- Trang Chủ
- Chính trị học
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển cao của chư nghĩa tư bản tự do cạnh tranh,mà giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Xem mẫu
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển
cao của chư nghĩa tư bản tự do cạnh tranh,mà giai
đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước
- Lời Nói Đầu
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao của xã
hội loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ
trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một
hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau cách mạng Pháp
cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần
chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước
của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị - kinh tế -
xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Tiếp theo sau giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên
đến giai đoạn cao hơn đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực
tiếp giai đoạn tự do cạnh tranh trong cùng một phương thức sản xuất
TBCN.
Đây là những nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của
chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích
ứng với những biến động trong tình hình thế giới từ cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX cho đến nay. Để hiểu hơn về vấn đề này, chúng ta sẽ đi
nghiên cứu đề tài:
'' Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển cao của chư
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh,mà giai đoạn tột cùng của nó là chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước "
A. chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển cao
của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn là: chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh và chủ nghĩa tư bản độc quyền. Đây là hai giai đoạn
nằm trong cùng một phương thức sản xuất, chúng có bản chất giống
nhau, chỉ khác nhau về hình thức biểu hiện.
- Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là giai đoạn đầu tiên của hình thái
kinh tế tư bản chủ nghĩa ( giai đoạn thấp), nó ra đời cùng với sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản , phát triển mạnh vào thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX.
Trong giai đoạn chủ nghĩa cạnh tranh tự do, giữa các nhà tư bản trong
một ngành và giữa các ngành diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt, quyết liệt.
Cạnh tranh giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế.
Nghiên cứu cntb tự do cạnh tranh, C.Mac và ph Ăngghen đã dự báo rằng:
cạnh tranh tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung
sản xuất phát triển đến môt mức nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện
lịch sử mới của thế giới,V.I.Lenin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản
đã bước sang giai đoan mới là chủ nghĩa tư bản độc quyền với các đặc
điểm kinh tế cơ bản có những nét khác biệt với cntb tự do cạnh tranh.
I. Chủ nghĩa tư bản độc quyền
1) CNTB độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
như một sự tất yếu, phù hợp với những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác, điều kiện hoàn cảnh thế giới mới, quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất đối với sự phát triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ khoa
học kỹ thuật, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó
đã là những ngành có trình độ tích tụ cao, đó là những xí nghiệp lớn đòi
hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, những thành tựu của khkt mới xuất
hiện một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp
phải có quy mô lớn, mặt khác nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng
khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
Sự phát triển của cạnh tranh, Một mặt buộc các nhà Tư Bản phải cải
tiến kỹ thuật, tăng qui mô tích lũy. Mặt khác, đã dẫn đến nhiều doanh
nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém, hoặc bị các đối thủ mạnh thôn tính,
hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy xuất
- hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay
trong một số ngành công nghiệp.
Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các
quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy
luật tích lũy..v..v... càng ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế
của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phả sản.
Một số sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó
thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
Hệ thống tìn dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo
tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức đôc quyền.
Những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ lại tiếp
tục cạnh tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế
nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên, ta có thể khẳng định: " cạnh tranh tự do đẻ
ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới
một mức độ nhất định, lại dẫn đến độc quyền." - (trích lời của
V.I.Lenin)
2. Đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB-đôc quyền:
Xét về bản chất CNTB độc quyền là một nấc thang phát triển mới của
CNTB tự do cạnh tranh
CNTB độc quyền là CNTB trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của
nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Sự ra đời của CNTB độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất
của CNTB. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình
thái biến tướng của quy luật giá trị thặng dư.
a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền:
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc
quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của CN đế quốc
Sự tích tụ và tập trug sản xuất cao đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ
chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có
- thể dễ dàng thỏa hiệp với nhau; măt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn ,
kỹ thuật cao nên cạnh tranh gay gắt quyết liệt, khó đánh bại nhau. Do đó
đã dẫn đến khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm độc quyền.
''Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để
tậptrung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại
hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.''
Khi bắt đầu chuyển sang CNTB- ĐQ thì hình thức thống trị là công ty cổ
phần. Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự liên kết
ngang ( cùng ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.
Sau đó là sự liên kết dọc. Sự liên kết này không chỉ các xí nghiệp lớn mà
cả các Xanhđica, Trớt thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với
nhau về kinh tế - kỹ thuật dẫn đến hình thành các công ty độc quyền lớn
như: Côngxoocxiom.
Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa
ngành hình thành các công ty lớn như: Cônglômêrát, Consơn thâu tóm
nhiều công ty xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp khác nhau.
Vị trí, vai trò của cá tổ chức độc quyền: Nhờ nắm được địa vị thống trị
trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng
định ra giá cả độc quyền.
Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá
cả sản xuất:
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những
hàng hóa bán ra.
* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những
hàng hóa mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc
quyền.
Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá
trị và quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi toàn xã hội thì: Tổng
giá cả vẫn bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị
thặng dư.
Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản
vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.
Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị,
nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn
tại song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên
trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ
tự do cạnh tranh về mức độ và hình thức.
- b. TB tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:
Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành
ngân hàng cũng diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức
độc quyền ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng
cũng giống như trong công nghiệp.
Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò
của ngân hàng, cũng như quan hệ giữa ngân hàng và tư bản công nghiệp.
Ở cntb tự do cạnh tranh, ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thanh toán
và tín dụng thì nay ngân hàng đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã
hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công
nghiệp vay và nhận gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công
nghiệp tring một thời gian dài, nên lợi ích của chúng quyện chặt vào nhau.
Hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào
nhau, hình thành nên TB tài chính.
'' tư bản tài chính là kêt quả của của sự hợp nhất của tư bản ngân hàng
của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên
minh độc quyền các nhà công nghiệp''
Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ
độc quyền chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội
TB. Đó chính là bọn đầu sỏ tài chính.
Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ
tham dự" với số phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty
mẹ) -> chi phối công ty con ->chi phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng
một số TB nhất định một đầu sỏ tài chính có thể chi phối được những
lĩnh vực sản xuất.
Ngoài ra bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như: lập công
ty mới, phát hành trái khoán, đấu cơ ruộng đất,.... để thu được lợi nhuận
độc quyền cao.
Những hình thức biến tướng của ngân hàng, sự xuất hiện tư bản tài
chính, đầu sỏ tài chính là một sự khác biệt, sự phát triển về cách thức thu
lợi nhuận cũng như khống chế và điều tiết tư sản so với trong cạnh tranh
tự do. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít,
chủ nghĩa quân phiệt, chạy đua vũ trang..v..v.nhằm áp bức bóc lột các
nước đang phát triển và chậm phát triển.
c. Xuất khẩu tư bản:
- V.I.Lenin chỉ ra rằng: xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của
chủ nghĩa tư bản độc quyền.
-Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá
trị và giá trị thặng dư.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi
nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản đó.
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,xuất khẩu tư bản là tất yếu:
Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản", các nước phát
triển đã tích lũy được môt khối lượng tư bản lớn, cần tìm nơi đầu tư có
nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước.
trong khi đó, giá trị nguyên liệu và nhân công ở các nước chậm phát triển
rẻ, nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật nên tỷ suất lợi nhuận cao, hấp dẫn
đầu tư tư bản và có thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng lớn.
Có hai hình thức xuất khẩu tư bản chủ yếu
- Xuất khẩu tư bản trực tiếp: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp kinh
doanh thu lợi nhuận,....
- Xuất khẩu tư bản gián tiếp: Cho vay tư bản để thu lợi tức….
Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc
biệt là đối với các nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc
về kinh tế, dẫn tới lệ thuộc về chính trị. Việc xuất khẩu tư bản là sự mở
rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ
yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên
phạm vi toàn cầu.
d. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền
quốc tế
Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn
đến việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực
đầu tư TB, phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền quốc
tế với nhau... Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế: Cacten,
Xanhđica, Trớt quốc tế. Nhưng giữa cac tổ chức này luôn luôn diễn ra sự
cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ đó hình
thành các liên minh độc quyền quốc tế.
- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản
tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn đến sự phân chia thế giới
về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ rằng thi trương
trong nước luôn gắn với thị trường ngoài nước.
nếu như ở cntb cạnh tranh tự do, thị trươmg trong nước được coi trọng
hơn thì đăc biệt trong cntb độc quyền, thị trường ngoài nước còn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng với các nước đế quốc. V.I.Lenin nhận xét "
Bọn tư sản chia nhau thế giới không phải do tính độc ác đặc biệt của
chúng mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con
đường ấy để kiếm lời"
e. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế
quốc
Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm
chiếm thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các
đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị
trường tiêu thụ. Do tác động đó, đặc biệt là do tác động của quy luật phát
triển không đều của CNTB đó là những nguyên nhân dẫn đến các cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, cũng như các cuộc xung
đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới hiện nay...
Sự phân chia thê giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc
phân chia thế giới về lãnh thổ. Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao,
nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh cằng gay gắt thì cuộc đấu
tranh để chiếm thuộc địa trên thế giới càng quyết liệt hơn.
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt
chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về măt kinh tế là
sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu
chiến, xâm lược.
3) sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng
dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
a) quan hệ giữa độc quyền và tự do cạnh tranh trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản độc quyền.
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh
tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không làm thủ tiêu cạnh
- tranh tự do, trái lại, nó còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và
có sức phá hoại to lớn hơn.
Quan hệ cạnh tranh trong cntb độc quyền phát triển hơn so với trong
cntb cạnh tranh tự do. ở đây không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những
người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong cạnh
tranh tự do mà có thêm các loại cạnh tranh:
-Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc
quyền. các tổ chức độc quyền tìm cach chèn ép . chi phối, thôn tính các xí
nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp để đánh bại đối thủ.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Có thể trong cùng một
ngành, các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về nguồn nguyên
nhiên liệu... kết thúc bằng sự phá sản của một bên, hoặc là sự thỏa hiệp.
- Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Nhằm giành thị
trường tiêu thụ, chiếm cổ phiếu khống chế....
b) quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của
chủ nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan
hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản,
mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng,phát triển những xu thế sâu sắc nhất của
chủ nghĩa tư bản và nền sản xuất hàng hóa nói chung, nên nó cũng làm
cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và của chủ nghĩa tư
bản có những biểu hiện mới.
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá
cả độc quyền, thấp hơn khi mua và cao hơn khi bán. Tuy nhiên điều đó
không có nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đọc quyền quy luật giá
trị không còn hoạt động. về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát
ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị.
Nếu trong chue nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện
tành quy luật giá cả sản xuất, thì trong chủ nghĩa tư bản độc quyền quy
luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng
dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
''Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tình theo % giữa tổng giá trị
thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa''
Thì bước sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các tổ chức độc
quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi
nhuận đọc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao là hình
thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn cntb độc
- quyền. quy luật này phản ánh quan hệ bóc lột và thống trị của tư bản độc
quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế
giới.
B. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là giai đoạn phát
triển tột cùng của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Ngay từ đầu thế kỷ XX, V.I.Lenin đã chỉ rõ:" chủ nghĩa tư bản độc
quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là khuynh
hướng tất yếu"
Căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã đạt được vào
thời kỳ cuối XIX đầu XX, xu hướng tiếp tục phát triển của lực lượng sản
xuất, những hạn chế của quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tác động của quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất đối với sự phát triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa...ta có thê
thấy rằng cntb độc quyền sẽ phát triển lên một nấc thang cao hơn là cntb
độc quyền nhà nước.
1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước.
a. Nguyên nhân:
Một là: Sự phát triển của LLSX dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày
càng lớn, tính chất xã hội hoá của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi phải
có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch
hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công cụ khác
nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế.
Hai là: Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một
só ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không
muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận (như
năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản...).
Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo
điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác
- có lợi hơn.
Ba là: sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giai
cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhân dân lao động. Nhà nước
phải có chính sách để giải quyết những mâu thuẫn đó: Trợ cấp thất
nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phat triển phúc lợi xã hội.
Bốn là: Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ
chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ
chức kinh doanh vừa và nhỏ….trở nên gay gắt cần có sự điều tiết, can
thiệp của nhà nước….
Năm là: Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng
của các tổ chức liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào
quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích giữa các đối thủ trên thì trường thế
giới. Đòi hỏi có sự điều tiết các quan hệ chính trị, kinh tế quốc tế của nhà
nước tư sản. Nhà nước tư sản có vai trò quan trọng để giải quyết các
quan hệ đó.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với CNXH
hiện thực và tác động của cách mạng khoa học- công nghệ, đòi hỏi có sự
can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
b. Bản chất.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một nấc thang phát triển của
chủ nghĩa tư bản độc quyền, là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và
thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và
cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản
Xét về bản chất CNTB độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản,
chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù đã có nhiều thay
đổi so với chủ nghĩa tư bản thời kỳ canh tranh tự do.
CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư
bản độc quyền, nhưng nó vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc
quyền.
CNTB độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ nghĩa tư
bản độc quyền thời kỳ đầu. Nó là sự thống nhất của 3 quá trình gắn bó
chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò
- can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế độc quyền
tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và
bộ máy nhà nước phụ thuộc vào ác tổ chức độc quyền.
Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản đọc quyền nhà nước, nhà nước đã trở
thành một tập thể tư bản khổng lồ. nó cũng là chủ sở hữu những xí
nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà
tư bản thông thường. nhưng nó vẫn có những điểm khác biệt: ngoài chức
năng một nhà tư bản thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị
và các công cụ trấn áp: cảnh sát, quân đội, nhà tù....
Ở đây nhà nước tư bản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà
tư bản xã hội, đồng thời lại là người quản lý xã hội bằng pháp luật với
bộ máy bạo lực to lớn.
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội, chứ không chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc
quyền của chủ nghĩa tư bản.
Đặc điểm nổi bật của CNTB độc quyền nhà nước là sự can thiệp, sự
điều tiết của nhà nước về kinh tế. trong giai đoạn CNTB tự do cạnh
tranh, nhà nước tư sản ở bên trên,bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của
nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. nhưng
trong CNTB độc quyền nhà nước, vai trò của nhà nước có sự thay đổi,
không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn
có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực khinh tế nhà
nước...
Như vậy CNTB độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế
mới so với CNTB, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với CNTB
độc quyền. CNTB độc quyền nhà nước chỉ là CNTB độc quyền có sự can
thiệp, điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư
bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà
nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự
biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai
trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật.
cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền vai trò của nhà
nước tư sản dần dần co sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản
xuất xã hội bằng thuế và phấp luật mà còn có vai trò tổ chức và quản lý
các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa
tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
III- Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước so với chủ nghĩa tư bản độc quyền cũ
Xét về phương diện lịch sử, chủ nghĩa tư bản vào thế kỷ XX trở lại đây
đã có những biến đổi sâu sắc, có thể coi như một bước phát triển mới của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
1. Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản
độc quyền
a) Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền:
sự xuất hiện ngày càng nhiều những công ty độc quyền xuyên
quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ
Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của các consơn
và cônglômêrát ngày càng được tăng cường. Cách mạng khoa học và công
nghệ dường như biểu lộ thành hai xu hướng đối lập nhau nhưng thực ra
là thống nhất với nhau: xu hướng tập trung và xu hướng phi tập trung hóa.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất: việc ứng dụng các thành tựu cách mạng khoa học và
công nghệ cho phép tiêu chuẩn hóa và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng
sâu rộng, dẫn tới hình thành hệ thống gia công, nhất là trong những ngành
sản xuất ô tô, máy bay, đồ điện, cơ khí, dệt, may mặc, đồ trang sức, xây
dựng nhà ở.
Nhìn bề ngoài, dường như đó là hiện tượng "phi tập trung hóa", nhưng
thực chất đó chỉ là một biểu hiện mới của sự tập trung sản xuất, trong đó
các hãng vừa và nhỏ lệ thuộc và chịu sự chi phối của các chủ hãng lớn về
công nghệ, vốn, thị trường, v.v..
Thứ hai: những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế
thị trường.
Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất,
linh hoạt ứng phó với tình hình biến động của thị trường, mạnh dạn trong
việc đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm, kể cả những
ngành lúc đầu ít lợi nhuận và những ngành sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá
- biệt. Các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng đổi mới trang bị kỹ thuật mà không
cần nhiều chi phí bổ sung.
b) Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư
bản tài chính
Thích ứng với sự biến đổi mới, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị
của tư
bản tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết
và thâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp.
Ngày nay, phạm vi liên kết được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập
đoàn tài chính thường tồn tại dưới hình thức những tổ hợp đa dạng kiểu
công - nông - thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự - dịch vụ
quốc phòng. Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn, phức
tạp hơn. Vai trò kinh tế và chính trị của tư bản tài chính ngày càng lớn,
không chỉ trong khuôn khổ quốc gia mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các
nước khác trên thế giới. Trùm tài chính không chỉ tăng cường địa vị thống
trị về kinh tế mà còn tăng cường sự khống chế và lợi dụng chính quyền
nhà nước. Trong chính phủ, họ có nhiều người đại diện hơn, hơn nữa,
việc tự mình đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong chính phủ ngày
càng phổ biến.
Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời
sống kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa
quốc gia và xuyên quốc gia, tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia
thâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới (WB) và
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế
đã dẫn đến sự ra đời các trung tâm tài chính của thế giới như: Nhật Bản,
Mỹ, Cộng hoà Liên bang Đức, Hồng Kông, Singapo...
c) Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của tư bản độc quyền nhưng quy
mô, chiều hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước
phát triển mới
Có sự tăng trưởng rất nhanh của việc xuất khẩu tư bản của các nước
tư bản phát triển. Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản ngày càng
lớn, một mặt, là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc
đẩy sự phát triển của việc phân công quốc tế, việc quốc tế hoá sản xuất
và việc tăng nhanh tư bản "dư thừa" trong các nước; mặt khác là do sự tan
rã của hệ thống thuộc địa cũ sau chiến tranh.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước
kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển sang các nước kém phát triển (khoảng 70%). Nhưng từ sau những
năm 70 của thế kỷ XX, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các nước
phát triển, mở đầu bằng việc tư bản quay trở lại Tây Âu.
- Từ những năm 70, của thế kỷ XX đại bộ phận dòng tư bản lại chảy qua
chảy lại giữa các nước tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau. Nguyên nhân
chủ yếu của sự chuyển hướng đầu tư nói trên là:
- Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong tình
hình chính trị thiếu ổn định; thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi;
thiếu đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành
nghề; trình độ dân trí thấp và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân ít,
không đủ mức cần thiết để tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
- Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch vụ mới, nhất là
những ngành có hàm lượng khoa học cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu
tư vào nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và sản xuất. Có một sự di chuyển
vốn trong nội bộ các công ty độc quyền xuyên quốc gia. Các công ty này
cắm chi nhánh ở nhiều nước, nhưng phần lớn chi nhánh của chúng đặt ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để vượt qua những hàng rào bảo
hộ mậu dịch và khắc phục những trở ngại do việc hình thành các khối
liên kết như EU, NAFTA... các công ty xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào
trong các khối đó để phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan... đã vượt qua
cả lệnh cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng
hạn họ đầu tư thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam - đó là bằng
chứng rõ rệt chứng minh cho xu hướng trên. Sở dĩ như vậy là vì tình trạng
thiếu dầu khí và những kim loại quý hiếm vẫn đang là "gót chân Asin"
của nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, trong khi đó các
nước đang phát triển giàu tài nguyên lại thiếu vốn và kỹ thuật để khai
thác, và nguồn lợi cao từ lĩnh vực này đối với cả hai phía.
d) Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu
vực hóa nền kinh tế
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền xuyên quốc
gia tăng lên càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự
phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy
việc hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước quốc tế.
Cùng với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế lại diễn ra
hiện tượng khu vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh tế khu
vực như: Liên hợp châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam á
(ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC)...
Ngày càng có nhiều nước tham gia vào các Liên minh Mậu dịch tự do
(FTA) hoặc các Liên minh Thuế quan (CU).
- ( FTA là khu vực trong đó các nước thành viên cam kết xoá bỏ hàng
rào thuế quan đối với hàng hóa của nhau.
CU là liên minh trong đó các nước thành viên có mức thuế chung
đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài khối)
. Các liên minh kinh tế khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng
có nhiều ưu thế hơn so với tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu.
e) Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới
những hình thức cạnh tranh và thống trị mới
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới
đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc
công khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện
"Chiến lược biên giới mềm", ra sức bành trướng "biên giới kinh tế" rộng
hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sự lệ
thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cường
quốc.
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng
lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh
thương mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng trong hoặc
núp sau các cuộc đụng độ đó là các cường quốc đế quốc.
Những cuộc tấn công của Mỹ và đồng minh vào afganixtan, Irắc... chứng
tỏ chủ nghĩa đế quốc vẫn là một đặc điểm trong giai đoạn phát triển hiện
nay của chủ nghĩa tư bản.
Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, chủ nghĩa tư bản đôc
quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay vẫn là chủ nghĩa tư bản
độc quyền. Những biểu hiện mới đó chỉ là sự phát triển của năm
đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền mà thôi.
2. Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có
những biểu hiện mới sau đây:
- Các hình thức của kinh tế thuộc nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
ngày càng trở nên đa dạng: nó vừa bao gồm các xí nghiệp thuộc nhà nước
trong các ngành sản xuất vật chất, vừa bao gồm các tổ chức tài chính
thuộc ngân hàng, ngành kinh tế thứ ba (dịch vụ), cùng những công trình cơ
sở hạ tầng xã hội mới xây dựng do nhà nước tư bản chủ nghĩa đầu tư.
- Kinh tế thuộc nhà nước và tư nhân kết hợp tăng lên mạnh mẽ: Năm
1979, trong 40 công ty công nghiệp lớn nhất của Tây Âu có 7 công ty hỗn
hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân, trong đó vốn nhà nước chiếm khoảng
một nửa. Trong công ty dầu lửa của Mỹ, cổ phần do Chính phủ nắm là
- 46%. ở Cộng hoà Liên bang Đức đã có 1.000 xí nghiệp thuộc Nhà nước và
tư nhân kết hợp.
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết
quá trình tái sản xuất xã hội tăng lên nhiều : Trước Chiến tranh thế giới
thứ nhất, khoản chi này chiếm khoảng 10% tỷ trọng tổng giá trị sản
phẩm quốc dân, thì đến đầu những năm 1980, khoản chi này đã chiếm
hơn 30%, cá biệt có nước vượt quá 50%.
-Phương thức điều tiết của nhà nước cũng thay đổi một cách linh hoạt,
mềm dẻo hơn, kết hợp điều tiết tình thế với điều tiết dài hạn. Các công
cụ và phạm vi điều tiết của nhà nước cũng đa dạng và mở rộng hơn.
III: Sự biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản trong giai
đoạn hiện nay và hành động của chúng ta
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản luôn tìm cách thích nghi
trước sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp của các mối quan hệ kinh
tế, chính trị quốc tế, nhưng bản chất của chúng vẫn không thay đổi.
Bởi vậy, trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta
phải đề cao cảnh giác, chủ động chống lại âm mưu "diễn biến hòa
bình", ra sức phát huy nội lực và giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa.
I - Chủ nghĩa tư bản ra đời cách đây hơn 500 năm và có bốn lần thay đổi
lớn. Vào giữa thế kỷ thứ XVIII, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần
thứ nhất nổ ra, chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và thương nghiệp chuyển
thành chủ nghĩa tư bản công nghiệp và tự do cạnh tranh. Cuối thế kỷ thứ
XIX, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai xuất hiện, chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm 30 của thế kỷ
XX và rõ nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc
quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Bắt đầu từ
những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đã dẫn đến toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền
xuyên quốc gia.
Cùng với sự phát triển của các công ty độc quyền xuyên quốc gia và toàn
cầu hóa nền kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản tổ chức ra Quỹ tiền tệ
quốc tế, Ngân hàng thế giới và các thỏa thuận về thuế quan. Do nhu cầu
- điều chỉnh quan hệ thương mại nên ngay từ năm 1948, các nước tư bản
đã tổ chức ra Hiệp định chung về thuế quan (GATT). Sau đó, do tiến trình
khu vực hóa được xúc tiến mạnh mẽ nên đã dẫn đến sự ra đời của các
Cộng đồng kinh tế châu Âu , Khu vực tự do Bắc Mỹ, Diễn đàn kinh tế
khu vực châu Á - Thái Bình Dương . Tiếp đó, nền kinh tế toàn cầu ngày
càng phát triển nhanh và sự ra đời của kinh tế tri thức đã làm nảy sinh
nhiều mối quan hệ kinh tế thế giới, buộc chủ nghĩa tư bản độc quyền
xuyên quốc gia phải mở rộng.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các công ty độc quyền xuyên quốc gia là
lực lượng thao túng thị trường thế giới. Hiện nay, khoảng 200 công ty
xuyên quốc gia đang chiếm 1/3 GDP của thế giới, thâu tóm 70% vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), 2/3 mậu dịch quốc tế và trên 70% chuyển
nhượng kỹ thuật của thế giới.
Rõ ràng, sự phát triển của khoa học, công nghệ đã dẫn đến toàn cầu hóa
nền kinh tế thế giới. Nói một cách cụ thể, nó đã buộc chủ nghĩa tư bản
độc quyền xuyên quốc gia phải thích nghi bằng cách tổ chức ra các thị
trường khu vực, thị trường thế giới, các quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng
thế giới để giải quyết các mối quan hệ kinh tế và nhất là để thao túng thị
trường thế giới. Sự ra đời của những tổ chức này có đưa lại thời cơ phát
triển kinh tế cho các nước kém phát triển, nhưng mục đích chính của nó là
để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản,
hay nói cách khác, để chủ nghĩa tư bản chi phối nền kinh tế thế giới. Đó
cũng chính là bản chất của thị trường thế giới.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền tìm cách thích nghi để vừa thao túng thị
trường thế giới, vừa thực hiện âm mưu gây ảnh hưởng về chính trị đối
với các nước. Nếu trước đây, hình thức xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
là chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, do
tương quan lực lượng thay đổi và mất thế chủ động lịch sử, nên hình thức
xâm lược của nó là chủ nghĩa thực dân kiểu mới, thực hiện xâm lược,
thôn tính thông qua bàn tay người bản xứ, dưới chiêu bài "độc lập", "quốc
gia" giả hiệu.
Trước đây, hình thức xâm lược của chủ nghĩa đế quốc là chiến tranh. Sau
này, do phong trào chống chiến tranh phát triển mạnh mẽ, hơn nữa, nếu
tiến hành chiến tranh thì sẽ tốn kém, dễ bị các nước tư bản khác vượt
qua, nên chủ nghĩa đế quốc chuyển sang dùng sức mạnh về tiền vốn,
công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và thị trường làm công cụ, cùng
- với các thủ đoạn chính trị, ngoại giao, văn hóa, tư tưởng để thực hiện
"diễn biến hòa bình", "giành thắng lợi không cần chiến tranh" hay còn
được gọi là "một thứ chiến tranh không có khói súng". Nếu trong thời kỳ
"chiến tranh lạnh", chiến lược của chủ nghĩa đế quốc là "ngăn chặn", dẫn
đến sự xuất hiện của chủ nghĩa cơ hội trong giới lãnh đạo Đảng Cộng
sản ở một số nước xã hội chủ nghĩa, thì ngày nay chúng tiến hành chiến
lược "vượt trên ngăn chặn", tấn công thẳng vào hệ thống chính trị của các
nước xã hội chủ nghĩa bằng âm mưu "diễn biến hòa bình".
Nhìn lại thế giới trong mấy thập kỷ qua, chúng ta thấy nổi lên các sự kiện
chứng minh bản chất xâm lược, thôn tính của chủ nghĩa đế quốc hiện
đại. Nói cách khác, trong thời đại ngày nay, bản chất của chủ nghĩa đế
quốc không hề thay đổi mà chỉ có sự thích nghi của chúng trước những
biến đổi của tình hình.
Việc gia nhập nền kinh tế của thế giới đang đưa lại cho nước ta
nhiều cơ hội lớn:
- Tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế để hình thành hệ
thống sản xuất, kinh doanh phù hợp với sự phát triển của sản xuất, kinh
doanh trong thời đại mới - thời đại kinh tế tri thức.
- Có điều kiện thuận lợi để tiếp cận thị trường thế giới, thu hút đầu tư,
tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của các
nước tư bản phát triển, nhằm phát triển lực lượng sản xuất cũng như nền
sản xuất xã hội.
- Đối diện với các cuộc cạnh tranh quyết liệt và điều đó sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp ở nước ta đổi mới, năng động hơn để tồn tại, phát triển và
thúc đẩy người lao động phấn đấu nâng cao kỹ năng lao động để đáp ứng
đòi hỏi của thị trường lao động.
- Cho phép nước ta cải thiện vị trí của mình khi tham gia vào việc xác định
các quy chế thương mại toàn cầu và có điều kiện để đấu tranh bảo vệ lợi
ích của mình trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại, tránh mọi
sự phân biệt đối xử.
- Chúng ta phải cải cách hệ thống ngoại thương để bảo đảm tính thống
nhất, minh bạch của các chính sách thương mại; bổ sung, hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật cho phù hợp với luật pháp quốc tế . Những việc làm này
- sẽ có tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta.
Tuy nhiên, cần nhận thức sâu sắc rằng, những cơ hội trên đây chỉ là
những điều kiện, khả năng, chứ không tự động trở thành hiện thực. Việc
có tận dụng và biến chúng thành hiện thực hay không, hoàn toàn phụ
thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức thực hiện của Nhà nước và sự
phấn đấu của toàn dân ta.
Gia nhập kinh tế thế giới, chúng ta không chỉ có những cơ hội mà
còn có cả những thách thức, đó là:
1- Nền kinh tế nước ta còn là một nền kinh tế kém phát triển. Đất nước
đang ở bước đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; 95% doanh
nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu; hệ thống thị
trường chưa thật hoàn chỉnh, có cái còn sơ khai; chất lượng nguồn nhân
lực chưa cao; hệ thống thể chế kinh tế và luật pháp chưa được hoàn
thiện... Nếu chúng ta không phấn đấu quyết liệt để cải thiện các mặt thì
sẽ dễ dàng thua các đối tác ngay trên "sân" nhà, vì các doanh nghiệp của
các nước tư bản phát triển có sức cạnh tranh cao, còn các doanh nghiệp
của nước ta sức cạnh tranh kém và do đó, sẽ bị phá sản.
2 . WTO là một "sân chơi" toàn cầu, đang kiểm soát 85% thương mại
hàng hóa, 90% thương mại dịch vụ toàn cầu và kiểm soát hầu như toàn bộ
các hoạt động kinh tế thương mại và đầu tư của thế giới. Cơ chế hoạt
động của WTO dựa trên nền tảng lý thuyết "tự do mới" - một lý thuyết tư
sản hiện đại coi thị trường và kinh tế tư nhân là tất cả. Các thành viên
của WTO chủ yếu là các nước tư bản phát triển, nhưng cũng có một số
nước đang phát triển, và mới đây lại có cả những nước có con đường phát
triển không giống các nước thành viên khác, như Trung Quốc, Việt Nam.
Vì vậy, tuy WTO có nguyên tắc "bình đẳng và tự do thương mại" nhưng
trên thực tế, các nước tư bản phát triển luôn luôn tính toán đến lợi ích của
họ, đồng thời tìm cách chi phối các nước nhỏ yếu và các nước có con
đường phát triển khác
3 - Gia nhập thị trường thế giới, một mặt, chúng ta phải đối diện với
hàng hóa nhập khẩu được trợ giá của các nước đang phát triển; mặt khác,
phần trợ cấp, trợ giá cho hàng hóa của chúng ta thì phải thu hẹp hoặc cắt
hẳn.
nguon tai.lieu . vn