Xem mẫu

  1. 36 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2011-2015 HIỆU QUẢ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN KHẮC PHỤC Nguyễn Thị Thùy Linh, K14-TTQTA Với xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, những biến động của nền kinh tế thế giới đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam. Dưới sự biến động không ngừng của nền kinh tế trong nước và thế giới, chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn tới các biến số như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm…Ở Việt Nam hiện nay chính sách tiền tệ đang phát huy tác dụng trong việc là công cụ giúp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện các biện pháp “điều hành vĩ mô thành công”. Với mục đích trau dồi kiên thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về Chính sách Tiền tệ, em quyết định lựa chọn đề tài “ Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015, hiệu quả và những vấn đề cần khắc phục”. Đề tài sẽ giúp cung cấp cho người đọc những biến động của nền kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện Chính sách Tiền tệ như thế nào trước những biến động đó? Hiệu quả của những chính sách đó ra sao? Những vấn đề nào cần khắc phục trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN bằng chính sách tiền tệ. 1. Bối cảnh kinh tế thế giới trong nước và thế giới (2011 - 2015) 1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tín dụng và nhà đất của Mỹ. Việc cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Trong tổng số khoảng 12 ngàn tỷ USD của các hợp đồng cho vay bất động sản thế chấp thì có 3 đến 4 ngàn tỷ USD là dưới chuẩn, khó đòi. Những hợp đồng đó
  2. 37 được các chuyên gia tài chính phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phát sinh được bảo đảm bởi những hợp đồng cho vay thế chấp này để bán ra trên khắp thị trường quốc tế. Khi các chứng khoán này mất giá thảm hại, thị trường không có người mua nên các Ngân hàng, công ty Bảo hiểm các tổ chức Tài chính nắm hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán được, mất khả năng thanh khoản và mất cả khả năng thanh toán dẫn tới gục ngã hoặc phá sản. Điển hình là sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers. Cuộc khủng hoảng tài chính này đưa nước Mỹ rơi vào suy thoái, Nhật Bản, Tây Âu tăng trưởng âm, các nước công nghiệp rơi vào tình trạng của Nhật Bản những năm 90 là lãi suất 0% và giá cả giảm xuống không có tăng trưởng. Các nền kinh tế có mức tăng trưởng âm đứng đầu là Anh (-1,3%), Đức (-0,8%), Mỹ và Tây Ban Nha (-0,7%), một số nước như Nga cũng chỉ 3,5% và Trung Quốc từ trên 10% xuống còn 8% vào 2008. Để kích thích tăng trưởng kinh tế, chính phủ các nước EU (theo quan điểm của lý thuyết kinh tế Keyness) tích cực đi vay nước ngoài để tăng cường chi tiêu công. Việc các nước đi vay quá nhiều là nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Khơi mào là Hi Lạp, dư âm của cuộc khủng hoảng vẫn còn cho tới bây giờ. Tại Châu Á, cuối năm 2014 phải kể đến cuộc khủng hoảng của Nga mà nguyên nhân chủ yếu khiến Nga rơi vào cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc xung đột tại Ukraina. Nền kinh tế Nga vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường năng lượng. Đây chính là yếu điểm, khiến Mĩ quyết định áp dụng lệnh trừng phạt Nga thông qua công nghệ dầu đá phiến làm tăng nguồn cung dầu, kéo theo giá năng lượng trên toàn thế giới giảm. Khi giá dầu giảm mạnh, đáng lý các quốc gia OPEC phải giảm sản lượng dầu, nhưng vì lo ngại việc Mĩ sẽ nắm luôn thị phần này nên vẫn giữ nguyên lượng cung, khiến cho giá cả năng lượng thế giới ngày càng giảm sâu. Trong giai đoạn này, Nhật là một mảng tối trong nền kinh tế chung của thế giới với tình trạng giảm phát gia tăng ở quốc gia mặt trời mọc này. Lí thuyết kinh tế Abenomics được ủng hộ nhiệt liệt trong thời gian đầu, tuy nhiên sau đó lại bị lên án do tập trung bảo vệ quyền lợi cho thiểu số giàu có trong xã hội. Cũng trong năm 2014 Trung quốc vượt lên Nhật Bản trở thành cường quốc đứng thứ hai thế giới sau Mỹ và luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá ổn định 10%/năm. Trong giai đoạn này,
  3. 38 khi mà các nước đầu tàu của kinh tế trên thế giới đều chịu tác động lớn của các cuộc khủng hoảng kinh tế nền kinh tế tăng trưởng thấp thì nền kinh tế các nước đang phát triển có mức độ tăng trưởng cao hơn đã trở thành động lực phôi phục và phát triển nền kinh tế toàn cầu. Nhìn chung: Trong giai đoạn này kinh tế thế giới có nhiều biến động, nền kinh tế phát triển do chịu tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho nền kinh tế suy thoái. Các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng cao hơn tạo động lực khôi phục và phát triển nền kinh tế toàn cầu. Giá cả hàng hóa thế giới như giá dầu và lương thực có xu hướng biến động, nhất là giữa năm 2014. 1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước Năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với Việt Nam. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, nền kinh tế thế giớ biến động ảnh hưởng và tác động rất lớn tới nền kinh tế của Việt Nam.Chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng của nền kinh tế lớn thế giới trong giai đoạn từ năm 2011- 2015 nền kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng chậm tuy nhiên đang dần phục hồi.  Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2014.
  4. 39 Biểu đồ 1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 Đơn vị: % Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2011-2014 20 18.13 15 10 6.81 6.03 4.09 5 5.89 5.25 5.42 5.98 0 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Tốc độ tăng trưởng kinh tế Lạm phát Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Chính phủ Năm 2011: Kinh tế - xã hội phục hồi sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách thức tiềm ẩn trong nội tại nền kinh tế thế giới với vấn đề nợ công, tăng trưởng kinh tế chậm lại đạt mức 5,89%. Giá hàng hóa, giá dầu mỏ và giá một số nguyên vật liệu chủ yếu tăng cao và có diễn biến phức tạp. Ở trong nước, lạm phát cao ở mức hai con số là 18,13% và mặt bằng lãi suất cao gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư. Năm 2012: Tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được giải quyết. Suy thoái trong khu vực đồng Euro cùng với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn. Hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Sự tăng trưởng của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo đã kéo theo sự sụt giảm của các nền kinh tế khác. Nhất là khi, một số nước và khối nước lớn có vị trí rất quan trọng trong quan hệ thương mại với nước ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU đối mặt với nhiều thách thức.
  5. 40 Những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, thu nhập trung bình của người dân giảm xuống đã làm sức mua trong dân giảm, thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể. Chính những điều này là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt đáy là 5,25%, lạm phát ở mức 1 con số 6,81% giảm rất nhiều so với năm 2011 là 18,13% Trong giai đoạn từ năm 2013- 2015: Nền kinh tế thế giới có dấu hiệu chuyển biến tích cực nhưng khá mờ nhạt Những yếu tố không thuận lợi đó từ thị trường thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội nước ta. Ở trong nước nền kinh tế có dấu hiệu khởi sắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, năm 2013 đạt 5,42% cao hơn năm 2012 là 5,25%, tiếp tục tăng 0,56% trong năm 2014 đạt 5,98% và vẫn có xu hướng tăng trong năm 2015. Lạm phát vẫn luôn được duy trì ở mức một con số khá ổn định, năm 2013 là 6,03%, năm 2014 lạm phát ở mức 4,09 là mức thấp nhất trong 13 năm gần đây.  Xuất nhập khẩu Xuất khẩu trong nước được đẩy mạnh. Trong đó, thị trường chiếm phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta phải kể đến là Mĩ, Nhật, Singapore. Hay nói cách khác, xuất khẩu vẫn đóng một vai trò to lớn trong phát triển kinh tế tại Việt Nam trong thời gian này. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao các nước phát triển đang suy thoái như vậy mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn không bị ảnh hưởng nhiều. Nguyên nhân cho vấn đề này, một phần là do những cải cách đáng kể trong nước, một phần là do Trung Quốc, một trong những quốc gia hút nguồn vốn FDI nhất, mất lợi thế về nhân công giá rẻ (kinh tế phát triển, điều kiện sống của người dân tăng lên, khiến cho thu nhập của người dân cũng tăng theo), điều này thúc đẩy nguồn vốn FDI chuyển hướng ra các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam  Lãi suất, tỉ giá
  6. 41 Nhìn một cách tổng quát, kinh tế nước ta trọng giai đoạn 2011- 2014 khá ổn định thể hiện ở việc ổn định tỉ giá cũng như lãi suất. Người dân tin tưởng và nắm giữ VND thay vì USD như trước đây. Điều này không chỉ góp phần tăng dự trữ ngoại hối trong nước mà còn giúp bình ổn nền kinh tế, thu hút nguồn vốn FDI vào trong nước. Biểu đồ 1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay từ 2009 - 2013 Đơn vị: % Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam  Nợ công tăng Trong những năm gần đây thâm hụt ngân sách đã kéo theo sự gia tăng của nợ công. Tổng nợ công của Việt Nam tăng từ khoảng 57% GDP từ cuối năm 2010 lên khoảng 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Thâm hụt ngân sách gia tăng điều này đã và đang tác động tiêu cực tới nền kinh tế và đời sống xã hội. Đồng thời cũng gây khó khăn đối với Chính phủ trong việc thực hiện các CSTK và CSTT  Cán cân thanh toán thặng dư, dự trữ ngoại hối tăng Cuối năm 2011, cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng thâm hụt nhưng đến cuối năm 2014 đã đạt mức thặng dư lớn, bổ sung cho dự trữ ngoại hối và đóng góp đáng kể vào việc hỗ trợ duy trì tỷ giá ổn định. Theo NHNN cán
  7. 42 cân tổng thể thặng dư ở mức hơn 10 nghìn tỷ USD , dự trữ ngoại hối nhờ đó cũng được cải thiện, tăng lên mức kỷ lục hơn 36 nghìn tỷ USD 2. Chính sách vĩ mô giai đoạn 2011-2015 2.1. Chính sách tài khóa chưa phát huy được hiệu quả Dưới tác động của cuộc suy thoái kinh tế giới đi kèm với các áp lực của suy giảm kinh tế trong nước, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp nhằm kích thích tổng cầu của nền kinh tế chẳng hạn như miễn, giảm, hoãn thuế cho các tổ chức và cá nhân, đồng thời thực hiện một số chính sách tăng chi tiêu và đầu tư của khu vực chính phủ và đặc biệt là gói hỗ trợ 4% lãi suất vốn vay lưu động cho các khu vực doanh nghiệp. Cho đến nay hiệu quả của các chính sách kích thích này vẫn còn là một chủ đề gây không ít tranh cãi. Mặc dù các chính sách kích cầu kịp thời của Chính phủ đã giúp đẩy lùi được suy giảm kinh tế hay ít nhất là không làm cho nền kinh tế rơi vào khó khăn của đáy suy thoái. Tuy nhiên các chính sách kích cầu đó đã không giúp lấy lại sức tăng trưởng vững chắc cho nền kinh tế mà còn gây ra nhiều hệ quả mới về bất ổn vĩ mô. Trong điều kiện Ngân sách thâm hụt quá lớn và gánh nặng nợ công quá cao thì chính phủ rất khó để thực hiện chính sách tài khóa hiệu quả, khi mà nguồn thu ngân sách chủ yếu từ thuế giảm trong khi chi ngân sách lớn càng làm cho gánh nặng nợ công càng gia tăng. Hiệu quả của chính sách mang lại không mang tính chất ổn định lâu dài. Nếu ngân sách thâm hụt thì chính phủ sẽ phải đi vay để tài trợ cho phần thâm hụt đó. Có một số cách để chính sách tài trợ thâm hụt ngân sách, chẳng hạn như phát hành tín phiếu/trái phiếu chính phủ (nghĩa là đi vay trong nước hoặc nước ngoài), bán bớt các tài sản quốc gia (chẳng hạn bán tài nguyên hay bán cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước) hoặc thậm chí có thể in tiền. Tất nhiên chính phủ sẽ phải cân nhắc các lựa chọn này vì mỗi một lựa chọn như vậy đều có lợi ích và chi phí kinh tế đi kèm. Chẳng hạn như vay nợ sẽ phải trả lãi suất, thậm chí vay nước ngoài (vay ngoại tệ) sẽ còn chịu rủi ro biến động tỷ giá hối đoái. Tương tự, nếu bán tài sản quốc gia có thể làm suy giảm nguồn lực của thế hệ tương lai, hay in tiền có thể gây áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô...). Ngoài vấn đề lựa chọn kênh tài trợ thâm hụt, việc sử dụng nguồn tài trợ đó như thế nào cũng là một thách thức không nhỏ. Một thực tế cho thấy việc nâng trần nợ công không phải là một vấn đề dễ chấp nhận vì nếu vay nợ
  8. 43 quá nhiều, các quốc gia sẽ dẫm phải vết xe đổ của Hi Lạp. Hay năm 2012, nhu cầu nợ công của Mĩ tăng cao, nhưng vấp phải sự phản đối về việc tăng trần của Quốc hội, đã dẫn đến việc đóng cửa Quốc hội trong khoảng 10 ngày. Trong tình hình như hiện nay, CSTT thực sự phát huy sức mạnh của nó. Mặc dù có thời điểm một số ý kiến cho rằng, NHNN chỉ áp dụng CSTT lấn át CSTK, song cần nhìn nhận việc hỗ trợ các thuế cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các gói tiêu dùng nhằm kích thích tiêu dùng… là khá đồng bộ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu kinh tế vĩ mô. Như vậy nước ta đang sử dụng phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. 2.2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2011-2015 2.2.1. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ  Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chính của công cụ CSTT. Các chỉ tiêu này bao gồm: tổng dự trữ của các NHTM, lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất tín phiếu kho bạc. Bằng việc đạt được mục tiêu về các chỉ tiêu này, NHTW có thể đạt được mục tiêu trung gian và do đó mục tiêu cuối cùng sau một khoảng thời gian nhất định. Sự phản ứng nhanh chóng và chính xác của các chỉ tiêu này mỗi khi NHTW điều chỉnh CSTT giúp cho NHTW có thể kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định trong điều hành CSTT hàng ngày. Việc lựa chọn mục tiêu hoạt động phụ thuộc vào việc lựa chọn mục tiêu trung gian, ở Việt Nam NHNN lựa chọn mục tiêu hoạt động dự trữ của các NHTM  Mục tiêu trung gian là mục tiêu trung gian là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được mục đích cuối cùng của CSTT. Các chỉ tiêu thường được sử dụng làm mục tiêu trung gian là tổng khối lượng tiền cung ứng (M1, M2 hay M3) hoặc mức lãi suất thị trường (ngắn và dài hạn)s, tùy thuộc vào vào chính sách của từng nước, mục tiêu mà họ muốn hướng tới mà tại các nước khác nhau thì mục tiêu này là khác nhau, ở Pháp và Đức là M2, ở Mỹ là M2, M3. Ở Việt Nam lựa chọn mục tiêu trung gian là lượng tiền cung ứng M2  Mục tiêu cuối cùng
  9. 44 Năm 2010 luật NHNN đã được thay đổi, thay vì CSTT cùng một lúc hướng tới rất nhiều mục tiêu như ổn định lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, đảm bảo an ninh quốc gia (luật NHNN 1997), theo luật mới năm 2010 chỉ rõ mục tiêu cuối cùng là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát mục tiêu lạm phát. Việc xác định được mục tiêu ưu tiên đã tạo ra được những thay đổi lớn trong hiệu quả của CSTT mang lại. Một thực tế cho thấy việc có quá nhiều mục tiêu khiến cho việc điều hành nền kinh tế trở nên khó thực hiện. Nếu không thống nhất các mục tiêu, nền kinh tế sẽ trở nên bất ổn. Đồng thời việc thiếu nhất quán trong hệ thống các mục tiêu cũng sẽ dẫn tới việc thiếu nhất quán trong công tác điều hành, sẽ gây mất niềm tin trong dân chúng đối với NHNN.  Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia Theo điều 10 chương 3 của Luật NHNN số 46/2010/QH12: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ. 2.2.2. Chính sách tiền tệ được sử dụng trong giai đoạn 2011-2015 Năm 2011: Kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn, những biến động xấu của nền kinh tế Thế giới đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước, lạm phát cao ở mức hai con số là 18,13%, kiềm chế lạm phát là mục tiêu được đặt lên hàng đầu. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống 22% đến 30/6/2011 và xuống 16% đến 31/12/2011. Lãi suất được điều chỉnh giảm, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu giảm 0,5-1%/năm và dao động ở mức 14,5-17%/năm, thậm chí chỉ còn 13,5%/năm. Riềng trong năm 2011 NHNN đã 5 lần thay đổi lãi suất TCV tăng từ 11% đầu năm tăng lên 15% vào tháng 10/2011.
  10. 45 Biểu đồ 2.1. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu của NHNN năm 2011 Đơn vị: % Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Năm 2012: Lạm phát đã có dấu hiệu được cai thiện, tuy nhiên kiềm chế lạm phát vẫn là mục tiêu hàng đầu. Ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục tiêu giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời đưa ra lộ trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã qui định trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao; trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên được điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống 12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm của trần lãi suất tiền gửi VND. Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của năm 2007. Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác và cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay đối với các khách hàng tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
  11. 46 Năm 2013-2014: giống như các năm trước mục tiêu kiềm chế lạm phát vẫn được ưu tiên hàng đâu mặc dù lạm phát vẫn luôn duy trì ở mức một con số. Trên cơ sở kết quả điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được, và các mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra trong năm 2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ. Cụ thể là  Năm 2013: Đến cuối tháng 8/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 9,16% so với cuối năm 2012, phù hợp với định hướng tăng 14-16% trong năm 2013, thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo. Các mức lãi suất chủ chốt được điều hành theo hướng giảm dần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm 2013 đã giảm khoảng 2-5%/năm so với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho vay giảm 3-5%/năm và đã trở về mức lãi suất của thời kỳ 2005-2006, các TCTD cũng chủ động giảm lãi suất đối với những khoản cho vay còn tồn đọng.Đến nay, trần lãi suất huy động đã giảm về mức 7%/năm và chỉ áp dụng đối với kỳ hạn dưới 6 tháng, trần lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là 9%/năm, tỉ trọng những khoản cho vay có lãi suất đến 13%/năm chiếm khoảng 74,97%.  Năm 2014: Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn về mở rộng tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý cho các đối tượng khách hàng, giảm các loại lãi suất. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau: Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17/3- /2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống 6%/năm. Từ thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng chủ động ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5
  12. 47 lĩnh vực ưu tiên giảm từ 9%/năm xuống 8%/năm. Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 2910- 2014, lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm xuống 0,75%/năm. Ngân hàng Nhà nước cũng ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng quy mô và linh hoạt điều hành thị trường mở, cho vay tái cấp vốn, trung hòa số tiền bơm ra để mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ ngoại hối. Kèm theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện quyết liệt đề án tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nếu nhìn vào động thái diễn biến lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước kể từ giữa năm 2013 đến nay, rõ ràng là chính sách tiền tệ đang theo hướng nới lỏng, song thực tế thì tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của năm 2014 chỉ tăng theo dự kiến  Năm 2015: Dự báo trong năm 2015 điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam cũng như sự phối hợp với CSTK tiếp tục được dựa trên nền tảng của năm 2014, dựa trên bài học kinh nghiệm của các năm trước. Trong ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước chưa dỡ bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn, giới hạn lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên. Những quy định hay biện pháp điều hành này sẽ được thay thế bằng cơ chế điều hành gián tiếp khi điều kiện chín muồi. Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng đạt được các mục tiêu cơ bản và thị trường tiền tệ phát triển Kết luận: Từ năm 2011- 2015 mục tiêu kiềm chế lạm phát luôn được đặt lên hàng đầu, Ngân hàng Nhà nước điều hành một cách đồng bộ, đã có sự phối hợp nhuần nhuyễn các công cụ: trực tiếp, gián tiếp đến truyền thông định hướng (đây là điểm mới so với các giai đoạn trược). Đã có chiến lược tương đối mạch lạc, nâng cao tính minh bạch của CSTT. Việc định hướng chính sách rõ ràng hơn đã hỗ trợ doanh đưa ra được các mục tiêu, chiến lược cụ thể, nâng cao uy tín của Ngân hàng Nhà nước. 3. Tác động của chính sách tới nền kinh tế 3.1. Hiệu quả của chinh sách tiền tệ tới nền kinh tế
  13. 48 Năm 2014, hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch đã nâng xếp hạng nhà phát hành nợ nội tệ và ngoại tệ dài hạn của Việt Nam từ B+ lên BB-. Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, bà Victoria Kwakwa cho biết: “Chúng tôi nghĩ việc đánh giá gần đây của tổ chức Fitch là một bước tiến tốt đối với Việt Nam”, bởi kinh tế vĩ mô ổn định, khu vực đối ngoại, xuất khẩu được đẩy mạnh, khiến môi trường kinh doanh lành mạnh hơn trước. Ngân hàng nhà nước được được đánh giá là “điều hành vĩ mô thành công” được thể hiện ở:  Lạm phát giảm Biểu đồ 3.1. Lạm phát của Việt Nam từ 2011-2014 Đơn vị: % Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và giữ cho tỷ giá ở mức ổn định, Năm 2014, tỷ giá của VND so với USD nói chung tương đối ổn định và hoàn toàn nằm trong giới hạn kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Thanh khoản của thị trường ngoại hối tốt. Do nhu cầu cung - cầu của thị trường đôi lúc tỷ giá có biến động tăng giảm nhẹ nhưng nhìn chung thị trường hiện nay đang khá cân bằng giữa sức mua và lực bán. Biên độ giao động trong phạm vi 21.200đ/USD đến 21.300đ/USD trong năm 2014 được coi là khá ổn định so với các cặp ngoại tệ khác trong khu vực và trên thế giới.  Giảm được tình trạng đô la hóa:
  14. 49 Tỷ giá ổn định và lạm phát giảm được duy trì ở mức hai con số làm cho niểm tin của dân chúng vào VNĐ tăng, giảm tình trạng Đô la hóa. Hiện nay mức chênh lệch của trần lãi suất của VNĐ và USD được cho là đủ hấp dẫn để người gửi tiếp tục duy trì gửi tiền VNĐ. Đây là những dấu hiệu tích cực và cũng là thành tựu đáng ghi nhận của công tác quản lý điều hành vĩ mô của Nhà nước trong năm qua. Điều này tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có chiều hướng ổn định hơn.  Lãi suất thị trường và lãi suất liên ngân hàng biến động theo xu hướng giảm Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng dồi dào. Biểu đồ 3.2 và 3.3. Lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất cho vay và huy động trên thị trường từ 2011 – 2014 Đơn vị: %  Thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại tệ quốc gia tăng cao, thị trường vàng được kiểm soát tốt, các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được triển khai quyết liệt, phối hợp đồng bộ với tháo gỡ khó khăn về thuế, phí;  Hệ thống các ngân hàng thương mại đã thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ của thời điểm 2011 đầu năm 2012, nhất là đối với một số ngân hàng thương mại nhỏ; thanh khoản cải
  15. 50 thiện mạnh, chủ động cân đối vốn; nợ xấu được tích cực xử lý bằng nội lực của các ngân hàng; khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế được mở rộng theo hướng ổn định; năng lực quản trị và năng lực tài chính một số ngân hàng tăng lên; thông tin về hoạt động của hệ thống ngân hàng ngày càng minh bạch hơn. . 3.2. Những vấn đề cần giải quyết để nâng cao hiệu quả CSTT trong thời gian tới Thứ nhất là tình trạng Đô la hóa giảm nhưng vẫn vẫn tiềm ẩn  Đô la hóa trong nền kinh tế khiến việc quản lý của NHNN trở nên kém hiệu quả do NHNN không nắm quyền in đồng tiền này, làm cho MB kém quyền lực hơn  Đô la hóa cũng dẫn đến tình trạng hoán đổi tài sản liên tục. Điều này sẽ tác động không nhỏ tới tỉ giá cũng như lãi suất trên thị trường.  Đo lường tổng khối lượng tiền cung ứng M2 và việc xác định mục tiêu CSTT khó khăn hơn  Hiệu quả của công cụ CSTT hạn chế Thứ hai là việc xử lý nợ xấu, thực hiện tái cơ cấu tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến điều hành chính sách tiền tệ cần phải có lộ trình và có các biện pháp thích hợp, không thể nôn nóng. Dự báo trong năm 2015, thị trường bất động sản sẽ sôi động hơn, chủ yếu là các nhu cầu đích thực về nhà ở, quy mô giao dịch của thị trường vẫn nhỏ. Một số ngân hàng thương mại năng lực quản trị có nhiều yếu kém so với thực tiễn đặt ra, năng lực tài chính không tương xứng với quy mô, tốc độ gia tăng tài sản; Tình trạng sở hữu, đầu tư chéo, cho vay vượt quá khả năng nguồn vốn cả về khối lượng và cơ cấu thời hạn; Thứ ba là việc điều hành chính sách tiền tệ trong quá trình chuyển đổi, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải tham khảo những nguyên lý chung, những cách làm của các quốc gia khác nhưng phải vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam
  16. 51 Tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước năm 2011 2. Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước năm 20112 3. Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước năm 2013 4. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2011 5. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2012 6. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2013 7. Bản báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2014 8. Bản báo cáo định hướng phản triển kinh tế - xã hội của Chính phủ năm 2015 9. Luật NHNN số 46/2010/QH12 10. Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng của Học viện Ngân hàng do PTS. Tô Kim Ngọc (chủ biên) Danh mục các từ viết tắt EU: Liên minh châu Âu NHNN: Ngân hàng nhà nước TCK: Tái chiết khấu TCV: Tái cấp vốn CSTT: Chính sách tiền tề CSTK: Chính sách tài khóa
nguon tai.lieu . vn