Xem mẫu
- Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình
vận động hợp quy luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
ba yếu tố : chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam.
- Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về
giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối
thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công
nhân nước ta đã trưởng thành " đủ sức lãnh đạo cách mạng'.
- Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã có một bộ tham
mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến
thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với các trào lưu tư tưởng
phi vô sản.
- Đảng ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt
Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị
tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là
nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến
thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
- Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ
phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách
mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế
giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới.
Tham khảo thêm tài liệu dưới nữa
[quuote]
Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăng - ghen là đã
sớm biết tách riêng giai cấp vô sản ra đời từ khối quần chúng
bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt và những xu hướng lịch
sử của nó. Từ đó, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản và chỉ ra những hình thức và phương pháp thực hiện
sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một
trong những vấn đề chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Nó đã được Mác, Ăng-ghen luận chứng một cách khoa
- học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được Lênin tiếp tục
phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Ngay từ cuối
năm 1844, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học
Pháp quyền của Hê-ghen”, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn
đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và những điều kiện
mà qua đó nó xóa bỏ quan hệ bóc lột, TBCN, thiếp lập quan
hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”
và bộ “Tư Bản” thí lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân đã được phát triển đến một mức độ nhất định.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là một sự khái quát về lý
luận phong trào cách mạng của giai cấp công nhân giữa thế
kỷ thứ XIX. Bộ “Tư Bản” đã giải phẫu xã hội tư bản chủ
nghĩa vạch rõ cơ sở kinh tế của cơ cấu xã hội và những xu
hướng tiếp tục phát triển của nó, đặt cơ sở cho việc giải
thích vai trò của giai cấp công nhân trong việc tạo ra những
giá trị vật chất, trong việc thủ tiêu phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội mới. Đến thời kỳ này,
nhiều phạm trù, khái niệm cơ bản nhất đã được xác lập và
về sau nó sẽ được tiếp tục phát triển.
Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý luận Mác-xít về
giai cấp công nhân như là “điều chủ yếu của học thuyết
Mác”1. “Trong tất cả mọi giai đọan đấu tranh vì một thế giới
mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ
của phong trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân
lao động”2. Lê-nin đã cụ thể hóa sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân trong điều kiện của cách mạng vô sản và chuyên
chính vô sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân được thể hiện ở một số luận điểm cơ bản
sau:
* Giai cấp công nhân là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản
và người sáng tạo ra xã hội mới.
- * Giai cấp công nhân là người lãnh đạo trong phong trào cách
mạng giải phóng của quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện
tại.
* Lợi ích giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và không điều
hòa được. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai
cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản.
Trong những điều kiện nhất định, giai cấp công nhân có thể
tham gia lãnh đạo cách mạng tư sản, như là sự chuẩn bị tiền
đề cho cách mạng vô sản.
* Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của mình.
Chủ nghĩa Mác Lê-nin là điều kiện ắt có, cơ bản để giai cấp
vô sản từ giai cấp “tự nó” chuyển thành giai cấp “vì nó”.
* Sự ra đời của Đảng Cộng Sản là tất yếu khách quan. Đảng
Cộng Sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lê-nin
với phong trào công nhân và là nhân tố quyết định thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. “Vai trò, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản” luôn là vấn đề trung tâm
trong suốt một cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng lâu dài và
quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác Lê-nin ra đời và các giai đoạn
phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trò của giai câ
vô sản là sự công kích khái niệm khoa học của Mác, Ăng-
ghen về giai cấp và giai cấp vô sản. Một số người nêu lên tư
tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ quan niệm của chủ
nghĩa Mác cho rằng giai cấp vừa là một phạm trù kinh tế vừa
là một phạm trù xã hội. Không thể định nghĩa giai cấp vô sản
một cách tùy tiện, không tính đến vấn đề chiếm hữu - sở hữu
tư liệu sản xuất, hơn nữa lại chỉ coi đó là một hiện tượng tâm
lý3. Một số người khác lại cho rằng không có một giai cấp
công nhân được xác định rõ ràng4. Điểm tựa của những luận
điểm xuyên tạc phạm trù giai cấp nói trên là ở chỗ không
xem quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất như là một tiêu chuẩn
khách quan để xem xét giai cấp.
- Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật và những hệ qủa mà nó tạo ra, một lập
luận phổ biến chống lại sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
là cho rằng lý luận Mác - Lênin về vấn đề này đã lỗi thời; giai
cấp vô sản sẽ bị xói mòn, thậm chí tiêu vong trước sự phát
triển của cách mạng KHKT. Theo họ, cuộc cách mạng KHKT
đã và đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong sự phân
công lao động xã hội, hiện tượng “trí thức hóa lao động” phát
triển mạnh, tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng cao so với
lao động chân tay, cơ cấu xã hội củaa chủ nghĩa tư bản sẽ
thay đổi mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ
giảm dần và trong tương lai, giai cấp công nhân sẽ biến mất.
Một số nhà lý luận tư sản khác tuy không đồng ý rằng giai
cấp công nhân sẽ biến mất, nhưng lại cho rằng giai cấp công
nhân không còn là nhân vật chủ yếu của lịch sử5.
Cách mạng KHKT có đem đến những biến đổi trong phân
công lao động xã hội, trong nội dung, phương thức lao động,
trong thành phần giai cấp vô sản; thế nhưng, điều đó hoàn
toàn không xóa mờ quan hệ sản xuất TBCN và mâu thuẫn
giữa lao động với tư bản. Trí thức không phải là một giai cấp
mà chỉ là một tầng lớp đặc biệt thuộc nhiều giai cấp khác
nhau. Sự ngăn cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc
là một sai lầm về lý luận. Cách mạng KHKT làm cho thành
phần giai cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm cả lao
động chân tay và lao động trí óc, lao động trong khu vực sản
xuất vật chất và dịch vụ... Qúa trình trí thức hóa phát triển sẽ
có thể đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp công nhân
chứ không hề xóa bỏ giai cấp công nhân. Nhìn chung, cách
mạng KHKT sẽ làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về
số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở
- nhiều nước, các nhà lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng
cho rằng họ đang nói “những lời cuối cùng cho Mác” (“the
last words to Marx”) và cho lý luận về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội
ở một số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ
nghĩa Mác và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân của cuộc khủng hoảng,
sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân và không thực hiện chuyên
chính vô sản một cách đúng đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai
cấp trên bình diện thế giới. Chủ nghĩa đa nguyên chính trị với
huyền thoại về nền dân chủ đa nguyên chủ nghĩa6đã đối lập
với quan niệm về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác và
do đó nó có tác dụng chia rẽ giai cấp công nhân, phá hoại
Đảng Cộng Sản từ bên trong.
Ở Việt Nam, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với
cách mạng đã sớm được khẳng định cả về lý luận cũng như
trong thực tiễn. Đó là một trong những bài học hàng đầu của
mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trên nửa thế kỷ qua.
Lịch sử đã trao quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công
nhân mà Đảng Cộng Sản Việt Nam là đại biểu. Trước khi
Đảng ta ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp mang ý
thức hệ phong kiến, tư bản... đều lần lượt thất bại. Cách
mạng Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường
lối cứu nước mà thực chất sâu xa là khủng hoảng về vai trò
lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Trong cơ cấu xã hội của
Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có giai cấp công nhân, do đặc điểm
độc đáo của mình, là có vai trò lãnh đạo cách mạng. Thế
nhưng giai cấp công nhân chưa tiếp thu được chủ nghĩa Mác
- Lênin, và chưa trở thành giai cấp “vì nó”. Trong bối cảnh
như vậy, những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong cuộc
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam là
hết sức to lớn. Chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào phong
- trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã đưa đến
sự ra đời của Đảng ta, bước ngoặt vĩ đại của cách mạng
Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ giai cấp công nhân lãnh đạo
cách mạng. Khác với lý luận và thực tiễn ra đời của các
chính Đảng chính trị của giai cấp công nhân, sự ra đời của
cách chính Đảng cộng sản Việt Nam dựa trên cả ba yếu tố
(Chủ nghĩa Mác - Lênin + phong trào công nhân + phong trào
yêu nước) chứ không chỉ có hai yếu tố (Chủ nghĩa Mác +
phong trào công nhân). Thực tiễn cách mạng Việt Nam
chứng minh rằng sự tham gia của phong trào yêu nước vào
sự thành lập Đảng không làm yếu đi tính giai cấp của Đảng
và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, mà trái lại nó còn
củng cố thêm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều
kiện giai cấp này chiếm tỷ lệ rất thấp trong dân cư (1 - 2%)
và đang lãnh đạo một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ,
thực chất là cuộc cách mạng tư sản kiểu mới.
Từ năm 1930 trở đi ở miền Bắc và từ năm 1945 trở đi trên cả
nước, trong phong trào cách mạng không có sự tranh giành
quyền lãnh đạo cách mạng nào với giai cấp công nhân; giai
cấp công nhân trở thành giai cấp độc quyền lãnh đạo, không
chia quyền đó với ai và cũng không lực lượng, giai cấp nào
có đủ khả năng để chia quyền lãnh đạo ấy. Nhờ đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết yêu cầu
ruộng đất của nông dân, nêu ngay từ đầu khẩu hiệu trong
cao trào cách mạng 1930 - 1931 giai cấp nông dân đã thực
sự thừa nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối vơi họ
và khối liên minh công nông đã ra đời trong thực tiễn máu lửa
của cao trào cách mạng này. Cũng nhờ đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, Đảng ta đã giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và
phản phong, đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc
thống nhất, tạo nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám -
1945. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn kiên trì
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng,
- Đảng ta đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề về đường
lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng, đưa cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đi đến thắng lợi hoàn
toàn.
Kinh nghiệm cho thấy, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin
nói chung về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nó
riêng vào nước ta, thì Đảng cách mạng phải vừa trung thành
với những bản chất của những nguyên lý căn bản, vừa phải
linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Nếu
Nguyễn Ái Quốc chỉ dừng lại ở kinh nghiệm đã có trong việc
hình thành Đảng Cộng Sản không dám đưa yếu tố phong
trào yêu nước vào thì Đảng Cộng Sản Việt Nam khó có thể
ra đời sớm như vậy. Những hẹp hòi, hạn chế trong việc tập
hợp lực lượng cách mạng ở cao trào cách mạng 1930 - 1931
cũng như những sai lầm nghiêm trọng phổ biến, kéo dài
trong những vấn đề có tính nguyên tắc” trong công cuộc cải
cách ruộng đất (1953 - 1956) đều bắt nguồn từ thái độ máy
móc, giáo điều dẫn đến ngộ nhận rằng đã “đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân”, nhưng kỳ thật là bị các
tư tưởng phi vô sản tác động mạnh mẽ.
Công cuộc đổi mới toàn diện tiến hành công nghiệp hóa và
hiện đại hóa ở đất nước ta hiện nay diễn ta trong bối cảnh
quốc tế phức tạp, đan xen những thuận lợi và những khó
khăn lớn. Do vậy, việc tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam là một
vấn đề sống còn khi xây dựng một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng,
trong những điều kiện mới của thời đại toàn cầu hoá, kinh tế
tri thức, dứơi những quan điểm mới của Đảng ta từ Đại hội
lần thứ VI đến Đại hội lần thứ IX, những quan niệm mới về
giai cấp công nhân Việt nam và lập trường của giai cấp công
nhân cần phải đượcnhận thức lại, mà trong đó những điểm
cơ bản nhất là: giai cấp công nhân”phải tự mình trở thành
- dân tộc”, tiêu biểu cho quyền lợi của dân tộc, dặt quyền lợi
của dân tộc lên trên quyền lợi của giai cấp;giai cấp công
nhân hiện đại không còn là giai cấp công nhân –vô sản như
trong thế kỷ XIX; giai cấp công nhân mà trong đó tầng lớp
công nhân trí thức chiếm một vị trí ngày càng to lớn, khối liên
minh công- nông -trí thức là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn
dân; giai cấp công nhân rất phong hú, đa dạng theo thành
phần kinh tế mà họ tham gia vào; giai cấp công nhân phải là
đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của xã hội
hiện đại, được vũ trang bằng những tri thức hiện đại nhất,…
Vì vậy, không được máy móc giáo điều, không dựa vào
những quan niệm lạc hậu để xem xét lập trường của giai cấp
công nhân, không được xem xét vấn đề lập trường giai cấp
đi ngược với quan điểm lấy tiến bộ về lực lượng sản xuất
làm điểm xuất phát, đảng viên cán bộ phải lấy việc học tập
những tri thức hiện đại như một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng luôn được vận dụng
sáng tạo và bổ sung không ngừng bằng những tri thức hiện
đại nhất của nhân loại. Kinh nghiệm của nhân loại và dân
tộc ta trong thế kỷ XX chỉ ra rằng, đững vững hay không
vững trên lập trường của giai cấp công nhân hiện đại là điểm
cốt tử nhất để có được mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp
hay không.
nguon tai.lieu . vn