Xem mẫu

  1. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism Chương 7 SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MARXISM I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KTCT MARXISM 1.1. Hoàn cảnh lịch sử hình thành chủ nghĩa Marx Chủ nghĩa Marx ra đời vào đầu những năm 40 của thế kỷ XIX, đây là thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã xác lập được địa vị thống trị trong một số nước chủ yếu ở Tây Âu và Mỹ. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản cùng với thành quả của cách mạng công nghiệp một mặt, đã tạo ra những thay đổi hoàn toàn mới về chất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mặt khác dẫn đến sự thay đổi căn bản trong cơ cấu giai cấp của xã hội. Trong xã hội tư bản, có hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị và giai cấp vô sản làm thuê. Việc sử dụng máy móc công nghiệp theo lối tư bản chủ nghĩa làm cho tư sản bóc lột công nhân ngày càng nhiều hơn đã làm tăng những mâu thuẫn vốn có trong xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản ngày càng lên cao (khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyon, nước Pháp; phong trào hiến chương ở Anh trong những năm 30, 40 của thế kỷ XIX). Từ thực tiễn đó, đòi hỏi phải có lý luận cách mạng làm vũ khí tư tưởng cho giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Marx ra đời. 1.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị của K. Marx Thứ nhất, là sự kế thừa một cách đúng đắn, khoa học các thành tựu, khắc phục triệt để những hạn chế của các nhà tư tưởng, kinh tế trước. Thứ hai, là kết quả dựa trên phương pháp luận khoa học. Thay cho sự quan sát một cách giản đơn, hời hợt bên ngoài hay quan niệm duy tâm, chủ quan, duy vật thô sơ, Marx đã sử dụng phép duy vật biện chứng, kết hợp phương pháp logic, lịch sử và trừu tượng hóa khoa học . . . trong nghiên cứu của mình. Thứ ba, là sự khái quát thực tiễn sinh động chủ nghĩa tư bản. Một bức tranh đầy đủ về quá trình phát sinh, phát triển và xu hướng vận động của nó. Thứ tư, là nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. II. HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA MARX - ENGELS 2.1. Tiểu sử của K.Marx, F. Engels và chủ nghĩa Marx. Karl Marx sinh ngày 5/5/1818 ở thành Tơria vương quốc Phổ, trong một giai đình có 9 người con, cha - Henrich Marx là luật sư và cố vấn tư pháp có uy tín trong Triều đình Phổ. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 1 trị
  2. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism Tháng 8/1835, K.Marx tốt nghiệp tốt phổ thông trung học, tháng 10/1835 vào học khoa luật ở đại học tổng hợp Bon, tháng 10/1836 chuyển về khoa luật đại học tổng hợp Beclin, tháng 4/1841 K.Marx tốt nghiệp học vị tiến sỹ triết học. Đầu năm 1842 làm trong tờ báo "tỉnh Ranh", từ đây ông bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng sôi động đầy sáng tạo. Ông mất năm 1883 tại London, Anh. Friedrich Engels sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh (Rhine), Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Năm 1842, trên đường sang Anh, đã ghé thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã gặp K. Marx, tổng biên tập tờ báo, từ đó bắt đầu cho sự gắn bó giữa ông và K. Marx trong sự nghiệp khoa học và cách mạng. Engels mất ngày 5 tháng 8, năm 1895 ở London, Anh Karl Marx và Friedrich Engels là những người sáng lập ra chủ nghĩa Marx. Chủ nghĩa Marx nói chung và kinh tế chính trị Marxit nói riêng ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển một cách khoa học những thành tựu quan trọng nhất của các nước Tây Âu đó là: triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Đây là 3 nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Marx cũng gồm 3 bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. - Triết học Marxism là triết học duy vật biện chứng, được K.Marx – F.Engels xây dựng trên cơ sở kết hợp những hạt nhân hợp lý của triết học duy vật Feuerbach (Phoiơbắc) và hạt nhân hợp lý của triết học biện chứng Hegel với tri thức hiện đại và sử dụng nó như là công cụ để xem xét các sự vận động kinh tế - xã hội. - Kinh tế chính trị Marxism là sự kế thừa và phát triển những thành tựu của khoa kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mà tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo về hệ thống các phạm trù và quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đồng thời cũng đưa ra những luận chứng kinh tế về tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa để chuyển sang phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. - Chủ nghĩa xã hội khoa học Marxism là sự chỉnh lý và sáng tạo đối với lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, từ đó chỉ ra con đường đúng đắn để cải tạo thế giới bằng cách mạng, quá độ sang chủ nghĩa xã hội, lực lượng để sáng tạo xã hội mới là giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. 2.2. Quá trình xây dựng và phát triển kinh tế chính trị Marx Quá trình phát triển chủ nghĩa Marx nói chung và kinh tế chính trị Marx nói riêng được chia làm 3 giai đoạn: - 1843 - 1848: Giai đoạn xây dựng cơ sở triết học và phương pháp luận Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 2 trị
  3. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism - 1848 - 1867: Giai đoạn xây dựng hệ thống các phạm trù và các quy luật kinh tế - 1867- 1895: Giai đoạn hoàn thiện học thuyết kinh tế của Marx 2.2.1. Giai đoạn hình thành cơ sở triết học và phương pháp luận của kinh tế chính trị Marx (trước 1848) Những năm đầu theo học Đại học tổng hợp Beclin, K.Marx " khao khát được vật lộn với triết học" vì cho rằng không có triết học thì không thể xâm nhập vào sự vật được, ông lao vào nghiên cứu triết học, không lâu sau ông đã phát hiện ra "triết học Hegel". Với phát hiện này đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời K.Marx. Trong thời gian này K.Marx tham gia phái Hegel trẻ và là thành viên tích cực của phái này. Luận văn tiến sỹ của K.Marx năm 1841 có tên "Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Demokritos và triết học tự nhiên của Epicurso" chứng tỏ ông không chỉ là người vô thần mà còn là nhà dân chủ tư sản. Tác phẩm ảnh hưởng mạnh đến quan điểm của K.Marx là "Bản chất đạo cơ đốc" của Feurerbach. Sau khi tốt nghiệp Đại học, K.Marx vào làm trong tờ báo "Tỉnh Ranh" (1842), từ diễn đàn này K.Marx đã tiếp tục đấu tranh vì tự do, dân chủ, bảo vệ quyền lợi của nông dân, đòi tự do báo chí, Engels cũng hợp tác với K.Marx viết bài cho báo "Tỉnh Ranh". Vì những hoạt động như vậy nên báo "Tỉnh Ranh" bị chính quyền Phổ đóng cửa vào 1/4/1843. Tháng 10/1843 K.Marx cùng vợ sang Pari, tại đây ông gặp lại Engels và cùng Engels hoạt động trong các nhóm cách mạng, nghiên cứu kinh tế chính trị tư sản, triết học, xuất bản tạp chí tiến bộ: Niên giám Pháp - Đức. Năm 1844 Engels công bố tác phẩm "Tóm tắt phê phán kinh tế chính trị học". Trong đó ông trình bày lý luận của chủ nghĩa trọng thương, A.Smith, D.Ricardo, T.R.Malthus... cũng trong tác phẩm này, Engels đã phân tích nguyên nhân của cách mạng xã hội, vạch rõ sở hữu tư nhân là cơ sở của xã hội tư bản, chỉ ra mối quan hệ và mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tuân theo quy luật kinh tế khách quan, đó là quy luật cạnh tranh, tập trung tư bản, phân hoá người lao động... từ đó khẳng định: cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và tất yếu phải thay thế bằng chủ nghĩa xã hội. Cũng trong năm 1844, K.Marx xuất bản tác phẩm "Bản thảo kinh tế triết học", ở đây K.Marx đã xem xét một loạt vấn đề của kinh tế chính trị. Ông phê phán kinh tế chính trị tư sản coi tư hữu là vĩnh viễn, nghiên cứu quan hệ giữa lao động làm thuê và tư bản phân tích tiền lương... và đi đến khẳng định: "sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội", "sự phát triển của tư bản công nghiệp sẽ dần đến sự thủ tiêu nó và thiết lập nên chủ nghĩa cộng sản”. Năm 1845 hai ông xuất bản tác phẩm viết chung "Gia đình thần thánh", trong tác phẩm này hai ông tập trung phê phán những quan điểm sai trái của Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 3 trị
  4. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism Proudhon thể hiện trong tác phẩm "Sở hữu là gì". Hai ông cũng tiếp tục phân tích khái niệm "lao động bị tha hoá" chỉ ra tính chất đối lập của sự vận động của tiền lương và lợi nhuận và nêu tư tưởng về giá trị lao động. Trong năm 1845 Engels cho xuất bản tác phẩm "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh", phân tích hậu quả của cách mạng công nghiệp, tình cảnh giai cấp công nhân và những tệ nạn của chủ nghĩa tư bản như : thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế. Đầu năm 1846 hai ông viết xong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" tác phẩm này đã mang lại cho hai ông cũng như những ai nghiên cứu về nó một thế giới quan mới. Đánh dấu sự thoát khỏi triết học Hêggen (Friedrich Hegel, 1770 - 1831) và xây dựng thế giới quan riêng - hệ thống lý luận về chủ nghĩa duy vật lịch sử - đạt tới đỉnh cao, làm cơ sở khoa học để nghiên cứu kinh tế. Tóm lại: Đây là thời kỳ K.Marx và Engels hình thành cơ sở triết học duy vật cho việc nghiên cứu các vấn đề xã hội, đây cũng là thời kỳ hai ông hoàn thành việc chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản. 2.2.2. Giai đoạn xây dựng hệ thống các phạm trù (1848-1867) Đặc điểm chung các tác phẩm của K.Marx trong giai đoạn này là trình bày những nguyên tắc, phương pháp luận mới của kinh tế chính trị và bắt đầu nghiên cứu các phạm trù kinh tế. Giai đoạn này K.Marx chuyển từ nghiên cứu triết học sang nghiên cứu kinh tế chính trị. Năm 1848, K.Marx xuất bản tác phẩm "Sự khốn cùng của triết học" nhằm phê phán các quan điểm của Proudhon trình bày trong tác phẩm "Triết học của sự khốn cùng". Đồng thời chỉ ra nhiều nội dung, nguyên tắc và phương pháp luận của kinh tế chính trị Marxit. Năm 1849, trong “Lao động làm thuê và tư bản” K. Marx đã phân tích ảnh hưởng của tích lũy tư bản với tình cảnh của giai cấp công nhân. Và, một định nghĩa khoa học về tư bản lần đầu tiên đươc nêu ra ở đây: tư bản chỉ tồn tại trong lao động làm thuê và tư bản là một quan hệ giai cấp, là phạm trù kinh tế có tính lịch sử. Tuy nhiên, lúc này K. Marx vẫn còn sai lầm khi coi lao động là hàng hóa. Tác phẩm có ý nghĩa đánh dấu việc hoàn thiện sự nghiệp vĩ đại của K.Marx và Engels trong những năm 40 thế kỷ XIX là "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" (1848). Ở đây K.Marx và Engels nghiên cứu chi tiết sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản, chỉ ra những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, sự vận động của mâu thuẫn này dẫn chủ nghĩa tư bản đến chỗ diệt vong. Tuy nhiên sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa cộng sản phải được thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Từ đó đề xuất những nguyên tắc cơ bản để thiết lập xã hội cộng sản trong đó trước tiên phải thay đổi sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội, sự thiết lập sở hữu xã hội là quá trình lâu dài. Nếu xét về bản chất thì chế độ công hữu trong tương lai phải là Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 4 trị
  5. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism con đẻ của quá trình phát triển lực lượng sản xuất, nó xuất hiện khi trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đạt đến mức rất cao. Để tiến tới xã hội tương lai, chính giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền phải thực hiện được hàng loạt các biện pháp có tính chất quá độ. Từ 1849 - 1857, K.Marx và Engels viết nhiều tác phẩm phân tích tình hình cách mạng thế giới như: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Ngày 18 tháng sương mù của Louis Bonapac", “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức". Từ 1857 K.Marx bắt đầu xây dựng bộ "Tư bản" Năm 1857 các nước tư bản Tây âu lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế mới, đây là nguyên cớ để K.Marx đẩy nhanh việc nghiên cứu của mình. Trong năm này, K.Marx cho ra đời "Bản thảo kinh tế chính trị học", tác phẩm này không được xuất bản vì động chạm đến những vấn đề nhạy cảm của xã hội tư bản lúc đó. Tác phẩm được coi là di bản đầu tiên của bộ Tư bản, gồm phần mở đầu và hai chương. Phần mở đầu Marx nghiên cứu đối tượng và phương pháp của kinh tế chính trị. Ở đây lần đầu tiên ông khẳng định: kinh tế chính trị là một khoa học nghiên cứu quan hệ sản xuất xã hội của con người và các quy luật, phạm trù kinh tế tương ứng biểu hiện các quan hệ đó. Về phương pháp luận ông trình bày các phương pháp mang tính đặc thù cho kinh tế chính trị đó là phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích, tổng hợp.... Chương tiền tệ: K.Marx nghiên cứu lý luận giá trị hàng hoá và tiền tệ. Đánh giá về sản xuất hàng hoá, ông cho rằng: hoạt động sản xuất hàng hoá của loài người cũng mang tính lịch sử, nghĩa là sự xuất hiện của sản xuất hàng hoá hoàn toàn mang tính điều kiện và hoạt động sản xuất hàng hoá cũng sẽ liên tục biến đổi, phát triển. Chương tư bản: K.Marx trình bày điều kiện để tiền tệ chuyển hoá thành tư bản, từ đó đi xây dựng lý luận lợi nhuận. Trong lý luận này ông đã phát hiện quy luật xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận. Nếu so với các nhà kinh tế cổ điển, K.Marx có những bước tiến hết sức quan trọng khi phân tích quá trình tuần hoàn, chu chuyển của tư bản, đưa ra các khái niệm về tư bản bất biến, tư bản khả biến, những phát hiện này có ý nghĩa hết sức quan trọng với ông về sau này khi xây dựng lý luận giá trị thặng dự. Năm 1857 -1858, K.Marx xây dựng kế hoạch viết một bộ sách gồm 6 quyển: - Quyển 1: Tư bản, gồm 4 phần. Phần I. Tư bản, gồm 3 chương, chương 1: Hàng hoá, chương 2: Tiền tệ, chương 3: Tư bản. Phần II: Cạnh tranh của tư bản Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 5 trị
  6. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism Phần III: Tín dụng Phần IV: Tư bản cổ phần - Quyển 2: Về sở hữu ruộng đất - Quyền 3: Về lao động làm thuê - Quyển 4: Về Nhà nước - Quyển 5: Về ngoại thương - Quyển 6: Về thị trường thế giới Dựa vào di bản 1857 - 1858, cuối năm 1859, K.Marx xuất bản tác phẩm quan trọng "Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị" gồm lời nói đầu và hai chương. Trong tác phẩm này, ngay phần mở đầu đã chứa đựng những phát hiện rất mới mẻ của K.Marx về chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan trọng nhất là trình bày những tư tưởng của mình về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và cho rằng đây là quy luật chi phối tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Lần đầu tiên, ông bàn đến mối quan hệ hết sức có bản của xã hội là cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.... Những vấn đề này là cơ sở, phương pháp luận để K.Marx đi vào nghiên cứu kinh tế. Ở chương hàng hoá, K.Marx đưa ra quan điểm mới về giá trị hàng hoá và cho rằng "giá trị hàng hoá thực ra là quan hệ sản xuất xã hội kinh tế của xã hội tư bản". Lần đầu tiên K.Marx phát hiện ra và phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là lao động cụ thể, lao động trừu tượng, lao động tư nhân lao động xã hội, chỉ rõ lao động trừu tượng là nhân tố tạo ra giá trị hàng hoá, giá trị thực ra chỉ là phạm trù lịch sử. Lần đầu tiên ông nêu khái niệm lượng giá trị và cho rằng nó được do bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, từ đó phát hiện ra những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá đặc biệt là ảnh hưởng của lao động giản đơn, lao động phức tạp. Phát hiện ra tính hai mặt của lao động là yếu tố quan trọng nhất để đi đến lý thuyết kinh tế về giá trị, nhờ đó lần đầu tiên trong lịch sử học thuyết kinh tế Marx đã xây dựng được học thuyết giá trị lao động hoàn chỉnh và học thuyết này trở thành cơ sở lý luận chung để ông trình bày hệ thống lý luận kinh tế của mình. Trong chương tiền tệ, K.Marx tập trung bàn về tiền và phát hiện ra bản chất của tiền, phân tích 5 chức năng của tiền. Từ 1861-1863, K.Marx hoàn thành bản thảo lớn "Phê phán kinh tế chính trị học", đây được coi là bản thảo lớn lần thứ hai của bộ Tư bản. Bản thảo lần thứ 3 của bộ Tư bản được K.Marx viết vào năm 1864-1865, lần này K.Marx thay đổi kết cấu bộ tư bản từ 6 quyển xuống còn 4 quyển. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 6 trị
  7. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism - Quyển I: Quá trình sản xuất tư bản - Quyển II: Quá trình lưu thông của tư bản - Quyển III: Các hình thái của tư bản và giá trị thặng dư - Quyển IV: Phê phán lịch sử học thuyết giá trị thặng dư Đến năm 1865, K.Marx đã hoàn chỉnh bản thảo của 3 quyển đầu, riêng quyển 4 đang còn ở giai đoạn tài liệu. Năm 1867 quyển I bộ tư bản được xuất bản bằng tiếng Đức lúc đầu chỉ có 1000 bản, sau này do sức thuyết phục lớn nên được tin rộng rãi bằng nhiều thứ tiếng. Quyển I ngay khi xuất bản nó được đánh giá là "tiếng sét nổ trên bầu trên bầu trời trong trẻo của xã hội tư bản". Trong quyển này chứa đựng ba học thuyết quan trọng nhất đó là: Học thuyết giá trị lao động, học thuyết giá trị thặng dư và học thuyết tích luỹ tư bản, trong đó học thuyết giá trị được coi là cơ sở, nền móng, còn học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng trong các học thuyết kinh tế của K.Marx. 2.2.3. Giai đoạn hoàn thiện kinh tế chính trị Marx (1867-1895) Trong giai đoạn này K.Marx và Engles cho công bố nhiều tác phẩm các tác phẩm giai đoạn này có đặc điểm chung là gắn liền với những vấn đề mà hai ông dự báo về mô hình xã hội tương lai. Các tác phẩm của giai đoạn này gồm: "Phê phán cương lĩnh Gotha", "Chống Duhring", "Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước", "Vấn đề nông dân Pháp Đức"... Trong các tác phẩm này thì chống Duhring có vị trí hết sức quan trọng, nó là sự tập hợp những kết quả nghiên cứu quan trọng nhất của K.Marx và Engels về cả ba phương diện triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Sau khi K.Marx qua đời, Engels có công lao to lớn để hoàn thiện kinh tế chính trị Marx. Chính Engels là người trực tiếp bổ xung, sửa đổi và cho xuất bản quyển II năm 1885 và quyển III bộ tư bản năm 1894. Engels cũng đã viết nhiều bàì báo giới thiệu về bộ tư bản. 2.3. Công lao của Marx đóng góp cho Khoa kinh tế chính trị Nhờ những đóng góp của K.Marx và Engels mà khoa kinh tế chính trị từ cuối thế kỷ XIX đã thực sự đạt được những bước tiến mang tính cách mạng. Cống hiến nổi bật của K.Marx cho Khoa kinh tế chính trị thể hiện ở những điểm mấu chốt sau: 2.3.1. Đưa ra quan điểm mới mẻ và khoa học về đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 7 trị
  8. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism - Quy định chính xác đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị. Đứng trên quan điểm duy vật lịch sử, lần đầu tiên Marx đã quy định chính xác và khoa học đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị đó là quan hệ xã hội giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, từ đó vạch rõ qui luật vận động, phát triển của quan hệ sản xuất. Ông cũng là người đầu tiên phân tích một cách tổng thể các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản và chỉ ra các quy luật kinh tế chung, quy luật kinh tế đặc thù và đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản. K.Marx và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx cũng cho rằng ở mọi thời đại, mỗi quốc gia đều có kinh tế chính trị riêng và không bao giờ coi hệ thống kinh tế chính trị là bất biến, điều đó thể hiện quan điểm duy vật biện chứng hết sức điển hình. - Phát hiện mới mẻ về phương pháp luận: Đến Marx, Khoa Kinh tế chính trị đã tựa lưng vào nền tảng triết học mang tính khoa học thực sự, từ đó đã thoát ra khỏi thế giới quan duy tâm của chủ nghĩa siêu hình, chủ nghĩa kinh nghiệm. Một trong những cống hiến lớn lao của ông là phát hiện ra phép biện chứng duy vật với tư cách là thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá các vấn đề, các mối quan hệ kinh tế, đồng thời là công cụ, phương pháp luận để phân tích tìm ra bản chất các hiện tượng, các quá trình kinh tế khách quan. 2.3.2. K. Marx là người đầu tiên phát hiện ra và phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Các nhà kinh tế trước Marx mới phân biệt được hai thuộc tính có mâu thuẫn của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Đến Marx, ông khẳng định: Hàng hoá là sự thống nhất biện chứng của hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng, tiếp tục đi sâu nghiên cứu ông đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là lao động cụ thể và lao động trừu tượng và khẳng định: Lao động trừu tượng tạo ra giá trị. Nhờ phát hiện này mà ông đã hiểu được chính xác chất và lượng giá trị hàng hoá, nguồn gốc giá trị và giá trị sử dụng, cấu trúc giá trị...Phát hiện này còn là chìa khoá để K.Marx giải quyết hàng loạt vấn đề của kinh tế chính trị sau này như: lý luận hàng hoá sức lao động, phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Chính nhờ phát hiện này mà học thuyết giá trị lao động trở nên hoàn chỉnh nhất trong lịch sử và giúp Marx làm nên cuộc cách mạng của khoa Kinh tế chính trị. 2.3.3. Phát kiến học thuyết giá trị thặng dư. Đây là một trong những phát kiến vĩ đại nhất mà Marx đóng góp cho Khoa kinh tế chính trị, vượt trên những phát kiến của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh. Lênin từng đánh giá: Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng trong các học thuyết kinh tế Marx. Trong học thuyết này Marx đã phát hiện ra nguồn gỗc, bản chất đích thực của giá trị thặng dư, đánh giá hết sức khoa học vai trò của lao động, của sản xuất trong việc tạo giá trị thặng dư, chỉ rõ bản chất của tư bản và phân chia tư Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 8 trị
  9. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism bản thành tư bản bất biến, tư bản khả biến để một lần nữa khẳng định sức lao động công nhân làm thuê là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư. Từ cách tiếp cận mới về giá trị thặng dư mà Marx đã thực hiện được nhiệm vụ của mình khi nghiên cứu bộ Tư bản là tìm ra quy luật giá trị thặng dư - qui luật chi phối toàn bộ sự ra đời, phát sinh, phát sinh, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. 2.3.4. Từ học thuyết giá trị thặng dư Marx đã đi xây dựng nhiều học thuyết kinh tế khác. Sau khi chỉ ra bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, Marx đi nghiên cứu lý luận tiền lương và chỉ ra bản chất tiền lương là giá cả sức lao động, chứ không phải là giá cả của lao động. Cái mà người công nhân bán cho nhà tư bản là sức lao động, nhờ mua được sức lao động nhà tư bản mới chiếm đoạt được một phần giá trị mới do công nhân tạo ra tương ứng giá trị thặng dư. Công lao của Marx còn thể hiện ở việc phát hiện ra nhiều vấn đề lý luận khác như: - Lý luận tích luỹ tư bản - Lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản - Lý luận tái sản xuất tư bản xã hội. - Lý luận các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. Trong lý luận này, K.Marx đã chỉ ra cơ cấu chuyển hoá của giá trị thặng dư thành lợi nhuận, sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất trong điều kiện tự do cạnh tranh. Từ đó vạch rõ: toàn thể giai cấp tư sản tham gia bóc lột toàn thể giai cấp vô sản, vì vậy giai cấp vô sản muốn thoát khỏi áp bức bóc lột phải đoàn kết lại đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản để tự giải phóng mình. K.Marx cũng chỉ ra giá trị thặng dư là cái chung, cái bản chất có nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân làm thuê, nhưng trong thực tế xã hội nó được biểu hiện dưới hình thái cụ thể là lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô. Với lý luận này ông đã vượt trên các nhà kinh tế tư sản cổ điển khi phân tích một cách khoa học lý luận lợi nhuân bình quân, chỉ ra quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân, chỉ ra quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như phân tích sự hình thành địa tô chênh lệch II, địa tô tuyệt đối trong nông nghiệp tư bản chủ nghĩa. Lý luận này một lần nữa vạch trần gốc rễ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và nguyên nhân sâu sắc nhất của sự đối lập giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội tư bản. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 9 trị
  10. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C7: Kinh tế chính trị Marxism Nội dung ôn tập 1. Quá trình hình thành, phát triển Chủ nghĩa Mác. 2. Những đóng góp của K. Marx đối với Khoa kinh tế chính trị. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 10 trị
nguon tai.lieu . vn