Xem mẫu

  1. VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI CHÚA NGUYỄN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG GIAO LƯU VĂN HÓA TẠI ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVI - XVIII VŨ THỊ XUYẾN* Tóm tắt Thế kỷ XVI - XVIII là một trong những giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Trái với hình ảnh đất nước đau thương do sự chia cắt giữa Đàng Ngoài - Đàng Trong và cuộc nội chiến giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, đây là giai đoạn chứng kiến sự hội nhập, giao lưu văn hóa mạnh mẽ nhất của các chính thể phong kiến Việt Nam thời trung đại. Chúa Nguyễn với tầm nhìn và chính sách hướng biển mạnh mẽ đã không ngừng khuyến khích, tham gia vào các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa trong khu vực và quốc tế. Các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong đã trở thành cửa ngõ đón nhận những hoạt động giao lưu văn hóa đa chiều này. Đặt trong dòng chảy tiếp giao văn hóa không ngừng, bài viết góp phần tái hiện môi trường quốc tế đa dạng của xứ Thuận - Quảng và đánh giá lại một số chính sách của chúa Nguyễn khi là chất xúc tác quan trọng, tạo đà cho sự hội nhập của Đàng Trong hơn hai thế kỷ. Từ khóa: Đàng Trong, chúa Nguyễn, giao lưu văn hoá, tiếp xúc văn hóa Abstract The XVI - XVIII century is one of the special periods of Vietnamese history. Contrary to the image of the country grieved by the partition between Dang Ngoai (the north) and Dang Trong (the south) and the civil war between Lord Trinh and Lord Nguyen, this was the period that witnessed the most powerful integration and cultural exchange of the feudal system of Vietnam in the Middle Ages. Lord Nguyen, with his strong vision and sea-orientating policy, had constantly encouraged and participated in regional and international economic and cultural exchanges. The urban ports along the coasts of Dang Trong had become the gateway to welcome these multidimensional cultural exchanges. Set in the constant flow of cultural communication, the article contributes to re-enacting the diverse international environment of Thuan - Quang area and re-evaluating some of Lord Nguyen’s policies as an important catalyst, creating momentum for the integration of Dang Trong for more than two centuries. Keywords: Dang Trong, Lord Nguyen, cultural exchanges, cultural contacts H oạt động giao lưu, tiếp biến văn hóa phương Đông, cho nên, điều dễ hiểu là từ rất là nhu cầu thiết yếu của mỗi quốc sớm văn minh Trung Hoa đã có ảnh hưởng sâu gia trong tiến trình xây dựng, phát đậm đến văn hóa Việt Nam1. Không thể phủ triển và khẳng định bản sắc. Nằm tiếp giáp nhận rằng, nhiều đặc điểm tương đồng về với một trong những trung tâm văn minh lớn thiết chế chính trị, cấu trúc xã hội, văn hóa của của nhân loại và cũng là một trong hai trung người Việt là hệ quả của quá trình “va chạm” tâm văn hóa văn minh lớn, tiêu biểu nhất của với văn minh Trung Hoa2. Tuy nhiên, cũng trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và * ThS., Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, giữ nước của người Việt, cùng với việc kiến lập Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN một quốc gia độc lập, có đường biên giới rạch Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 53
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU ròi, đặc tính văn hóa riêng biệt với phương sinh những di sản của người Chăm trước đây Bắc, thì đặc điểm nổi trội trong quá trình hình [7]. Môi trường hội nhập quốc tế đa dạng được thành và phát triển lãnh thổ của Đại Việt đó là thúc đẩy bởi các chính sách của chúa Nguyễn sự mở rộng không ngừng về phương Nam. là chất xúc tác cho sự phát triển của những Hành trình hàng thế kỷ tiến về phía nam hoạt động giao lưu, tiếp xúc văn hóa tại Đàng đó, trước hết là một sự “kéo giãn” tự nhiên Trong thế kỷ XVI - XVIII. trước áp lực dân số ngày càng tăng của đồng 1. Môi trường quốc tế đa dạng tại Đàng bằng sông Hồng, là “chiến lược” làm giảm đi Trong ảnh hưởng của nền văn minh phương Bắc vốn Với vị trí địa lý và tài nguyên thuận lợi cho liên tục gây sức ép với các chính thể phong thương nghiệp, từ xa xưa, chủ nhân của dải kiến Việt Nam. Hay theo quan điểm của nhiều đất miền Trung đã biết dựa vào biển, khai thác học giả, việc tiến về phía nam của người Việt nguồn lợi của biển để bù đắp những thiếu là quá trình “giải Hoa hóa” trong văn hóa Việt hụt, hạn chế của ngành kinh tế “bản lề” nông Nam. Không chỉ là quá trình mở rộng, sáp nghiệp. Không thể phủ nhận rằng, chủ nhân nhập những không gian địa lý khác nhau, việc của nền văn minh Chăm Pa - người tiền nhiệm tiến về phía nam còn là cơ hội để người Việt trên không gian lãnh thổ của chúa Nguyễn, thâu nhận, tiếp giao các giá trị mới từ phương là những cư dân sống dựa vào biển điển hình Nam, làm đa dạng văn hóa của mình. Trong sự [25]. Hình ảnh tháp Chàm nguy nga, lộng lẫy tiếp xúc và thẩm thấu không ngừng đó thì thế - di sản văn hóa vô giá của người Chăm, nằm kỷ XVI - XVIII, trái với hình ảnh đau thương do duyên dáng đan xen vào màu xanh của núi sự chia cắt giữa Đàng Ngoài (Tonkin) - Đàng rừng, trải khắp dải đất miền Trung là minh chứng rõ ràng cho tiềm lực kinh tế vững mạnh Trong (Cochinchina), giữa chúa Trịnh - chúa của người Chăm [3, tr.107-125]. Sức mạnh kinh Nguyễn, đây lại là giai đoạn biên giới của Đại tế ấy chắc chắn không chỉ từ nguồn thu của Việt được mở rộng mạnh mẽ nhất. ngành nông nghiệp, mà còn có sự đóng góp Với tầm nhìn vượt thời đại, thực thi hàng rất lớn của nguồn lợi từ rừng, từ những mối loạt chính sách cởi mở, hướng biển, các chúa quan hệ thương mại giữa biển và lục địa điển Nguyễn Đàng Trong (1558 - 1777) từ thế cuộc hình của người Chăm. chính trị bị động đã trở thành những người Là những người đến sau, trong thế cuộc chủ động kiến lập một vương quốc, một mô chính trị bất ổn, chúa Nguyễn đã rất nhạy bén hình độc lập với Đàng Ngoài. Trên điều kiện kế thừa các thành tựu, kinh nghiệm của người địa lý nhiều thuận lợi cho các hoạt động giao Chăm trước đây khi xây dựng bệ đỡ về mặt lưu kinh tế biển, nắm bắt nhanh chóng những kinh tế cho chính thể của mình3. Trước những xung lực do bối cảnh khu vực và quốc tế mang tác động mạnh mẽ của thị trường quốc tế do lại, cùng chính sách thoáng mở, Đàng Trong đã Kỷ nguyên Đại thương mại [4] mang lại, chúa tạo dựng môi trường quốc tế năng động cho Nguyễn cũng đặt cược thể chế của mình trên các hoạt động trao đổi, buôn bán, tương tác nền tảng kinh tế ngoại thương, đặc biệt là các về mặt văn hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử, văn mối giao thương trên biển. Có thể khẳng định hóa Việt Nam ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài rằng, chính nhờ việc phát huy hiệu quả điều được định vị không chỉ bởi nhân tố Trung Hoa kiện thuận lợi của yếu tố ngoại sinh và nội sinh, truyền thống mà còn có sự đóng góp to lớn chúa Nguyễn đã mang đến một tiềm lực phát của người Nhật, người Đông Nam Á, và cả triển mới cho vùng đất vốn được coi là chốn Ô người phương Tây. Trao đổi thương mại kéo châu ác địa. Khai thác vị trí trung gian của các theo hoạt động giao lưu về mặt văn hóa đã cảng thị trong mạng lưới thương mại khu vực, mang đến cho chúa Nguyễn Đàng Trong, dù là thông qua hệ thống thuế khóa được quy định người đến sau nhưng có vai trò then chốt hồi rõ ràng đối với tàu thuyền ngoại quốc đến và 54 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  3. VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI đi [23, tr.165], chúa Nguyễn đã thu được nguồn Pênh, Ayutthaya và Manila, nơi các thuyền bè tài chính rất lớn, bổ sung cho những hạn chế của người Hoa cũng đến để trao đổi, buôn bán từ kinh tế nông nghiệp. Lái buôn người Anh, [19, tr.256]. Trong các điểm đến của thuyền Thomas Bowyear, có mặt tại Đàng Trong thời buôn “Châu ấn” tại thị trường Đông Nam Á thì chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), đã cho thương cảng quốc tế Hội An của Đàng Trong biết các mặt hàng được đưa tới Đàng Trong từ là một trong những điểm đến có sức hấp dẫn các quốc gia Đông Nam Á như sau: “Từ Xiêm: nhất với thương thuyền Nhật Bản. Sự xuất hiện lá trầu không, gỗ đỏ, sơn, xà cừ, ngà voi, thiếc, của nhiều thuyền “Châu ấn” phải chăng là lý do chì, gạo; từ Campuchia: thư hoàng, cánh kiến giáo sĩ người Ý Christophoro Borri, khi truyền trắng, sa nhân, sáp, sơn, xà cừ, gỗ đỏ, dựa giáo tại Đàng Trong từ năm 1618 - 1621, đã thông, da trâu, da và gân hươu, ngà voi, sừng khẳng định “người Tàu và người Nhật là những tê…; từ Batavia: bạc, bạch đàn, trầu không, vải người làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng cát bá đỏ và trắng, thuốc màu đỏ; từ Manila: Trong” [9, tr.90]. bạc, diêm sinh, gỗ đỏ, vỏ sò, thuốc hút, sáp, Cũng trong mạng lưới thương mại “Nội Á” gân hươu”. Còn những mặt hàng “Đàng Trong này, hệ thống thương cảng Đàng Trong trở bán ra: vàng, sắt, tơ và hàng tơ dệt, như lĩnh, thành điểm giao thương mạnh mẽ của người lụa,… kỳ nam, trầm hương, đường, đường Hoa. Có mặt ở Đàng Trong những năm 1770, phèn, yến sào, hạt tiêu, bông…” [26, tr.227]. học giả Lê Quý Đôn cho thấy vị trí chiến lược Cùng với những hệ quả do Kỷ nguyên Đại của xứ Thuận Quảng với thị trường phía nam thương mại mang lại, môi trường quốc tế của Trung Hoa như sau: “Xứ Thuận Hóa, đường Đàng Trong còn được tác động bởi những thay thủy đường bộ liên tiếp với xứ Quảng Nam, đổi trong chính sách thương mại của hai quốc gia phía hữu xứ Quảng Nam lại thông với các lớn trong khu vực Đông Bắc Á đó là Trung Hoa và nước phiên, về đường biển thì cách các tỉnh Nhật Bản. Sau gần 200 năm (1371 - 1567) thực Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông không đến 3, 4 hiện chính sách Hải cấm, năm 1567, hoàng đế ngày. Cho nên thuyền buôn từ trước đến tụ nhà Minh đã cho phép những thuyền mành hội ở đấy” [11, tr.299]. Vào thế kỷ XVIII, trong của người Hoa vượt biển buôn bán với các một ghi chép của người Pháp cũng cho biết nước Đông Nam Á, nhưng vẫn nghiêm cấm thêm: “Những chuyến giao thương với Trung hoạt động giao thương với Nhật Bản. Hệ quả Quốc đã trở thành bất lợi vì đến nay, người to lớn của chính sách này là sự thiếu hụt hàng Trung Quốc không còn thích mua hàng hóa hóa của người Hoa tại thị trường Nhật Bản. Âu châu. Như vậy, chúng ta phải mang tiền Trong bối cảnh khan hiếm các hàng hóa xa xỉ đến mới chắc có được hàng hóa mà chở về, và phẩm, người Nhật buộc phải cho thuyền tới người bỏ vốn cho thương thuyền chỉ kiếm lợi các cảng thị Đông Nam Á để thu mua hàng được ở chuyến về mà thôi. Chỉ cần cập bến độ hóa mà Hoa thương mang tới đây. Xuất phát từ hai tháng ở xứ Đàng Trong đủ cứu vãn được mục đích đó, từ năm 1592, Mạc phủ Nhật Bản sự thiệt thòi này, lại còn có thể gia tăng được đã cấp giấy phép cho thuyền buôn của người một số lợi bằng phân nửa số lợi tìm được trong Nhật, gọi là Châu ấn thuyền (Shuisen) (1592 cuộc mậu dịch với Trung Quốc. Các thương - 1634), nhằm thừa nhận, mở rộng quan hệ thuyền của Pháp nếu qua đây, thì trước hết buôn bán hợp pháp với các nước Đông Nam cần mua các loại sản phẩm như: đường, ngà Á và tiến hành mua hàng của người Hoa tại thị voi, gỗ lim, vàng ở Hội An, rồi từ đấy chở qua trường phương Nam. Được hậu thuẫn bởi giấy Quảng Đông. Công ty cần có một nhân viên, thông hành của chính quyền Mạc phủ, các tàu ở ngay tại Hội An, để học tiếng bản xứ và tìm Nhật bắt đầu tới nhiều cảng thị khác nhau ở mua vàng vào mùa đông, vì vào thời gian này, Đông Nam Á, chủ yếu là tới các cảng nằm phía vàng thường được bán lẻ và giá rẻ hơn rất bắc vĩ tuyến 10 như Hà Nội, Hội An, Phnom nhiều so với giá vàng trong các tháng có gió Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 55
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU mùa. Vàng này được đưa qua Quảng Đông có thức rất lớn mà chúa Nguyễn phải đương đầu thể kiếm lời được 100%” [10, tr.67-68]. trong buổi đầu khởi nghiệp. Những quyết định Cùng với những bạn hàng từ các nước đầu tiên trong việc khẳng định vị trí của mình Đông Bắc Á, vào thế kỷ XVI - XVII, cả Đàng ở bên kia dãy Hoàng Sơn đã cho thấy tầm Ngoài và Đàng Trong đều trở thành những nhìn vượt thời đại của chúa Nguyễn. Là người thị trường quan trọng trong mạng lưới giao thuộc dòng dõi quý tộc, trưởng thành từ nền thương “Nội Á” của người phương Tây [20]. giáo dục Nho giáo nhưng chúa Nguyễn Hoàng Tư liệu về mối giao thương tốt đẹp của chúa (1558 - 1613) lại có cái nhìn cởi mở, mềm dẻo, Trịnh và các công ty Đông Ấn hay sự chủ động thích ứng nhanh chóng với những đặc trưng của chúa Nguyễn trong việc thiết lập quan hệ văn hóa của xứ Thuận Hóa. Thay vì áp đặt một thương mại với người phương Tây đã cho thấy mô hình Nho giáo có phần khuôn mẫu và rằng, các chính thể của Đại Việt đều rất năng cứng nhắc, ông lại lựa chọn Phật giáo làm bệ động, tham gia tích cực vào thị trường quốc đỡ về mặt tư tưởng cho thiết chế chính trị non tế. Mặc dù thực tế hoạt động thương mại giữa trẻ, đang trong quá trình tạo dựng của mình. chính quyền Đàng Trong với người Hà Lan, Tư tưởng từ bi, khoan dung của đạo Phật chắc người Anh không có được thành công như tại chắn đã góp phần rất lớn vào việc trấn an tinh Đàng Ngoài [21], nhưng không thể phủ nhận thần cho những người dân xa xứ tha hương rằng, sự hiện diện của người phương Tây trên từ Đàng Ngoài, đồng thời cũng dễ dàng hòa các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong, dù là nhập vào tín ngưỡng của cư dân bản địa. với mục đích thương mại hay truyền giáo, đã Một trong những việc làm khẳng định việc mang đến những tác động mới mẻ lên cả kinh “Việt hóa” những vị thần của vùng đất mới đó tế và văn hóa của xứ Thuận - Quảng. Bờ biển là chỉ sau một năm khi trở về từ Đàng Ngoài Đàng Trong đã trở thành thị trường kết nối lý năm 1601 [15], Nguyễn Hoàng đã cho xây tưởng cho mạng lưới của các Công ty Đông dựng chùa Thiên Mụ bên bờ sông Hương4. Kể Ấn, thương nhân có thể mua thêm hàng hóa từ đây, Phật giáo trở thành bệ đỡ tinh thần, tại đây hoặc tiến hành các hoạt động sửa chữa tôn giáo quan trọng nhất của Đàng Trong. Các tàu thuyền, lấy thêm nước ngọt,... cho những chúa Nguyễn kế nghiệp đều hết sức tôn sùng chuyến hành trình dài hơn đến vùng biển Tây Phật giáo và luôn lấy giáo lý mềm dẻo, uyển hay ngang qua biển Nam Trung Hoa. Trong chuyển của đạo Phật làm phương châm trong mạng lưới giao thương được thiết lập chặt ứng đối của mình. Điều đặc biệt là, chùa Thiên chẽ, hệ thống, vận hành một cách khoa học ấy, Mụ lại nằm trên một cụm tháp cổ của người nhiều thương cảng của Đàng Trong đã chuyển Chăm [24, tr.413]. Khi nghiên cứu những di sản văn hóa Chăm Pa tại miền Trung Việt Nam, biến vai trò của mình từ trung tâm liên vùng nhà khảo cổ học Federico Barocco đã áp dụng trở thành trung tâm liên thế giới. Điều này có một phương pháp nghiên cứu rất thú vị, đó là thể thấy rõ trong hoạt động của thương cảng “Lịch sử nhìn từ phong cảnh”5 (History view Hội An, nơi diễn ra sự giao lưu kinh tế, văn hóa from Landscape). Tác giả cho rằng “các công quốc tế mạnh mẽ nhất tại Đàng Trong. trình tôn giáo thường có vị trí ổn định, hay 2. Hoạt động giao lưu văn hóa đa dạng tại nói cách khác, nó thường được xây dựng lại Đàng Trong tại chính vị trí mà nó đã bị phá hủy”. Đặt trong Khác biệt về nền tảng kinh tế, văn hóa của bối cảnh dựng nghiệp của họ Nguyễn, việc vùng đất mới khiến chúa Nguyễn cùng những Nguyễn Hoàng cho xây dựng trung tâm Phật di dân từ Đàng Ngoài cũng trở thành những giáo của Đàng Trong trên đúng vùng đất linh “người ngoại quốc” tại Đàng Trong. Việc “thu thiêng của người Chăm không chỉ thể hiện phục nhân tâm”, tạo dựng niềm tin với cư dân việc khẳng định vị thế của Phật giáo đối với bản địa cùng những người mới đến là thách những người mới đến mà còn cho thấy những 56 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  5. VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI cố gắng trong việc hòa nhập với tín ngưỡng Trong bối cảnh ấy, chúa Nguyễn đã lựa bản địa của vùng đất mới. Thực tế đã cho thấy, chọn người Hoa trở thành đối tác thương mại chùa Thiên Mụ bên dòng sông Hương đã trở quan trọng nhất để bù đắp những tổn thất thành trung tâm Phật giáo lớn nhất của Đàng trong mối giao thương với người Nhật. Thực tế Trong và cả nhà Nguyễn sau này. thì người Hoa, vốn gần gũi về mặt địa lý, giàu Cùng với việc tạo dựng niềm tin, bệ đỡ về kinh nghiệm giao thương đã là những thương mặt tinh thần, khẳng định vị thế của mình nhân tích cực và năng động nhất của Đàng trong nền văn hóa bản địa của Đàng Trong, Trong. Cùng với việc cho người Nhật cư trú tại chúa Nguyễn còn rất cởi mở trong việc tiếp nhận Hội An, chúa Nguyễn cũng cho phép người những giá trị văn hóa mới. Như đã phân tích chi Hoa định cư lâu dài tại đây. Những số liệu cho tiết ở trên, Đàng Trong vào thế kỷ XVI - XVIII thấy khi người Nhật suy giảm vị thế của mình đã trở thành môi trường quốc tế đa dạng cho tại Đàng Trong thì dường như thương mại đã các hoạt động thương mại. Hệ thống thương được chuyển qua tay người Hoa. Theo báo cảng Đàng Trong trở thành điểm đến lý tưởng cáo được gửi cho Công ty Đông Ấn Hà Lan cho những hoạt động giao thương và giao lưu vào ngày 28 tháng 3 năm 1642 của Francisco văn hóa. Mặc dù có những ưu ái trong việc Groemon, người đã sống ở Hội An hơn 10 năm, lựa chọn đối tác thương mại của Đàng Trong thì số lượng người Hoa tại đây là 4.000 đến nhưng chúa Nguyễn đều là người giữ thế chủ 5.000 người, trong khi người Nhật chỉ còn 40 động trong các mối giao thương này. Số liệu đến 50 người. Nói cách khác, vào đầu những thống kê về số lượng thuyền “Châu ấn” đến năm 1640, người Hoa tại Hội An đông hơn giao thương tại Đông Nam Á đã khẳng định người Nhật Bản gần 100 lần [8, tr.299]. Hệ quả Hội An - thương cảng quốc tế lớn nhất của lớn nhất của sự suy giảm này đó là thương mại Đàng Trong, là điểm đến thường xuyên của giữa Đàng Trong và Nhật Bản đã được chuyển người Nhật. Trong mối quan hệ với người Nhật, sang tay người Hoa. Hoa thương vốn thông chúa Nguyễn đã cho thấy lối ứng đối ngoại thạo thị trường buôn bán, ngày càng trở thành giao mềm dẻo, lịch thiệp của mình. Không chỉ những thương nhân giữ vị trí then chốt, năng tạo điều kiện cho người Nhật đến giao thương, động trong các hoạt động giao thương tại xứ cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, chúa Thuận - Quảng. Nguyễn còn cho phép người Nhật được cư trú Một trong những hành động thể hiện chiến lâu dài tại Hội An để tiện cho việc thông thương lược ngoại giao đa dạng của chính quyền [12]. Thông qua việc chủ động viết thư cho Thuận Hóa đó là cho phép người Hoa được Mạc phủ Nhật Bản6 hay gả con gái của mình khai phá vùng đất phía nam của Đàng Trong. cho thương nhân Nhật Bản, chúa Nguyễn đã Trước những biến động chính trị mạnh mẽ khi khẳng định tư tưởng cởi mở, thịnh tình mong nhà Thanh (1644 - 1911) thay thế nhà Minh muốn các thương nhân từ xứ sở Phù Tang đến (1368 - 1644) cầm quyền tại Trung Quốc, vào Đàng Trong giao thương. Trong khoảng 30 năm 1679, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần năm đầu của thế kỷ XVII, Nhật Bản là đối tác (cq: 1648 - 1687) đã cho phép những người quan trọng và có mối giao thương vô cùng tốt Hoa tị nạn, đứng đầu là Trần Thượng Xuyên đẹp với chính quyền Thuận Hóa. Tuy nhiên, do được vào khai phá vùng đất Nam Bộ8. Trước những biến động của tình hình chính trị trong những tiềm lực phát triển của vùng đất mới, nước, Mạc phủ đã thực hiện chính sách Toả vị thế người Hoa ngày càng cao, chúa Nguyễn quốc7 (Sakoku, 1639 - 1853) kéo dài hơn 200 đã đi đến một quyết định táo bạo đó là thiết năm. Sự kiện này đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ lập quyền quản lý hành chính lên vùng đất Gia đến thị trường các quốc gia Đông Nam Á và Định, thông qua việc thành lập phủ Gia Định các thương cảng của Đàng Trong, nơi có người năm 1698. Bên cạnh đó, chúa Nguyễn Phúc Nhật cư trú đông đảo. Chu còn tổ chức người Hoa thành những đơn Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 57
  6. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU vị cư trú chặt chẽ, quy củ hơn, chúa Nguyễn chúa Nguyễn sai các đường ở châu Bố Chính đã “lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên đều đặt đồng hồ để tính đường sá xa gần, đến lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã tháng 2 năm 1731, lại sai ba ty Tướng thần lại, Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán Xá sai, Lệnh sử là Nguyễn Văn Đạo, Nguyễn đều thành dân hộ của ta” [23, tr.111]. Thực tế Văn Tịnh, Nguyễn Văn Diễn chia nhau đi các cũng cho thấy, cho đến ngày nay, những trung sở tuần ở thượng đạo, chiếu theo thời khắc tâm, cảng thị lớn có lịch sử thương mại lâu đời đồng hồ để nghiệm xem dặm đường gần xa tại miền Trung Việt Nam, dấu ấn của người Hoa [23, tr.126,141]. Những thành tựu y học của vẫn còn rất đậm nét. người phương Tây cũng theo chân các giáo Bên cạnh việc tiếp giao các giá trị văn sĩ, nhà buôn được ứng dụng tại Đàng Trong. hóa Đông Bắc Á truyền thống, Đàng Trong Đây cũng là thời kỳ mà lần đầu tiên các bác còn là nơi hội tụ, giao lưu văn hóa với phương sĩ người phương Tây được tuyển dụng và làm Tây. Trong số các thương nhân phương Tây việc trong triều đình phong kiến Việt Nam10. có quan hệ giao thương với Đàng Trong thì Theo thông tin từ các nguồn sử liệu, Võ vương người Bồ Đào Nha, mặc dù không thiết lập Nguyễn Phúc Khoát là người đầu tiên sử dụng thương điếm, nhưng là những thương nhân có người phương Tây làm bác sĩ riêng của mình, được nhiều ưu ái trong chiến lược ngoại giao, đó là bác sĩ Jean Koffler11. thương mại của chúa Nguyễn. Những mối Trong sự giao lưu, tiếp xúc với văn minh quan hệ thương mại với người Bồ Đào Nha đã phương Tây trên vương quốc của chúa giúp chúa Nguyễn có được tiềm lực rất lớn về Nguyễn, có thể thấy dấu ấn đậm nét nhất là quân sự, và cùng với đó là những tiếp giao về sự du nhập của Kitô giáo và sự ra đời của chữ mặt khoa học kỹ thuật. Nói về sức mạnh quân quốc ngữ. Mặc dù trong lối ứng đối ngoại giao sự của Đàng Trong, thương nhân người Anh với hoạt động của các giáo sĩ, chính quyền Thomas Bowyear, khi đến Đàng Trong năm Thuận Hóa duy trì một chính sách không nhất 1695 - 1696, đã rất kinh ngạc trước sức mạnh quán do lo ngại đến an ninh quốc gia và sự lấn thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Chu. Theo át của tôn giáo mới đối với những giá trị văn vị thương nhân này, Đàng Trong có đến “200 hóa truyến thống, nhưng các giáo sĩ phương chiến hạm, mỗi chiếc có 16 đến 22 khẩu đại Tây vẫn thâm nhập ngày càng mạnh mẽ, phổ bác, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40 đến 44 tay biến những giá trị của một tôn giáo mới vào xã chèo, 100 chiếc thuyền lớn từ 50 đến 75 tay hội bản địa. Điều này cũng khẳng định rằng, chèo, 3 chiếc của người Âu. Các thuyền chiến chúa Nguyễn hoàn toàn chủ động trước các trên đều do xưởng của phủ chúa đóng. Xưởng vấn đề về an ninh quốc gia. Trong sự tiếp xúc đóng tàu Hà Mật có tới 4.000 thợ và đóng được mạnh mẽ đó, có thể nói, sự ra đời của chữ quốc thuyền trọng tải đến 4.000 tấn”9. ngữ có phần đóng góp rất lớn của tập thể các Là nền văn minh luôn đề cao tư duy thực giáo sĩ phương Tây [13, tr.114], trong đó, giáo chứng, chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật, sĩ Alexandre Rhodes là người có công lao lớn nên khi đến thị trường phương Đông, các kỹ nhất. Khi viết nhật ký về hành trình truyền giáo nghệ của văn minh phương Tây cũng nhanh của mình tại Đàng Trong, vị giáo sĩ người Pháp chóng thu hút sự khám phá, tìm tòi của chính đã nhấn mạnh đến sự tham gia, giúp đỡ của quyền bản địa. Những kỹ nghệ về y học, hay người bản địa trong việc phiên âm tiếng Việt kỹ thuật chế tác đồng hồ đã được du nhập và của ông, “người giúp tôi đắc lực là một cậu bé ngày càng trở nên thông dụng tại Đàng Trong. người xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy cho tôi Theo ghi chép của sử quan nhà Nguyễn, việc các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. sử dụng đồng hồ để ước tính thời gian di Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi thì chưa biết chuyển, khoảng cách xa gần đã khá phổ biến tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí thông minh ngay từ thời các chúa Nguyễn. Vào năm 1711, biết những điều tôi muốn nói. Và thực tế trong 58 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  7. VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học quốc tế. Nếu như Hội An là cảng thị lớn nhất viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí của xứ Thuận - Quảng thế kỷ XVI - XVII, thì thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn đến thế kỷ XVIII và đầu XIX, cùng với sự kéo của cậu. Từ đó, cậu đã làm thày giảng giúp các giãn không ngừng về phương Nam, các trung cha” [1, tr.56]. tâm thương mại của Đàng Trong cũng có sự Có thể nói, trong sự giao lưu với văn hóa, chuyển dịch mạnh mẽ về phía nam. Sự nổi lên văn minh phương Đông và phương Tây dưới của Quy Nhơn, Sài Gòn là minh chứng rõ ràng thời chúa Nguyễn Đàng Trong, hệ thống các cho xu hướng này. Cùng với những giao lưu thương cảng chính là nơi tiếp giao, hội nhập tiếp biến văn hóa thông qua các hoạt động đầu tiên. Các cảng thị nằm dọc theo bờ biển ngoại giao, thương mại vốn đã hình thành lâu xứ Thuận - Quảng cũng chính là điểm cuối đời trong khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á, cùng của các lộ trình thương mại trên khắp thì thời kỳ này, vương quốc của chúa Nguyễn vương quốc của chúa Nguyễn. Thương phẩm còn là địa bàn hoạt động nhộn nhịp của các qua nhiều hình thức, con đường vận chuyển thương nhân, nhà truyền giáo, du hành đến từ phương Tây. Có thể nói, đây là giai đoạn mở ra khác nhau đều tập trung về các hải cảng dọc sự giao lưu, gặp gỡ Đông - Tây mạnh mẽ nhất bờ biển để cung cấp cho các thuyền buôn trong lịch sử Việt Nam. Môi trường quốc tế với ngoại quốc. Tại điểm cuối cùng này, đó là sự sự có mặt của nhiều người ngoại quốc, các gặp gỡ, hội tụ của không chỉ nhà buôn bản địa hoạt động buôn bán, truyền giáo, di trú diễn mà còn đông đảo thương nhân khu vực như ra mạnh mẽ tại Đàng Trong đã được thúc đẩy người Hoa, người Nhật, người phương Tây… bởi những chính sách kinh tế, văn hóa đa dạng Thương mại là cơ sở, chìa khoá then chốt mở của chính quyền Thuận Hóa. ra những giao lưu văn hóa đa dạng tại Đàng Trong. Trong một phiên chợ quốc tế tại Hội Khác với vùng đất Đàng Ngoài, vốn có An, những ghi chép của Những người châu Âu nhiều điều kiện thuận lợi cho kinh tế nông ở nước An Nam đã cho thấy sự hội nhập mạnh nghiệp, chúa Nguyễn đã lựa chọn thương mại mẽ, nhộn nhịp này như sau: Thời điểm mở ra làm bệ đỡ, làm hoạt động kinh tế chủ chốt các cuộc trao đổi, giao dịch tại Hội An gần trùng nhất của Đàng Trong. Thực thi chính sách kinh với dịp tết Nguyên Đán. Dân bản xứ có thói tế đa dạng, không ngừng mời gọi và tạo mọi quen mang đến vào lúc ấy những sản phẩm điều kiện cho thương nhân ngoại quốc đến trong xứ: sợi tơ và tơ đã chuốt, gỗ tốt đóng đồ giao thương, chúa Nguyễn đã làm hồi sinh các mạng lưới thương mại vốn đã tồn tại và mang đạc, gỗ trầm hương, đường, xạ hương, quế, hồ lại nguồn lợi to lớn dưới thời kỳ của nhà nước tiêu, gạo. Những tàu Trung Quốc hoặc châu Âu Chăm pa. Chính sách thuế khóa đối với thuyền chở đến đồ sứ thô và đồ sứ tinh xảo, giấy, chè, buôn ngoại quốc được quy định rõ ràng, đa những đồng tiền đúc bằng bạc và những thỏi dạng chủng loại hàng hóa trên các vùng miền bạc, vũ khí, lưu huỳnh, diêm tiêu, chì, hợp kim của Đàng Trong đều được thu mua phục vụ “toutenaque” (hợp kim gồm kẽm, đồng và sắt), cho hoạt động trao đổi với thương nhân các hàng hóa của phương Tây. Công việc giao dịch nước đã mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho kéo dài từ tháng 2 đến tháng 9 dương lịch, tức chính quyền chúa Nguyễn. Bên cạnh đó, nó là khoảng sáu hay bảy tháng; khi xong việc còn là chất xúc tác kéo theo những tác động các thương nhân ngoại quốc ra đi, mang theo to lớn về mặt giao lưu và kết nối văn hóa tại những hàng hóa của lượt về [6, tr.33]. Đàng Trong. Sự có mặt đông đảo của người 3. Một vài nhận xét Hoa, người Nhật đã góp phần rất lớn thúc Thế kỷ XVI - XVIII, hệ thống thương cảng đẩy nhu cầu tiêu dùng của thị trường bản địa. trải dọc trên lãnh thổ Đàng Trong là cửa ngõ Những di sản văn hóa đậm nét của người Hoa quan trọng nhất để tiếp nhận các hoạt động trên nhiều vùng miền của miền Trung Việt giao lưu văn hóa, kinh tế trong khu vực và Nam đã cho thấy hình ảnh giao lưu văn hóa Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 59
  8. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU nhộn nhịp trên vương quốc của chúa Nguyễn núi sông, thấy trên cánh đồng bằng ở xã Hà một thời. Ngoài ra, sự xuất hiện phổ biến của Khê (thuộc huyện Hương Trà) giữa đồng bằng các kỹ thuật phương Tây trong ngành đóng nổi lên một gò cao, như hình đầu rồng quay lại, thuyền, chế tạo vũ khí, khoa học công nghệ,... phía trước thì nhìn ra sông lớn, phía sau thì có hồ rộng, cảnh trí rất đẹp. Nhân thế hỏi chuyện người cũng là kết quả từ những kết nối thương mại địa phương, họ đều nói rằng gò này rất thiêng, với thương nhân phương Tây, vốn được chúa tục truyền rằng: Xưa có người đêm thấy bà già áo Nguyễn khuyến khích và thúc đẩy. đỏ quần xanh ngồi trên đỉnh gò nói rằng: “Sẽ có Cùng với chính sách thương mại đa dạng, vị chân chúa đến xây chùa ở đây, để tụ khí thiêng, chúa Nguyễn cũng cho thấy chính sách văn cho bền long mạch”. Nói xong bà già biến mất. hóa thoáng đạt, mềm dẻo. Dựng nghiệp trên Bấy giờ nhân đấy mới gọi là núi Thiên Mụ. Chúa cho là núi ấy có linh khí, mới dựng chùa gọi là vùng đất vốn có quá khứ huy hoàng và tín chùa Thiên Mụ [23, tr.35]. ngưỡng bản địa đa dạng, chúa Nguyễn cùng 5 Tác giả xin cảm ơn chỉ dẫn của TS. Federico với việc lựa chọn Phật giáo là bệ đỡ tư tưởng Barocco trong buổi thuyết trình Trường Lũy cho chính thể của mình, đã không chối từ nền Quảng Ngãi: bản đồ và lãnh thổ, tại Trung tâm Văn tảng tín ngưỡng bản địa của vùng đất mới. hóa Pháp tại Hà Nội - L’Espace, 24 Tràng Tiền, Hà Trong sự tiếp xúc Đông - Tây diễn ra mạnh mẽ, Nội, 4/6/2019. chúa Nguyễn cũng thực thi chính sách mềm 6 Xem thêm: Phan Thanh Hải, “Quan hệ giữa dẻo tạo điều kiện cho hoạt động của các nhà Việt Nam và Nhật Bản thế kỷ XVI - XVII nhìn từ 35 truyền giáo, góp phần quan trọng phổ biến bức văn thư ngoại giao”, in trong Việt Nam trong một tôn giáo mới hòa vào dòng chảy văn hóa hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI - XVII,… của người Việt. Môi trường văn hóa đa dạng [20, tr.222-253]. với các hoạt động giao lưu mạnh mẽ tại Đàng 7 Sự hạn chế người Nhật ra bên ngoài và cấm ngặt người Nhật ở ngoại quốc được trở về nước Trong đã được tạo lập và thúc đẩy bởi chính đã khiến vị thế người Nhật ngày càng suy giảm, sách cởi mở của chính quyền Thuận Hóa. phố Nhật ở Hội An là một điển hình như vậy. V.T.X 8 “Hy Tông, Vĩnh Trị năm thứ 4 (1679), Kỷ Mùi, tháng 5, bề tôi vong mệnh của nước Đại Minh Chú thích là Long Môn tướng quân Dương Ngạn Địch đem 1 Đặt trong trật tự của thế giới Trung Hoa (The hơn 50 chiến thuyền và hơn 3.000 quân đến Chinese World), học giả nổi tiếng Arnold Toynbee đóng ở ngoài cửa Tư Dung và cửa Đà Nẵng, sợ cho rằng: “Có một mối liên hệ gần gũi hơn nhiều quân Thuận Hóa mạnh giỏi không dám vào. Thủ giữa một bên là văn minh Trung Quốc với một tướng cửa Tư Dung cho người ra hỏi. Ngạn Dịch bên là văn minh Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. dựng cờ trắng hàng. Phúc Tần khiến đến ở đất Ba nền văn minh này mô phỏng văn minh Trung Cao Miên, bảo vua Cao Miên chia đất, cho Ngạn Quốc, nhưng đã vay mượn văn minh Trung Quốc Địch ở cửa biển Mỹ Tho, kết làm anh em, khiến theo những con đường riêng biệt khá đặc trưng, hằng năm cống hiến” [11, tr.76-77]. khiến cho người ta có quyền coi chúng là những 9 Dẫn theo: Phạm Văn Thủy, “Thủy quân Việt nền văn minh riêng biệt - thuộc vào một phân Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX qua các nguồn loại (sous-classe) mà chúng ta có thể gọi là những sử liệu phương Tây”, in trong Nguyễn Văn Kim “Văn minh vệ tinh” (Civilisation satellites) [5, tr.61]. (chủ biên) (2011), Người Việt với Biển, Nxb. Thế 2 Xem thêm tài liệu tham khảo số: 2; 27. giới, Hà Nội, tr.506-523. 3 Trong các công trình nghiên cứu công phu 10 Xem thêm: Đoàn Văn Quýnh (2002), “Các của mình, các học giả nước ngoài đều khẳng thầy thuốc Tây y dưới thời chúa Nguyễn”, Tạp chí định dấu ấn của người Chăm dưới thời chúa Nghiên cứu Huế, tập 3, tr.83-84. Nguyễn cầm quyền là rất đậm nét. Xem thêm: 11 P. Johann Koffler, sinh ngày 19/6/1711, 17; 14, tr.960-961; 22, tr.413-414. tại Prag, năm 1739 sang Goa, đến Macau ngày 4 Đại Nam thực lục cho biết sự kiện này như 26/7/1740, rồi đến Đàng Trong, tạo được ảnh sau: Tân Sửu, năm thứ 44 (1601), bắt đầu dựng hưởng lớn nhờ kiến thức y học của ông. Năm chùa Thiên Mụ. Bấy giờ chúa dạo xem hình thế 1747, ông trở thành quan Ngự y của triều đình 60 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  9. VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI với cái tên “Nhiem” có nghĩa là “Người thợ cả cẩn 15. Keith W. Taylor (2002), “Nguyễn Hoàng và bước thận và tài ba”. khởi đầu cuộc Nam tiến”, Tạp chí Xưa và Nay, số 104. 16. Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Quang Ngọc Tài liệu tham khảo (chủ biên) (2018), Biển với lục địa vai trò và mạng 1. Alexandre De Rhodes (1994), Hành trình và lưới giao lưu ở lưu vực các dòng sông miền Trung, truyền giáo, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Thành Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. phố Hồ Chí Minh. 17. Li Tana (1998), Nguyễn Cochinchina 2. Alexander Woodside (1971), Vietnam and Southern Vietnam in the Seventeenth and the Chinese model: A comparative study of Nguyễn Eighteenth Centuries, Southeast Asia Program and Ch’ing Civil Government in the first half of the Publications Cornell University Ithaca, Newyork. Nineteenth century, Harvard University Press. 18. Đoàn Văn Quýnh (2002), “Các thầy thuốc 3. Andrew Hardy (2008), “Eaglewood and Tây y dưới thời chúa Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu the Economic History of Champa and Central Huế, tập 3. Vietnam”, in trong Andrew Hardy, Mauro Cucarzi 19. Shigenru Ikuta (1991), “Vai trò của các and Patrizia Zolese, Champa and the Archaeology cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á từ thế kỷ 2 of Mỹ Sơn (Vietnam), NUS Press Singapore. TCN đến đầu thế kỷ 19”, in trong Đô thị cổ Hội An, 4. Anthony Reid (1993), Southeast Asia in the Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Age of Commerce, Volume 2: Expansion and Crisis, Yale University press new Haven and LonDon. 20. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN (2007), Việt Nam trong hệ thống thương 5. Arnold Toybee (2002), Nghiên cứu về lịch sử mại châu Á thế kỷ XVI - XVII, Nxb. Thế giới, Hà Nội. - Một cách thức diễn giải, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 21. Hoàng Anh Tuấn (2007), Silk for Silver: 6. Charles B. Maybon (2006), Những người Dutch - Vietnamese Relations, 1637 - 1700, Brill. Châu Âu ở nước An Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 7. Charles Wheeler (2006), “One region, two 22. Victor Lieberman (2003), Strange histories: Cham precedents in the history of the Parallels Southeast Asia in Global Context, c. 800 Hoi An Region”, in trong Nhung Tuyet Tran and - 1830, Volume I, Integration on the Mainland, Anthony Reid, Vietnam Borderless Histories, The Cambridge University Press. University of Wisconsin Press. 23. Viện Sử học (2002), Đại Nam thực lục, tập I, 8. Chingho A. Chen (2002), “Historial Notes Nxb. Giáo dục, Hà Nội. on Hoi An (Faifo)”, Chapter 2: the opening of Hoi 24. Trần Quốc Vượng (1998), “Văn hoá Huế An and Its development in Trade, in trong John trên dặm (đường) dài lịch sử”, in trong Trần Quốc E. Wills and Jr, Eclipsed Entreprotos of the Western Vượng, Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb. Văn Pacific: Taiwan and Central Vietnam, 1500 - 1800 hoá dân tộc & Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, Hà (The Pacific World: Lands, Peoples and History of Nội. the Pacific, 1500-1900), vol 5, Ashgate Varioum. 25. Trần Quốc Vượng (1985), “Chiêm cảng Hội 9. Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong An với cái nhìn về biển của người Chàm và người năm 1621, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. Việt”, in trong Kỷ yếu Hội nghị khoa học về khu phố 10. Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời cổ Hội An, 23-24/7/1985. đại, Nxb. Cổ học tùng thư, Đà Nẵng. 26. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt 11. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb. Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, Nxb. Sử Khoa học xã hội, Hà Nội. học, Hà Nội. 12. Vũ Minh Giang (1991), “Người Nhật, phố 27. Yoshiharu Tsuboi (2018), Nước Đại Nam Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”, in trong Đô thị đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 - 1885), Nxb. cổ Hội An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Tri thức & Nhã Nam, Hà Nội. 13. Nguyễn Thiện Giáp (2017), Lược sử Việt ngữ học, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 14. K. W. Taylor (1998), “Surface Orientations Ngày nhận bài: 5 - 2 - 2020 in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 2 - 2020 Region”, The Journal of Asian Studies, Vol. 57, No. 4 (11/1998). Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020 Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 61
nguon tai.lieu . vn