Xem mẫu

  1. 245 “VIỆT NAM LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ MỘT SAI LẦM LỊCH SỬ” - MỘT LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VÔ CÙNG NGUY HIỂM VÀ THÂM ĐỘC CỦA ĐỐI TƯỢNG CƠ HỘI CHÍNH TRỊ Thiếu tướng, PGS.TS. ĐẶNG THÁI GIÁP* T rong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị tập trung chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều hình thức, với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Các hội, nhóm có hoạt động phức tạp về chính trị như: “Đảng xã hội”, “Đảng dân chủ xã hội”, “Câu lạc bộ nhà báo tự do”, “Câu lạc bộ học tập và làm theo lời Hồ Chí Minh”, “Văn đoàn độc lập Việt Nam”, “Hội nhà báo độc lập Việt Nam”, “Diễn đàn xã hội dân sự” đã được chúng thành lập. Sự nguy hiểm của các đối tượng cơ hội chính trị ở chỗ: Chúng là những người mang nặng tư tưởng cơ hội chủ nghĩa; đã từng tham gia hoạt động cách mạng trong hệ thống chính trị, một số ít có công lao nhưng do hoang mang, dao động, thay đổi chính kiến, thỏa hiệp vô nguyên tắc để phản bội mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc. _______________ * Chuyên viên cấp cao, Học viện Chính trị Công an nhân dân.
  2. 246 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... Chúng là những đối tượng chính trị phản động, những văn nghệ sĩ, trí thức của chế độ cũ hoặc một số đối tượng nảy sinh trong thời kỳ đầu bước vào công cuộc đổi mới. Đây là những đối tượng nguy hiểm, có ảnh hưởng lớn và uy tín với các loại đối tượng cơ hội chính trị, lại được các thế lực thù địch nước ngoài hậu thuẫn nhằm tạo dựng “ngọn cờ” để công khai hóa, hợp pháp hóa các tổ chức chính trị đối lập. Nguy hiểm hơn cả là số đối tượng mới xuất hiện gần đây, chúng là những trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ, đảng viên bất mãn, suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, hoạt động chống đối, cực đoan, quyết liệt; một số đã được các thế lực thù địch hậu thuẫn, đưa đi đào tạo, huấn luyện nhằm tạo dựng “ngọn cờ” để tập hợp lực lượng chống đối. Để thực hiện âm mưu và thủ đoạn hoạt động chống phá, các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị tập trung chống phá ta trên nhiều phương diện, trong đó tập trung xuyên tạc, bôi nhọ, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng âm mưu đánh thẳng vào nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện dã tâm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin trên toàn thế giới. Chúng đưa ra các luận điểm rằng: Chủ nghĩa Mác là sản phẩm từ giữa thế kỷ XIX, nay đặt nó vào hoàn cảnh của thế kỷ XXI là lỗi thời, lạc hậu, hoặc chủ nghĩa Mác - Lênin bắt nguồn từ phương Tây, là ngoại lai nên không phù hợp với Việt Nam (!). Trong hàng loạt những luận điệu chống phá thì việc đưa ra luận điệu “Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
  3. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 247 xã hội là một sai lầm lịch sử” là một trong những nội dung mà đối tượng cơ hội chính trị tập trung tuyên truyền. Với luận điệu này, chúng âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đối với nước ta, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử. Ngay từ khi mới thành lập, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Đảng ta đã xác định và chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điểm khác biệt giữa con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh với những chí sĩ yêu nước thời bấy giờ. Con đường giải phóng dân tộc của phong trào Cần Vương, của Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... đều dựa trên cơ sở hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư sản. Các phong trào ấy đều thất bại vì nó không gắn liền với tiến bộ xã hội. Con đường giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là duy nhất đúng vì độc lập dân tộc được gắn với chủ nghĩa xã hội và gắn với tiến bộ xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự phát triển sáng tạo nguyên lý lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin. C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên nêu _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2005, t.2, tr.2.
  4. 248 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... lên tư tưởng cách mạng không ngừng, các ông cho rằng, cách mạng của giai cấp công nhân phải phát triển không ngừng nhưng phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong phạm vi một nước cũng như trên toàn thế giới. Giai cấp công nhân phải luôn ý thức được trách nhiệm của mình là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Phát triển lý luận cách mạng không ngừng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa ra lý luận về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới sang chủ nghĩa xã hội. Từ việc phân tích tình hình nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin cho rằng nước Nga vẫn duy trì tàn tích phong kiến, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với địa chủ phong kiến trở nên gay gắt, tạo tiền đề cho cách mạng tư sản; mặt khác, nước Nga có trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa trung bình ở châu Âu nhưng giai cấp công nhân Nga đã trưởng thành và giác ngộ cách mạng, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt. Đây là lúc giai cấp công nhân Nga phải nắm lấy ngọn cờ cách mạng để lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản (dân chủ tư sản kiểu mới), tiến hành cách mạng triệt để, chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không ngừng, về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, là tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội; cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
  5. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 249 nghĩa; hai giai đoạn ấy không có bức tường nào ngăn cản mà gắn bó với nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải bất cứ nền độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó phải là nền độc lập thực sự không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội và đối ngoại. Độc lập dân tộc phải đi liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do, hạnh phúc của nhân dân, “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”1. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển thì hai mục tiêu ấy có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau. Không thể đi tới mục tiêu cuối cùng khi chưa thực hiện được mục tiêu trước mắt, chỉ khi thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn nhất để giữ vững thành quả của độc lập dân tộc ở tầm cao mới. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử, nhưng các đối tượng cơ hội chính trị không thừa nhận điều đó. Họ phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng, đó là một sai lầm, việc vận dụng đó là không phù hợp _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64.
  6. 250 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... vì các nhà kinh điển đã không nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn đầy đủ, nó chỉ phù hợp với các nước châu Âu, không phù hợp với châu Á, vì vậy vận dụng vào Việt Nam là khiên cưỡng (!). Từ chỗ phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, họ đi tới phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh với lý lẽ rằng: Nếu coi tư tưởng Hồ Chí Minh là “sự vận dụng toàn diện chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam” thì cái gốc đã đổ, ắt cái ngọn cây cũng đổ theo. Họ cho rằng, việc lựa chọn chủ nghĩa xã hội là một ngã rẽ sai lầm; họ không thấy hết những hậu quả của chiến tranh để lại; họ phủ nhận thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, khoét sâu vào những sai lầm, khuyết điểm của quá trình phát triển kinh tế, xã hội, những khó khăn, thách thức của nền kinh tế và những tác động từ bên ngoài. Họ thổi phồng những hạn chế, yếu kém và quy lỗi tại Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để dẫn tới nghèo nàn, lạc hậu (!). Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, các đối tượng cơ hội chính trị càng lớn tiếng cho rằng, Việt Nam không nên đi vào vết xe đổ đó và nhất định sẽ thất bại. Họ nhắc đi, nhắc lại luận điệu: “Học thuyết Mác là các sản phẩm từ giữa thế kỷ XIX, nó đã lạc hậu, nếu không lạc hậu thì chẳng thể khoa học được”, “chủ nghĩa Mác - Lênin là một ảo giác, không có giá trị thực tiễn, không phù hợp với Việt Nam”. Họ cho rằng, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, chủ nghĩa Mác - Lênin đã sụp đổ rồi mà Đảng Cộng sản vẫn lấy nó làm nền tảng tư tưởng là một sai lầm. Họ kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam hãy tháo bỏ cái “vòng kim cô” ý thức hệ để thực hiện đa nguyên, đa đảng và từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình (!).
  7. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 251 Cùng với việc cho rằng, Việt Nam vẫn tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một sai lầm, các thế lực thù địch còn tập trung công kích vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng cho rằng, công cuộc đổi mới tiến hành trong hơn 30 năm qua là sửa chữa sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xôviết, nhưng sửa chữa sai lầm về kinh tế mà vẫn giữ nguyên chế độ đảng toàn trị là kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Từ đó, chúng đòi hỏi: Đảng Cộng sản Việt Nam phải chủ động từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa (!). Âm mưu đòi thay đổi Cương lĩnh là rất thâm độc vì thay đổi Cương lĩnh là từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh sẽ không còn là ngọn cờ chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam, điều đó đồng nghĩa với việc Đảng Cộng sản tự thủ tiêu mình, mở đường cho thứ “cách mạng màu” như đã từng diễn ra ở một số nước trên thế giới (!). Về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng cho rằng, đó là một sự kỳ quặc, trái với xu thế phát triển của thời đại; trong khi thế giới đang nhấn mạnh “cơ chế thị trường tự do” thì Việt Nam lại hướng vào sự phát triển “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo đuôi Trung Quốc; do vậy, cần phải gấp rút thay đổi, phải nhanh chóng thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc (!). Về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng cho rằng, nếu phân chia các thành phần kinh tế theo tiêu chí về quan hệ sản xuất như lâu nay vẫn làm, đó là: kinh tế nhà
  8. 252 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thì sẽ dẫn đến sự phân biệt, đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa thành phần kinh tế trong và ngoài nước (!). Chúng cho rằng, chỉ có bỏ quan niệm quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thì mới có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Từ đó, bác bỏ quan điểm lấy kinh tế nhà nước là chủ đạo; yêu cầu phải thừa nhận vai trò chi phối của kinh tế tư nhân và ưu tiên cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Chúng quên mất rằng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định phát triển nền kinh tế: “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp pháp và cạnh tranh theo pháp luật”1. Để thực hiện những mưu đồ tuyên truyền, xuyên tạc, bác bỏ các quan điểm của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị dùng nhiều phương thức, thủ đoạn vừa tinh vi, xảo quyệt, vừa công khai, trắng trợn. Những phương thức, thủ đoạn tuyên truyền của chúng thường là: Phao tin đồn nhảm không đúng sự thật với phương châm của Gơben là “nói một lần không tin thì nói mười lần, một trăm lần sẽ tin”, tung lên các trang mạng nhiều bài viết, hồi ký nói là của _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.102-103.
  9. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 253 lãnh đạo cấp cao; đưa ra cái gọi là “Tuyên bố”, “Tuyên ngôn”, “Kiến nghị”, “Thư ngỏ”... gửi các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước ta để xuyên tạc sự thật; sử dụng internet, các trang mạng xã hội, các blog cá nhân để làm nóng các vấn đề xã hội, kêu gọi thành lập các hội, các tổ chức chính trị đối lập; tìm mọi thủ đoạn để bôi nhọ, chia rẽ công an, quân đội; hạ thấp vị thế, uy tín của lực lượng vũ trang; sử dụng hình thức văn học, nghệ thuật để truyền bá, lan tỏa những tư tưởng sai trái, bôi nhọ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, kích động chống đối lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta... Để góp phần đấu tranh có hiệu quả, phản bác lại các luận điệu sai trái, thù địch của các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị, theo chúng tôi, cần tập trung giải quyết tốt một số vấn đề cơ bản sau đây: Một là, chủ động tiến hành đấu tranh trên mặt trận tư tưởng chính trị, làm cho toàn Đảng, toàn dân ta nhận thức đúng đắn âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị, từ đó nâng cao tinh thần tự giác cách mạng, không mắc mưu các luận điệu tuyên truyền của chúng. Phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch nhằm xuyên tạc, bóp méo, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn lợi dụng những khuyết điểm, yếu kém của Đảng, Nhà nước để kích động tâm lý bất mãn, chống đối trong nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, tăng cường các biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng, chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”;
  10. 254 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... đấu tranh chống việc hình thành tư tưởng, tâm lý sùng bái đồng tiền, sống thực dụng, không quan tâm tới những vấn đề chính trị. Tăng cường các biện pháp bảo vệ chính trị nội bộ đi đôi với việc đẩy mạnh, củng cố hệ thống chính trị các cấp thật vững mạnh; làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân “tự miễn dịch” trước những luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Điều này rất quan trọng, vì ngay cả kẻ địch của chúng ta cũng phải thừa nhận: “Không có một thế lực nào trên thế giới có thể đánh đổ Cộng sản Việt Nam, mà chỉ có Cộng sản Việt Nam đánh đổ được Cộng sản Việt Nam mà thôi” (!). Ba là, tăng cường công tác nắm tình hình, diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, trong đó chú trọng tình hình ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, nơi có tình hình tôn giáo phức tạp, các địa bàn nhạy cảm về chính trị. Phát hiện, dự báo và xử lý kịp thời những vụ việc phức tạp, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vạch trần tính chất nguy hiểm, phản động, mị dân của các đối tượng cơ hội chính trị, nhất là tuyên truyền về tư tưởng ly khai, tự trị trong đồng bào dân tộc thiểu số của kẻ địch. Bốn là, các cơ quan tuyên truyền, báo chí cần tập trung tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng và phát triển hệ thống giá trị, những chuẩn mực đạo đức, văn hóa xã hội chủ nghĩa, tinh hoa truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Mặt khác, cũng cần làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ những khó khăn, thách thức, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình hiện nay. Phải tạo cho toàn
  11. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 255 xã hội một sự đồng thuận cao, triệu người như một xây dựng một niềm tin tất thắng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm là, tăng cường công tác nắm tình hình, theo dõi sát những âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống đối của các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị. Chủ động phát hiện những dấu hiệu hoạt động phức tạp trong nội bộ để có biện pháp xử lý ngay từ cơ sở. Nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái của đối tượng cơ hội chính trị. Tranh thủ số nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ có uy tín để thuyết phục, lôi kéo những đối tượng cơ hội chính trị, đồng thời phải có những phương án bảo vệ họ, chống lại sự lôi kéo của các đối tượng xấu và các thế lực thù địch. Tiến hành phân loại các đối tượng cơ hội chính trị; tăng cường cơ hội tiếp xúc, đối thoại, kiềm chế hoạt động của các đối tượng, tránh đối đầu, đối kháng, không để các thế lực thù địch lôi kéo, can thiệp. Đối với những trường hợp ngoan cố chống đối thì tập trung thu thập, củng cố chứng cứ để xử lý trước pháp luật khi cần thiết.
  12. 256 CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - ẢO TƯỞNG HAY HIỆN THỰC Ở VIỆT NAM? PGS.TS. ĐOÀN THẾ HANH* B ài viết này xin tiếp cận vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội từ phương diện là một phong trào thực tiễn ở Việt Nam, tìm kiếm con đường để giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc và ấm no cho nhân dân, để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, dân chủ, thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một phong trào hiện thực, hoàn toàn không là “ảo tưởng”. Hiện nay, có một số người phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, họ cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là “bóng ma”, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là “mơ hồ”, “ảo tưởng” về một chế độ xã hội. Có thể khẳng định, đó chỉ là luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Tổng kết hơn 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù _______________ * Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
  13. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 257 hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”1. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chính thức đã được Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam nhất quán xác định ngay từ khi ra đời (tháng 2-1930) và kiên định thực hiện bằng cả trí tuệ và tình cảm, cùng với sự đồng thuận của cả dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng. Đó hoàn toàn không phải là sự lựa chọn ngẫu hứng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng tuyệt nhiên không là ảo tưởng, mà là hiện thực của con đường cách mạng Việt Nam. Ngay từ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác định con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà chặng đầu là chủ nghĩa xã hội thì các thế lực thù địch đương thời đã hoảng loạn cho đó là “bóng ma ám ảnh châu Âu”, nhưng rồi con đường cách mạng vô sản vẫn trở thành phong trào hiện thực lịch sử, để rồi lần lượt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời và trở thành một hệ thống trên thế giới. Đó là sự phát triển tuần tự, hiện thực của lịch sử nhân loại, trải qua các hình thái kinh tế, các chế độ xã hội phát triển nối tiếp nhau từ thấp đến cao, từ lạc hậu tới văn minh: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tất yếu là cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Dòng chảy của lịch sử, tự nhiên từ thấp tới cao, từ lạc hậu tới văn minh hoàn toàn vẫn là dòng chủ _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.66.
  14. 258 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... đạo, là lẽ đương nhiên của tình cảm và lý trí của con người, của loài người. Đó là quy luật không thể đảo ngược trong tiến trình phát triển của nhân loại. Nhận thức được quy luật đó, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam xác định và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức lý tính một cách khách quan khoa học và bằng cả tình cảm của toàn dân tộc về một chế độ xã hội văn minh, tiến bộ, nhân văn, ưu việt, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Lịch sử Việt Nam chứng minh, toàn dân tộc đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược ngay từ năm 1858, với khát vọng độc lập dân tộc. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh đều thất bại do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn. Có thể thấy rất rõ, toàn bộ trí lực, tình cảm của dân tộc hướng vào tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc lúc này. Và Nguyễn Ái Quốc đã xác định được con đường cách mạng giải phóng dân tộc trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác - Lênin để vận dụng cho thực tiễn cách mạng Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi lên chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam hoàn toàn không là ảo tưởng hay cảm tính mà là kết quả của nhiều năm Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu thực tiễn cách mạng thế giới, các học thuyết từ cổ chí kim bằng cả tình cảm và lý trí. Người đã hiểu rõ và nhận thức đúng đắn từ khát vọng của dân tộc Việt Nam, từ quy luật vận động của sự thay đổi, phát triển của các chế độ xã hội trong lịch sử nhân loại và tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đó là: tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách
  15. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 259 mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, gắn phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Khi thành lập, Chánh cương vắn tắt của Đảng đã xác định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2. Và, thành lập chính đảng là điều trước hết, nhân tố hàng đầu để sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người đi đến thành công. “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”3. Chánh cương của Đảng được đề ra tại Đại hội II (tháng 2-1951) tiếp tục cụ thể hóa Chánh cương vắn tắt của Đảng, nêu rõ: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”4. Tại Đại hội III (tháng 9-1960), đường lối chung của miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ được Đảng xác định là “Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”5, là hậu phương vững mạnh cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.30. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2005, t.2, tr.2. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.5. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2001, t.12, tr.434. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2002, t.21, tr.635.
  16. 260 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, mặc dù hai miền Nam, Bắc còn có những nhiệm vụ cụ thể riêng, khác nhau, song trên cơ sở nhận định về nội dung cơ bản của thời đại, Đại hội IV của Đảng (tháng 12-1976) xác định: “trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội1. Với nhận thức sâu sắc này, Đảng đã quyết định lựa chọn con đường cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội với phương thức “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”2. Sự lựa chọn này vừa mang tính khoa học sâu sắc, vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rất rõ hoàn cảnh điều kiện thực tại của nước mình “vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ”3 rất lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, trình độ lao động vẫn thủ công là chính... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện con đường đó, chúng ta lại mắc không ít sai lầm, khuyết điểm như “chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ”, chưa nắm vững những quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, còn thiếu kiến thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... đã đẩy đất nước vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. _______________ 1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2004, t.37, tr.499, 146, 505.
  17. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 261 Đại hội V (tháng 3-1982) đã xác định rõ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta lúc này là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, song, do chưa kiên quyết khắc phục được những căn bệnh đang mắc phải là nóng vội, chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, trì trệ nên tiếp tục sai lầm trong xác định cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, cách thức cải tạo xã hội chủ nghĩa làm cho nền kinh tế càng lâm vào khủng hoảng sâu sắc hơn. Tình hình đó làm cho niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở không ít người giảm sút, thậm chí có ý kiến cho rằng, việc lựa chọn con đường đó là sai lầm, ảo tưởng! Với nhận thức khách quan, khoa học, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Không phải sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã hội là do lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, mà là ở việc chúng ta đã thiết kế mô hình phát triển kinh tế không phù hợp với thực tiễn đất nước và cách thức tiến hành không thích hợp, đòi hỏi chúng ta phải thiết kế lại, đổi mới nhận thức và triển khai các bước đi lên chủ nghĩa xã hội cho phù hợp. Đại hội VI (tháng 12-1986) mở đầu cho công cuộc đổi mới đất nước, Đảng khẳng định: “do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng... Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách
  18. 262 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... mạng, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”1. Phương cách phát triển kinh tế nhiều thành phần để huy động sức mạnh của toàn xã hội, trong và ngoài nước được triển khai để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đó được cụ thể hóa hơn tại Đại hội VII (tháng 6-1991). Giữa lúc tình hình thế giới biến đổi sâu sắc, đặc biệt là hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ, Đảng vẫn nhất quán xác định: “chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”2. Đảng tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội; “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” là bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường: Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”3. Đổi mới nhưng không xa rời mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế _______________ 1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, p.I, tr.38, 410, 414.
  19. Phần thứ hai: NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU... 263 thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đại hội VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh. Đại hội nhận định, công cuộc đổi mới trong 10 năm đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mặc dù vẫn còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành. Thành công bước đầu đó đã cho phép Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng đã nhấn mạnh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được xác định rõ hơn, đồng thời khẳng định, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Tiếp tục kiên định theo con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, Đại hội IX (tháng 4-2001) và Đại hội X (tháng 6-2006) một lần nữa chứng minh tính đúng đắn trong thực tiễn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng lại khẳng định sự nhận thức ngày càng rõ hơn về các bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội XI (tháng 1-2011) đã khẳng định: “Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín
  20. 264 ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC... của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa”1. “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”2. Đại hội XII (tháng 01-2016) đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) và tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”3. Đồng thời, Đại hội cũng khẳng định “đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”4. Nhìn lại một cách xuyên suốt, từ khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cách mạng vô sản (tháng 7-1920) trong sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đến Chánh cương vắn tắt ở Hội nghị thành lập Đảng, với hơn 87 năm lãnh đạo, qua 12 kỳ đại hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội luôn được Đảng xác định là sợi chỉ đỏ dẫn dắt cách mạng Việt Nam. Đó là sự _______________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.20-21, 70. 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.65, 66.
nguon tai.lieu . vn