờng. Bộ môn Ngữ văn không chỉ giúp cho ngƣời học có lợi thế trong rèn luyện, phát triển năng lực tƣ duy logic, trí tƣởng tƣợng phong phú,các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ mà văn học còn giúp cho đối tƣợng đƣợc giáo dục biết cảm thụ những giá trị đích thực của nghệ thuật. Từ vẻ đẹp: Chân – Thiện – Mỹ của văn chƣơng mà hình thành ở ngƣời học cách ứng xử và hành động đẹp trong thực tiễn đời sống xã hội. Tuy nhiên trong những năm gần đây các môn khoa học xã hội và nhân văn không còn giữ đƣợc vị thế vốn có của nó. Sự phát triển của kinh tế thị trƣờng đã khẳng định những mặt tích cực dễ nhận thấy, nhƣng những mặt trái của nó đang cảnh báo những nguy hại của lối sống hƣởng thụ và thực dụng của một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên. Trong bối cảnh đó sự cởi mở về phƣơng pháp luận nhận thức trong khoa học xã hội và nhân văn đem đến cho ngƣời viết, ngƣời đọc, ngƣời học và ngƣời dạy văn cách tiếp cận đa chiều, tránh sự áp đặt gò gƣợng, khiên cƣỡng. Cũng từ nhiều cách tiếp cận dẫn đến các quan niệm, khuynh hƣớng khác nhau trong tổ chức dạy và học văn ở trƣờng phổ thông. Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành cũng đã hoàn thành đƣợc sứ mệnh trong một giai đoạn lịch sử nhất định và có những thành tựu đáng trân trọng về lý luận và thực tiễn trên các phƣơng diện nhƣ: cung cấp kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là văn học Việt Nam). Chƣơng trình sách giáo khoa hiện hành đƣợc xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nƣớc, hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mỹ văn học, văn hoá, tƣ duy,... Bên cạnh đó chƣơng trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện hành cũng bộc lộ những bất cập. Để thích ứng với nền giáo dục “ứng thí” dạy học văn đã hƣớng học sinh theo những định dạng khuôn mẫu, cơ học. Thực tế đó làm cho năng lực cảm thụ văn học của cả ngƣời dạy và ngƣời học hạn chế, tính định hƣớng khoa học và năng lực, kỹ năng trải nghiệm sáng tạo còn mờ nhạt. Mỗi khi có cơ hội rà soát lại chúng ta sẽ có những nhận định khách quan để điều chỉnh, những gì mà mục tiêu chƣơng trình SGK hiện hành định hƣớng chúng ta chƣa thực hiện đƣợc thì chƣơng trình SGK sau năm 2015 sẽ có cơ hội khắc phục, hoàn thành tiếp sứ mệnh cao cả. 2. 424
  3. Việc xây dựng chƣơng trình Ngữ văn THPT sau năm 2015 cần căn cứ vào các yếu tố nhƣ: Quan điểm phát triển chương trình giáo dục phổ thông, đổi mới chƣơng trình giáo dục phổ thông nhằm phát triển năng lực và phẩm chất, hài hòa đức, trí, thể, mỹ của học sinh. Nội dung giáo dục tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh; coi trọng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, văn hoá pháp luật và ý thức công dân, tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, kiến thức quốc phòng, an ninh và giáo dục thể chất. Mục tiêu chương trình giáo dục cấp Trung học phổ thông: Học sinh đƣợc phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, con ngƣời cá nhân và con ngƣời xã hội trên cơ sở duy trì, tăng cƣờng và định hình các phẩm chất và năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở; có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản đƣợc định hƣớng theo lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp với năng khiếu và sở thích; phát triển năng lực cá nhân để lựa chọn hƣớng phát triển, tiếp tục học lên hoặc bƣớc vào cuộc sống lao động với phẩm chất, năng lực của một công dân. Một căn cứ không thể thiếu của khâu phát triển chƣơng trình là những quy định về Chuẩn đầu ra của chương trình giáo dục. Trƣớc hết, chƣơng trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất: Yêu gia đình, quê hƣơng, đất nƣớc; Nhân ái, khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công vô tƣ; Tự lập, tự tin, tự chủ và có tinh thần vƣợt khó; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nƣớc, nhân loại và môi trƣờng tự nhiên; Tôn trọng, chấp hành kỷ luật, pháp luật và thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Chƣơng trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho học sinh các năng lực chung và năng lực chuyên biệt nhƣ: a) Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân: Năng lực tự học; Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực sáng tạo; Năng lực tự quản lý. b) Nhóm năng lực về quan hệ xã hội: Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác. c) Nhóm năng lực công cụ: Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT); Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng lực tính toán... [1, tr 1- 4]. 3. Khi xác định đƣợc mục tiêu, chuẩn đầu ra của chƣơng trình giáo dụcTHPT, công việc phát triển chƣơng trình giáo dục phổ thông môn học Ngữ văn cần tập trung vào định hƣớng phát triển năng lực ngƣời học. Để thực hiện đƣợc điều đó cần: * Xây dựng các chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho HS THPT + Mục đích: Chuyên đề tăng cƣờng sự tích hợp, phân hoá kiến thức ở ngƣời học; Dạy cho ngƣời học biết vận dụng kiến thức, kỹ năng một cách tổng hợp để giải quyết 425
  4. những vấn đề trong học tập và cuộc sống, phát triển năng lực tự học, năng lực giải quyết các vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lý, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. + Nội dung các hoạt động giáo dục cần hƣớng đến mục đích gắn HS với đời sống xã hội, tăng cƣờng những hiểu biết chung về cộng đồng và những vấn đề thời sự của địa phƣơng, đất nƣớc, rèn luyện đạo đức, kỹ năng sống, phát huy các tiềm năng của cá nhân một cách thực tế. + Chƣơng trình thiết kế: Yêu cầu tăng cƣờng năng lực tự học, tự nghiên cứu ở ngƣời học. Ngƣời học tăng cƣờng khả năng nghiên cứu bài học bằng nhiều cách có thể sáng tạo viết tiểu phẩm, truyện cổ tích, truyện cƣời, diễn xƣớng, chuyển thể tác phẩm thành kịch bản sân khấu... Tăng cƣờng tích hợp liên môn: Văn – Sử – Địa, văn học – văn hoá – nghệ thuật … vì “Tƣ duy liên môn, liên ngành sẽ tạo ra khả năng sáng tạo ở ngƣời học” [3]. Nên xây dựng các chuyên đề tự chọn, có nhiều yếu tố gắn với văn học, văn hoá, địa lý, lịch sử địa phƣơng; Ví dụ: Tích hợp Văn – Sử qua các chuyên đề: Chống quân xâm lƣợc phƣơng Bắc qua: Phú sông Bạch Đằng và Bình Ngô đại cáo; Ngôn ngữ dân tộc và tình yêu tổ quốc; Văn học cách mạng và vấn đề chủ quyền lãnh thổ; Văn học dân gian và văn hoá dân tộc. Ngôn ngữ cử chỉ và việc bày tỏ ý kiến; Ta là sản phẩm của chính mình; Nhìn ra văn học thế giới qua các tác phẩm văn học nƣớc ngoài;... + Về phƣơng pháp tổ chức dạy và học, chúng ta nên thiết kế chƣơng trình theo chủ đề. Cho cá nhân học sinh, hoặc nhóm học sinh đăng ký các dự án học tập trải nghiệm sáng tạo theo nội dung tri thức đƣợc giới thiệu trong chƣơng trình. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh cách thực hiện. Tên dự án; mô tả việc thực hiện dự án (tìm thông tin, xây dựng kịch bản, xử lý các tình huống), hoàn thành dự án; dự kiến thời gian, địa điểm, kinh phí thực hiện; sản phẩm của dự án (có thể: một bài thuyết trình về chủ đề, mở một trang website để giới thiệu, làm một video, chuyển thể một kịch bản, công bố một vai diễn,...); đăng ký thời gian công bố sản phẩm; những đề nghị với giáo viên nếu có... Vấn đề then chốt của chuyên đề tự chọn là chuyển cách tiếp cận giáo dục từ nội dung (dạy kiến thức các môn học nhƣ hiện nay) sang cách tiếp cận năng lực (năng lực hành động và thích ứng, giao tiếp và ứng xử, năng lực tự học và tự khẳng định). * Rèn năng lực ngôn ngữ, giao tiếp ở người học thông qua 4 kỹ năng: Nghe – Nói – Đọc – Viết Trước hết là kỹ năng nghe: Đây là năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin, từ đó hình thành năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. Nhƣ vậy, nghe không phải là hoạt 426
  5. động thụ động mà là một kỹ năng cần sử dụng để nhận biết mục đích, ý nghĩa của lời nói. Nghe – hiểu tức là khi ngƣời nghe hiểu đƣợc ngƣời nói đang nói gì để có những ứng đáp và giao tiếp hợp lý. Với chƣơng trình SGK mới phải giúp ngƣời học hiểu mục đích nghe, điều đó khiến các em trở nên chăm chú hơn. Trƣớc mỗi bài học, SGK cần giới thiệu khái quát về bài học. Ví dụ: Bài học gồm mấy phần, có những nội dung nào, kiến thức trọng tâm, mục đích, yêu cầu của bài học là gì… để cuối giờ các em có sự liên kết lại các vấn đề và chú tâm hơn khi nghe giảng. Cuối mỗi bài học cần có sự tóm tắt lại những nội dung đã học trong bài để học sinh có cái nhìn tổng quát. Xuất phát từ kỹ năng nghe mà sau này có đƣợc sự lắng nghe trong cuộc sống, lắng nghe và thấu hiểu là phạm trù sâu sắc hơn trong kỹ năng sống của mỗi con ngƣời. Kỹ năng nói là phát biểu thành lời những suy nghĩ của mình. Ngƣời Việt có câu: “ăn không nên đọi nói không nên lời”, điều đó cũng là một thực tế trong giáo dục, có những học sinh sau khi tốt nghiệp THPT nhƣng khả năng phát biểu thành lời ý kiến của mình thì không rõ, ngƣời nghe không hiểu. Trong thực tế hai kĩ năng nghe – nói đi liền với nhau. Vì vậy, chƣơng trình SGK cần đƣợc xây dựng để đáp ứng cả hai yêu cầu: kĩ năng nghe và nói, diễn đạt ý tƣởng của mình bằng những câu rõ ràng, mạch lạc trong giao tiếp đó là điều cần thiết. Chƣơng trình và SGK rất cần chú trọng việc thực hành ngôn ngữ tiếng Việt chuẩn (Nhiều khi các em nói tiếng địa phƣơng Loan = Loen, nói thiếu dấu, sai dấu tiếng Việt nhứng mói quan hệ,...), phát huy năng lực ngƣời học, giúp học sinh chia sẻ và trao đổi những thông tin, ý tƣởng với thầy cô, bạn bè, thể hiện ra bằng câu nói hoàn chỉnh và mạch lạc, diễn đạt chuẩn xác các ý để ngƣời nghe hiểu đúng suy nghĩ của mình. Chƣơng trình và SGK cần tăng cƣờng các bài tập luyện tập cho học sinh nhƣ: kể một câu chuyện đã trải qua, đã nghe kể hoặc đã đọc, kể lại một sự kiện quan trọng trong đời sống hoặc một kinh nghiệm, sở thích cá nhân bằng những đoạn trình bày ngắn gọn và có chủ đề rõ ràng, có mở và kết thúc hợp lí, mô tả hoặc trình bày lại công việc đã làm của bản thân trƣớc nhóm (các bƣớc, thứ tự thực hiện, kĩ thuật thực hiện, kết quả…); trình bày kết quả thảo luận của nhóm trƣớc lớp. Bên cạnh những phối hợp hoạt động nhóm thì kịch bản chƣơng trình trong SGK cũng cần chú trọng đến tài năng cá nhân, luyện cho HS biết cách đề xuất ý riêng của cá nhân khi thảo luận nhóm, khi tranh luận một vấn đề trong nhóm trƣớc tập thể lớp hoặc trình bày thậm chí là phản biện ý kiến riêng với giáo viên. Kỹ năng đọc: Đọc không chỉ là nhẩm thầm hay phát âm thành lời những chữ viết sẵn hay in sẵn, đọc là quá trình suy ngẫm hiểu văn bản. Từ đọc hiểu văn mà hiểu các giá trị văn bản khác. Ngƣời đọc phải biết đâu là chỗ quy tụ thông tin, đâu là câu chốt thể hiện tƣ tƣởng của ngƣời viết. Kỹ năng đọc chỉ trở nên có ý nghĩa khi hiểu nội dung văn bản, hiểu đƣợc chiều sâu của văn bản và những điều mà văn bản muốn đề cập đằng sau 427
  6. câu chữ. Sách giáo khoa đƣợc thiết kế với nhiều kiểu dạng văn bản khác nhau (văn bản văn chƣơng nghệ thuật, các văn bản khoa học, văn bản hành chính công vụ,…) điều đó sẽ giúp vốn kiến thức ngôn ngữ, văn học, khoa học, nghệ thuật… của HS cũng sẽ dần đƣợc tăng lên, điều này có tác dụng tích cực cho việc rèn luyện tƣ duy, kĩ năng diễn đạt gọn gàng, trong sáng ở ngƣời học. Đọc và Hiểu văn bản là kỹ năng cần thiết đầu tiên đối với ngƣời học. GS Trần Đình Sử cho rằng: “Đọc văn là khâu quan trọng nhất, gắn liền với việc bồi dƣỡng năng lực đọc, bồi dƣỡng tƣ tƣởng tình cảm nhân cách cao đẹp... Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại, từ đọc hiểu văn mà trực tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tƣ tƣởng và cảm xúc đƣợc truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính, đó là con đƣờng duy nhất để bồi dƣỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ”. Để đạt chất lƣợng cao thì việc đọc phải đƣợc HS thực hiện một cách có ý thức. Từ năng lực đọc ngƣời học mới có đƣợc năng lực thẩm văn và bình văn. Hƣớng dẫn học sinh đọc và hiểu văn bản là giúp các em rèn những kỹ năng nhận biết nội dung ý nghĩa của các văn bản khác sau này trong thực tế cuộc sống. Kĩ năng viết là khả năng diễn đạt bằng văn bản. Kỹ năng đầu tiên là phải biết lắng nghe, sau đó hiểu và ghi nhớ các thông tin, từ đó có thể phát biểu thành lời và cuối cùng diễn đạt đƣợc ra thành văn bản. Làm thế nào để giúp học sinh viết có hiệu quả? SGK cần thiết kế những gợi ý để các em có thể tự học và luyện viết bằng các chủ đề nhƣ: Những điều tôi muốn viết và cách viết của tôi. Các em có thể viết về bất cứ nội dung nào mà các em hiểu biết và có kinh nghiệm, có quan điểm về vấn đề đó. Cho sẵn vốn từ vựng để các em có thể sử dụng diễn đạt, cho các luận điểm để các em triển khai luận cứ, luận chứng, dành thời gian cho HS viết độc lập và hoàn thành bài viết, công bố sản phẩm tinh thần trƣớc tập thể nhóm, khích lệ HS đƣa ra câu hỏi để nhóm cùng thảo luận, giúp các em tự tìm ra lỗi, tự sửa lỗi câu, diễn đạt cho mình. - Cả bốn kỹ năng đều cần theo định hƣớng tích hợp và phân hoá ở từng lớp, với từng chủ đề. Qua văn bản văn học HS phải thấy đƣợc cái hay, cái đẹp của tiếng Việt, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, loại bỏ cách nói lóng, cách diễn đạt với những ký tự tuổi teen thời công nghệ số mà báo chí nêu lên gần đây. Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chƣơng cần chú trọng hình thành cho HS cách đọc có phƣơng pháp, phát huy năng lực cảm thụ thẩm mĩ trực tiếp, khơi gợi tƣởng tƣợng tái hiện và tƣởng tƣợng sáng tạo, liên tƣởng hình tƣợng và liên tƣởng ý niệm, bồi dƣỡng năng lực cảm thụ tinh tế, nhanh nhạy, phát triển năng lực tƣ duy, cắt nghĩa, khái quát, tránh suy diễn máy móc tuỳ tiện. Dạy đọc hiểu TPVC cần tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt và Làm văn. Chú trọng rèn luyện cho HS cách diễn đạt giản dị, trong sáng, chính xác, lập luận chặt chẽ, có suy nghĩ độc lập, bộc lộ thái độ riêng trƣớc những vấn đề về văn học và đời sống. Cả 428
  7. bốn kỹ năng này cần đƣợc thực hành qua các chủ đề học tập nhƣ: Những điều tôi đã nghe và cách nghe của tôi, những điều tôi muốn nói và cách nói của tôi, những điều tôi đã đọc và cách đọc của tôi, những điều tôi viết và cách viết của tôi. Thiết kế chƣơng trình và SGK Ngữ văn sau năm 2015 cần nhấn mạnh đến yếu tố tăng giáo dục ngoài giờ, tích hợp và phân hoá trong nội dung môn học, bên cạnh nội dung bắt buộc, xây dựng nội dung tự chọn, tri thức mang tính toàn quốc gắn với tri thức địa phƣơng, giảm lý thuyết, tăng thực hành vận dụng, giảm tri thức hàn lâm, tăng tri thức đời thƣờng gần gũi để ngƣời học có thể ứng dụng tốt trong đời sống. Văn chƣơng là con ngƣời, là cuộc sống, nhà văn là sáng tạo việc xây dựng chƣơng trình để Dạy và Học văn một cách thiết thực phát huy đƣợc năng lực của ngƣời học cần lắm sự đổi mới, để môn văn thực sự hấp dẫn, có ý nghĩa với các thế hệ học trò. Việc phát triển chƣơng trình trong đó có bộ môn Ngữ văn là một trong những khâu quan trọng để công cuộc đổi mới căn bản toàn diện trong giáo dục đào tạo của Việt Nam thành công. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Chƣơng trình tổng thể giáo dục phổ thông 2. Đình Phú, TS. Nguyễn Ngọc Vũ (2013). “Khơi dậy tiềm năng tự học và sáng tạo”, website: www. thanh niên. com.vn, ngày 3/9/2013. 3. Trần Đình Sử (2013). “ Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong nội dung và phƣơng pháp dạy văn hiện nay”, website: TranĐinhSu.word press.com, ngày 5/12/2013. 429
nguon tai.lieu . vn