Xem mẫu
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
18.
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
TS. Lê Mai Trang*
Tóm tắt
Chính sách tài khoá là một công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách
kinh tế của Nhà nước, có ảnh hưởng rất mạnh đến sự cân bằng vĩ mô của nền kinh tế
và tác động trực tiếp đến phương châm hoạt động của hệ thống ngân sách cũng như
hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong thời gian qua, chính sách tài khóa
đã đóng góp không nhỏ được nhận định là “điểm tựa” tốt cho tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, kinh tế toàn cầu vẫn còn đối mặt với nhiều rủi ro, bất ổn do chủ nghĩa bảo hộ
mậu dịch gia tăng, căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ với một số nền kinh tế lớn,
nhiều quốc gia chuyển sang áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và điều chỉnh chính
sách ưu đãi thuế, từ đó tác động đến tài chính toàn cầu và sự luân chuyển các dòng
vốn đầu tư quốc tế… Trong nước, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và đầu tư công còn
chậm và chưa rõ nét; giải ngân vốn đầu tư công chậm; tình hình thiên tai, bão lũ, dịch
bệnh diễn biến phức tạp… tác động không nhỏ đến việc thực hiện chính sách tài khóa
hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững. Bài nghiên cứu dưới đây tổng hợp các lý
thuyết về chính sách tài khóa với tăng trưởng kinh tế từ đó đánh giá thực trạng chính
sách tài khóa của Việt Nam và đưa ra các gợi ý tăng cường hiệu quả của chính sách
tài khóa nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Từ khóa: Chính sách tài khóa, tăng trưởng bền vững, ngân sách nhà nước, thuế,
chi tiêu công.
*
Trường Đại học Thương mại
226
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019
Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng
1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Lý thuyết của Keynes
Vào những năm đầu thế kỷ 20, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp xuất hiện phổ biến
trong nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa. Cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 đã
chứng tỏ các học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển và tân cổ điển không còn hiệu
nghiệm. Chính phủ bị gây áp lực mạnh cần phải làm một điều gì đó để khắc phục thất
bại của thị trường. Trong bối cảnh đó, lý thuyết về một nền kinh tế thị trường có điều
tiết của Nhà nước đã ra đời. John Maynard Keynes (1884 - 1945) đã đặt nền tảng cho
sự xuất hiện của kinh tế học vĩ mô với vai trò tích cực của Nhà nước. Ông đã chứng
minh sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước để khắc phục suy thoái, khủng
hoảng, hạn chế thất nghiệp và lạm phát, ổn định tăng trưởng kinh tế.
Trọng tâm của lý thuyết của Keynes chỉ ra việc sử dụng chính sách tài khóa (CSTK)
như một công cụ quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tập trung khuyến
khích đầu tư thông qua tiết kiệm và tốc độ tạo vốn cho nền kinh tế. Lý thuyết này đã là
nền tảng cho các nhà hoạch định đề xuất chính sách cho các nước đang phát triển trong
những thập kỷ qua. Họ cho rằng, ở các nước đang phát triển, nếu chỉ trông chờ vào
khu vực tư nhân thì sẽ không tiết kiệm đủ để đầu tư cho phát triển kinh tế. Vì thế, trong
một thời gian dài, các nhà kinh tế học thuộc trường phái Keynes đã yêu cầu các nước
kém phát triển tăng tiết kiệm từ ngân sách thông qua tăng gánh nặng thuế và hạn chế
chi tiêu thường xuyên. Bên cạnh đó, họ cũng khuyến khích Chính phủ các nước đang
phát triển tăng đầu tư công cộng từ nguồn vay nợ nước ngoài. Đây là những chính
sách được sử dụng phổ biến trong các thập kỷ 60, 70 và 80 ở các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, các đề xuất chính sách này cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như xem xét
mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô chưa cụ thể, bỏ qua các yếu tố cơ bản của
một CSTK như phân bổ hiệu quả, phân phối công bằng và ổn định lâu dài, mà quá tập
trung vào mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn. Lý thuyết của trường phái Keynes đã bỏ qua
sự thật là Chính phủ không thể bơm sức mua vào nền kinh tế trước khi làm giảm nó
thông qua thuế và vay nợ. Lý thuyết của Keynes đã gặp thách thức lớn khi nền kinh
tế thế giới rơi vào suy thoái trong những năm 1970 và khi có sự bùng nổ kinh tế nhờ
cắt giảm thuế kết hợp với thắt chặt chi tiêu trong những năm 1980. Vào những năm
1940, Keynes cho rằng, quy mô chi tiêu Chính phủ không nên vượt quá 25% GDP,
nếu không tăng trưởng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng xấu. Ngày nay, mặc dù lý thuyết của
Keynes về chi tiêu Chính phủ không còn được các nhà kinh tế trọng dụng nhưng vẫn
227
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
được các chính trị gia và các nhà báo thường xuyên nhắc đến như là động lực để thúc
đẩy tăng trưởng.
1.2. Chính sách tài khóa theo lý thuyết kinh tế học hiện đại
Ngược với quan điểm của trường phái Keynes, trong nhiều thập kỷ qua, nhiều nhà
kinh tế tin việc cắt giảm thâm hụt ngân sách là “liều thuốc thần diệu” đối với tăng
trưởng kinh tế. Họ lập luận rằng, cắt giảm chi tiêu Chính phủ nghĩa là cắt giảm thâm
hụt ngân sách sẽ làm giảm lãi suất, tăng đầu tư, tăng năng suất và cuối cùng là thúc
đẩy tăng trưởng. Lập luận này là có cơ sở và CSTK nên tập trung giải quyết vấn đề
thâm hụt nếu mối quan hệ giữa các biến số trên là chặt chẽ. Tuy nhiên, có nhiều lý do
để cho rằng mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách, lãi suất, đầu tư và tăng trưởng đã
được đề cao quá mức. Hai trường phái trên có những quan điểm rất khác nhau về thâm
hụt ngân sách, tuy nhiên không trường phái nào nhấn mạnh đến quy mô chi ngân sách.
Các nhà kinh tế theo trường phái Keynes thường liên quan đến quy mô chi tiêu Chính
phủ lớn nhưng họ cũng không phản đối về việc quy mô chi tiêu Chính phủ nhỏ, miễn
là có thể tăng khi cần thiết để đưa nền kinh tế thoát khoải tình trạng trì trệ.
Ngày nay, hầu hết các nhà kinh tế đồng ý rằng có những trường hợp nhất định việc
cắt giảm chi tiêu Chính phủ sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cũng có những trường
hợp tăng chi tiêu Chính phủ là có lợi cho tăng trưởng. Trong khi các lý thuyết về thất
bại của thị trường đã dẫn tới việc hình thành các chương trình chi tiêu lớn của Chính
phủ trong khuôn khổ CSTK trong những năm 1930 và 1960, trong thập kỷ 70 và 80
những nhược điểm của các chương trình chi tiêu của Chính phủ bắt đầu xuất hiện,
buộc các nhà kinh tế và chính trị học phải nghiên cứu tìm hiểu các thất bại của Chính
phủ. Vậy là thị trường rất hay thất bại, nhưng Chính phủ cũng ít thành công trong việc
khắc phục các thất bại của thị trường. Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự thất bại
của Chính phủ đó là: Thông tin hạn chế, khả năng kiểm soát hạn chế đối với khu vực
tư nhân, quan liêu, hạn chế của quá trình hiệp thương chính trị dẫn đến việc chậm ban
hành và thực thi chính sách.
Lý thuyết kinh tế học dòng chính hiện nay cho rằng, một nền kinh tế hỗn hợp với
vai trò cân đối của Nhà nước và thị trường là mô hình tối ưu (Mankiw, 2005). Với mô
hình kinh tế thị trường xác định giá cả và sản lượng, Chính phủ điều tiết thị trường
bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả 2 yếu tố: Thị trường và Chính phủ
đều có tính quyết định. Điều hành nền kinh tế mà không có cả Chính phủ lẫn thị trường
cũng như định “vỗ tay bằng một bàn tay”. Kinh tế thị trường nâng cao hiệu quả sản
xuất và phân phối hàng hóa nhưng cũng có những khuyết tật của nó, cần phải có bàn
228
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019
Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng
tay của Chính phủ để đảm bảo hiệu quả, công bằng và ổn định. Những lý luận về mô
hình tăng trưởng nội sinh trở thành khung phân tích lý thuyết quan trọng cho CSTK
hiện đại (Barro and Sala-i-Martin, 1992; Rebelo, 1991). Lý thuyết này cho rằng, CSTK
không chỉ có tác động ngắn hạn như lý thuyết của Keynes mà còn có tác động dài hạn
đến tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế không dễ phân biệt
tác động ngắn hạn và dài hạn cũng như tác động nào là có tính bền bỉ hơn của CSTK.
Với mô hình này, CSTK trở thành công cụ quan trọng và được Nhà nước sử dụng
để điều chỉnh nền kinh tế khoa học và linh hoạt hơn. CSTK theo học thuyết Keynes
nhưng được hoàn chỉnh hợp lý hơn, kết hợp hài hòa giữa “bàn tay vô hình” của thị
trường và “bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Thu ngân sách với thuế suất bao nhiêu để
vừa đảm bảo công bằng vừa đạt được tỷ lệ động viên cao nhất, chi ngân sách ở mức độ
hợp lý để chống lại những khuyết tật của thị trường, phát huy thế mạnh của thị trường.
Quan điểm về cân đối thu chi ngân sách được đặt trong thể động và linh hoạt hơn.
2. CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
Chính sách tài khóa là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô được Chính phủ
sử dụng để huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Trong vài năm qua,
chính sách tài khóa của Việt Nam được thực hiện theo hướng mở rộng. Mặc dù đã giúp
nền kinh tế không suy giảm mạnh trong giai đoạn 2009 - 2011, chính sách này cũng
dẫn đến bội chi ở mức cao, làm suy yếu các lớp đệm tài khóa, rút ngắn kỳ hạn vay nợ
và làm tăng gánh nặng trả nợ cho ngân sách. Bội chi ngân sách lớn, nợ công tăng cao,
tỷ lệ thu ngân sách/GDP giảm và chi tiêu công, đặc biệt là đầu tư công, còn chưa hiệu
quả, đều gây trở ngại cho tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô trong tương lai. Bước
sang giai đoạn 2016 - 2018, chính sách tài khóa được thực hiện theo hướng chặt chẽ,
linh hoạt, tập trung thực hiện hỗ trợ và thúc đẩy phát triển sản xuất, ổn định và đảm
bảo an sinh xã hội và chú trọng huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trong bối
cảnh nền kinh tế trong nước đang phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng hướng tới tăng
trưởng bền vững kể từ năm 2012 đến nay tốc độ tăng trưởng đã đạt 6.81% năm 2017
và 7,01% năm 2018, mục tiêu của các chính sách vĩ mô cũng có những sự thay đổi là
tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp và hướng tới tăng trưởng
bền vững. Cụ thể, đối với chính sách tài khóa, Chính phủ đang thực hiện điều hành
theo hướng thực hiện nghiêm túc các khoản mục thu, tiết kiệm chi và giảm bội chi
ngân sách nhà nước.
229
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
2.1. Thực trạng thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước của Việt Nam đến từ bốn nguồn chính là: (i) Thu nội
địa, (ii) Thu từ dầu thô, (iii) Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu và (iv) Thu viện
trợ. Trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao với tốc độ
bình quân hàng năm trên 6% từ năm 2006 đến nay, đã giúp nâng cao số thu NSNN.
Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 2011 đến 2015, tốc độ tăng thu (sau khi loại trừ
yếu tố tăng giá) đã chậm hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo đó, tỷ lệ thu từ NSNN
so GDP đã giảm từ 26,4% trong giai đoạn 2006 - 2010 xuống 23,4% trong giai đoạn
2011 - 2015, nguyên nhân chủ yếu là do giảm thu từ dầu thô (từ 4,8% xuống 3%),
từ hoạt động xuất nhập khẩu (5,5% xuống 4,2%), và các khoản thu về đất (2,5%
xuống còn 1,7%).
Việt Nam đã thành công trong việc chuyển đổi hệ thống chính sách thuế theo
hướng ít phụ thuộc hơn vào các nguồn bên ngoài (thu từ dầu thô và xuất khẩu). Trong
cơ cấu thu NSNN, tỷ trọng thu nội địa đã tăng cao hơn từ 58,9% (giai đoạn 2006 -
2010) lên khoảng 68% (giai đoạn 2011 - 2015), do nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng
dương và duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mức
tăng trên phần nào đã giúp bù đắp cho số giảm thu về xuất nhập khẩu và thu từ dầu
thô. Bên cạnh đó để nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư và tháo gỡ khó khăn
cho các doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế suy giảm, Việt Nam đã thực hiện một số
chính sách ưu đãi thuế, bao gồm (i) cắt giảm thuế suất thuế TNDN; (ii) nâng mức chiết
trừ gia cảnh cho người nộp thuế TNCN; (iii) miễn hoặc giảm thuế đất nông nghiệp;
và (iv) gia hạn nộp thuế GTGT, TNDN và tiền sử dụng đất v.v. Tuy thuế suất TNDN
giảm tổng cộng đến 6 điểm phần trăm trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng thuế TNDN
(không kể thu từ các DN trong lĩnh vực sản xuất và khai thác dầu thô) là khoảng 3,8%
GDP (giai đoạn 2011 - 2015), chỉ giảm 0,3% GDP so với mức 4,1% của giai đoạn
2006 - 2010. Nếu cộng cả số thuế TNDN của hộ kinh doanh chuyển sang thu thuế
TNCN thì cơ bản nguồn thu thuế TNDN giai đoạn 2011 - 2015 không giảm so với
giai đoạn 2006 - 2010. Mặc dù thực hiện các chính sách ưu đãi trong thời gian qua,
nhưng tỷ trọng thuế GTGT vẫn ổn định ở mức khoảng 6,1% GDP, trong đó riêng thuế
GTGT nội địa tăng nhẹ từ 4,1% lên 4,3% giữa hai giai đoạn này. Thu từ thuế thu nhập
cá nhân (TNCN) tăng đáng kể trong thời gian qua, từ 0,8% GDP lên mức 1,3% GDP.
230
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019
Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng
Hình 1: Thu - Chi ngân sách giai đoạn 2009 - 2018
Nguồn: GSO và tính toán của tác giả
Chính sách thu ngân sách 2017 - 2018 tiếp tục rà soát hệ thống các chính sách thu
NSNN để hoàn thiện theo hướng tăng cường tính công khai, minh bạch, giảm thủ tục
hành chính thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong khai nộp thuế, cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, đồng
thời, vừa đảm bảo thực hiện đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ thu NSNN đề ra, vừa
đảm bảo thực hiện tốt các cam kết quốc tế về thuế. Trong khi đó, chi NSNN năm 2017
- 2018 tiếp tục được thực hiện theo hướng tiết kiệm, chặt chẽ, hiệu quả, gắn với quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế đặc biệt là tái cơ cấu đầu tư công; Tăng cường phân bổ
nguồn lực công trọng tâm, trọng điểm gắn với liên kết vùng kinh tế trọng điểm, tập
trung sức lan tỏa của các trung tâm trọng điểm kinh tế vùng; Không ban hành chính
sách mới làm tăng chi NSNN khi chưa có nguồn đảm bảo; thực hiện cắt giảm tối đa,
công khai các khoản chi hội nghị, hội thảo, khánh tiết, công tác khảo sát nước ngoài…
Đến ngày 31/12/2018, thu cân đối NSNN ước đạt khoảng 1.422,7 nghìn tỷ đồng, vượt
103,5 nghìn tỷ đồng, tăng 7,8% so dự toán, tăng 64,3 nghìn tỷ đồng so số báo cáo
Quốc hội, tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 25,7% GDP, riêng thuế và phí là 21,1% GDP
(mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020 tương ứng là 23,5% GDP và 21% GDP). Trong đó,
thu ngân sách trung ương ước đạt 104,3% so dự toán, thu ngân sách địa phương về
tổng thể đạt 112,5% so dự toán, chủ yếu do vượt thu tiền sử dụng đất; tuy nhiên, do
không bù trừ được giữa các địa phương, nên không kể tiền sử dụng đất và thu xổ số
kiến thiết, vẫn còn một số địa phương giảm thu cân đối ngân sách địa phương.
So với dự toán, có 9/17 khoản thu, sắc thuế đạt khá, trong đó một số khoản thu
231
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
đã hoàn thành dự toán như: Tiền sử dụng đất ước đạt 125,8%; tiền thuê đất ước đạt
137,3%; thu từ cấp quyền khai thác khoáng sản, tài nguyên nước ước đạt 129,3%; thu
khác ước đạt 120,9%; thu từ xổ số ước đạt 99,9%. Có 4/17 khoản thu đạt thấp (dưới
88%), trong đó có một số khoản thu lớn đạt rất thấp như: Doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) ước đạt 82,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 75,6%; thuế
bảo vệ môi trường (BVMT) ước đạt 86,5%...
Hình 2a: Hình 2b:
Cơ cấu thu ngân sách năm 2017 Cơ cấu chi ngân sách năm 2017
Nguồn: GSO và tính toán của tác giả
2.2. Thực trạng chi NSNN
Quy mô chi NSNN tăng khá cao (năm 2016 tăng trên 70% so với năm 2010) nhưng
cũng chỉ mới đáp ứng nhu cầu chi tối thiểu của nhiều ngành, lĩnh vực. Cân đối NSNN
ngày càng khó khăn hơn do nợ công sắp đến giới hạn cho phép; nhu cầu chi đầu tư
phát triển (ĐTPT) vẫn còn rất lớn.
Mặc dù tỷ trọng chi NSNN so với GDP vẫn ở mức cao (giai đoạn 2016 - 2017 đạt
bình quân 29,7% GDP, giai đoạn 2011 - 2015 ở mức 29,2% GDP, giai đoạn 2006 -
2010 ở mức 29% GDP) nhưng tốc độ tăng chi NSNN có xu hướng giảm. Tốc độ tăng
chi NSNN bình quân giảm từ 19,9% trong giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 14,8%
trong giai đoạn 2011 - 2015 và còn khoảng 7% trong năm 2016 - 2017. Bên cạnh đó,
tốc độ tăng chi thường xuyên giảm qua các năm nhờ thực hiện cơ cấu lại các khoản
chi NSNN và chính sách chi tiết kiệm, hiệu quả, chặt chẽ trong khi vẫn thực hiện tốt
các chính sách an sinh xã hội và đảm bảo nguồn lực thực hiện điều chỉnh tăng lương
cơ sở và phụ cấp cho các đối tượng chính sách.
Chi đầu tư từ NSNN, mặc dù giảm tỷ trọng trong tổng chi tiêu của Chính phủ,
nhưng vẫn duy trì ở mức cao so với khu vực và thế giới. Tỷ trọng chi ĐTPT trong
232
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019
Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng
tổng chi NSNN ở mức 27,5% trong năm 2017, cao hơn mức mục tiêu 25 - 26% trong
giai đoạn 2016 - 2020, đồng thời tỷ trọng chi thường xuyên cũng ở mức 64,6%, sát
với mục tiêu 64% trong giai đoạn 2016 - 2020 (thấp hơn 2 - 3% so với bình quân giai
đoạn 2011 - 2015), cho thấy đầu tư của nhà nước vào hạ tầng công cộng vẫn tiếp tục
được duy trì trong thời gian qua, chủ yếu do cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện đang
còn ở mức thấp, chưa phát triển.
Phân cấp chi có xu hướng thay đổi: Tỷ trọng chi ngân sách địa phương (NSĐP) đã
tăng tương ứng từ 44,7% (năm 2006) lên 49,1% (năm 2017). Trong khi đó, tỷ trọng
chi ngân sách trung ương (NSTW) trong tổng chi NSNN giảm từ 55,3% (năm 2006)
xuống 50,9% (năm 2017). Sở dĩ có sự chuyển dịch này là do chi đầu tư từ ngân sách
địa phương (NSĐP) tăng nhanh từ các nguồn dự phòng ngân sách, tăng thu của NSĐP
(như xổ số kiến thiết, đất đai) và nguồn bổ sung có mục tiêu từ NSTW cho giai đoạn
này chuyển sang tập trung nhiều hơn cho các ưu tiên của địa phương như y tế, giáo
dục, giao thông, thủy lợi. Điều này đã tạo động lực phát triển cho một số tỉnh, thành
phố, đồng thời giải quyết các vấn đề cơ bản về hạ tầng nông thôn như giao thông, nước
sạch, y tế, giáo dục và xóa đói giảm nghèo.
Do tỷ trọng tổng chi đầu tư giảm, nên chi đầu tư trong hầu hết các lĩnh vực về giáo
dục, y tế cũng như khoa học công nghệ, giao thông và nông nghiệp đều giảm về tỷ lệ
nhưng không đồng đều. Xu hướng trên phần nào phản ánh mục tiêu từng bước chuyển
đổi cơ cấu chi NSNN từ phát triển hạ tầng sang phát triển nguồn nhân lực, với kỳ vọng
của Chính phủ cho rằng lộ trình xã hội hóa (huy động đầu tư tư nhân) cho các lĩnh vực
hạ tầng sẽ tiến triển nhanh hơn so với các lĩnh vực xã hội.
Đối với chi trả nợ: Nợ trong nước mới bố trí đủ chi trả nợ lãi, chi trả nợ gốc ở mức
thấp, khiến phải vay đảo nợ. Chính phủ phải huy động các khoản vay ngắn hạn với
lãi suất cao nên nhu cầu chi trả nợ trong giai đoạn 2014 - 2016 tăng cao, tạo áp lực
lớn trong cân đối NSNN. Đối với nợ nước ngoài: Do Việt Nam đã tiệm cận nước có
thu nhập trung bình trên thế giới, việc vay ưu đãi và viện trợ của các tổ chức tài chính
quốc tế và Chính phủ các nước ngày càng hạn chế. Mặt khác, do nhu cầu ĐTPT ngày
càng lớn, vốn vay nước ngoài cho ĐTPT cũng gây áp lực lớn đến nợ công và cân đối
NSNN trong những năm vừa qua.
Tính đến 31/12/2018, các nhiệm vụ chi thường xuyên đã cơ bản thực hiện xong
theo dự toán, đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, đơn vị sử
dụng ngân sách. Chi NSNN năm 2018 đạt khoảng 1.562,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,57%
so dự toán, tăng 6,8% so cùng kỳ năm 2017. Điểm sáng trong chi NSNN là tốc độ
233
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
tăng chi ngày một giảm dần, năm 2012 là 13%; năm 2013 là 10,3%; giảm mạnh năm
2017 và chỉ tăng 6,8% năm 2018. Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt khoảng 418.700
tỷ đồng, tăng 14,5%; chi thường xuyên đạt 1.104,8 tỷ đồng, tăng 20,5% theo đúng dự
toán và tiến độ thực hiện của các đơn vị sử dụng ngân sách, thực hiện tăng lương tối
thiểu cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN (từ 1,3 triệu đồng lên 1,39 triệu đồng/
tháng), tăng lương hưu và trợ cấp ưu đãi cho các đối tượng có công thêm khoảng 7%
từ ngày 01/7/2018 theo Nghị quyết của Quốc hội và Nghị định số 72/2018/NĐ-CP
ngày 15/5/2018 của Chính phủ; đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng,
an ninh, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Cơ cấu chi đã được chuyển dịch
tích cực, tỷ trọng chi ĐTPT đạt trên 27%, giải ngân vốn đầu tư cơ bản ước tính đạt
67,6% dự toán, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2017 là đạt 70,7% dự toán. Trong đó, vốn
ngoài nước đạt 39,6%, vốn trái phiếu Chính phủ đạt 40,4% dự toán.
2.3. Thâm hụt NSNN và nợ công
Do bội chi ngân sách kéo dài, nợ công tiếp tục tăng lên trong năm 2016, tiến sát
đến hạn mức quy định là 65% GDP. Bội chi NSNN thực hiện năm 2017 ước khoảng
174.300 tỷ đồng, bằng 3,48% GDP, thấp hơn dự toán là 3,5% GDP. Bội chi NSNN
năm 2018 khoảng 3,6% GDP, thấp hơn dự toán Quốc hội quyết định (3,7% GDP).
Tổng mức vay của NSNN (bao gồm vay để bù đắp bội chi và vay để trả nợ gốc) ước
thực hiện thấp hơn dự toán Quốc hội (do giảm vay của ngân sách địa phương), góp
phần tích cực giảm nợ công. Công tác quản lý nợ công có tiến bộ, thời hạn khoản vay
được kéo dài, lãi suất theo xu hướng hạ thấp, hạn chế tác động của các rủi ro.
Bội chi ngân sách bình quân trong giai đoạn 2011 - 2016 là 5,8% so với 2,2% GDP
giai đoạn 2006 - 2010. Dữ liệu sơ bộ cho thấy ngân sách vẫn gặp áp lực năm 2016 với
mức bội chi ước bằng khoảng 6,5% GDP. Bất cân đối ngân sách tăng lên chủ yếu do
suy giảm cơ cấu về tỷ lệ thu ngân sách trên GDP, giảm từ 27% GDP năm 2011 xuống
khoảng 23% GDP năm 2016. Trong khi đó, tỷ lệ chi ngân sách trên GDP được duy trì
tương đối ổn định, bình quân bằng khoảng 29% GDP trong năm năm qua. Theo các
báo cáo của Chính phủ, tổng nợ công của Việt Nam (gồm nợ Chính phủ, nợ được khu
vực công bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) đã lên đến 63,7% GDP trong
năm 2016 - cao hơn khoảng 15 điểm phần trăm so với 2010.
Theo các báo cáo của Chính phủ, nợ công vẫn trong giới hạn cho phép (tính đến
31/12/2018, dư nợ công đạt 61% GDP, dư nợ Chính phủ xuống dưới 52% GDP, dư
nợ vay nước ngoài của quốc gia đạt khoảng 49,7% GDP, trong phạm vi Quốc hội cho
phép nhưng đang tiệm cận tới giới hạn với tốc độ tăng nhanh trong thời gian qua (từ
234
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019
Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng
2006 - 2010 tăng thêm 15% GDP và từ năm 2011 - 2015 tăng thêm khoảng 7% GDP),
bình quân mỗi năm tốc độ tăng nợ công khoảng 18,4%, cao gấp gần 3 lần tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Hình 3: Thâm hụt ngân sách và nợ công
Nguồn: GSO và tính toán của tác giả
Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (bao gồm cả trả nợ gốc và lãi) ước khoảng
25% tổng thu NSNN, nếu tính cả vay đảo nợ thì nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính
phủ còn cao hơn. Bên cạnh đó, bội chi NSNN vẫn ở mức cao và không đạt mục tiêu
đề ra, đi đôi với việc tăng trưởng GDP không đạt kế hoạch nhưng không điều chỉnh
giảm bội chi tương ứng thì nợ công càng có xu hướng tăng cao, nhất là khi có phát
sinh rủi ro về giá dầu, tỷ giá…
Dư địa ngân sách đang ngày càng mỏng, khiến nợ công có thể mất bền vững ngay
cả khi có những cú sốc nhẹ. Nghĩa vụ nợ dự phòng, bao gồm những rủi ro tiềm ẩn từ
các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng nếu hiện thực hóa, có thể làm cho Việt
Nam càng thêm dễ tổn thương. Với nợ công đang ở mức cao, Việt Nam còn ít dư địa
để có thể vận dụng CSTK nhằm đối phó với biến động chu kỳ, điều đó cho thấy tầm
quan trọng của việc phải củng cố tình hình tài khóa và đẩy mạnh cải cách cơ cấu.
3. MỘT SỐ GỢI Ý TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI
TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
Chính sách tài khóa hướng tới tăng trưởng bền vững là vấn đề cần được quan tâm,
theo đó việc điều hành CSTK cần phải đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc nhất quán,
235
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
đồng bộ, hỗ trợ và chia sẻ thông tin trên cơ sở lựa chọn các kỹ thuật thực hiện đảm
bảo tính khoa học và thực tiễn hướng tới hiệu quả cao nhất trong công tác phối hợp với
chính sách tiền tệ, nhất là trong việc quản lý nợ công. Trên thực tế, dù Ngân hàng Nhà
nước không phải là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong quản lý nợ công, nhưng có
vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tính hiệu quả của quản lý nợ công từ khâu xây
dựng chiến lược quản lý nợ công đến khâu thực hiện chiến lược. Vì vậy cần chủ động
theo dõi diễn biến kinh tế, tài chính, ngân sách để có những dự báo và phản ứng chính
sách tài khóa kịp thời; phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển; ổn định kinh tế vĩ mô. Tổ
chức thực hiện tốt các luật về thuế, Luật NSNN và Luật Đầu tư công, Luật Quản lý nợ
công…; tập trung thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, kết luận của Quốc hội, Chính
phủ về cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công…
Các chính sách pháp luật về thuế, đặc biệt là các sắc thuế lớn như thuế thu nhập
doanh nghiệp, giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc biệt… cần tiếp tục được nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung theo hướng cơ cấu lại nguồn thu, đảm bảo bền vững trong thu NSNN;
tiếp tục rà soát, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế tạo môi trường thuận lợi
cho doanh nghiệp phát triển. Trong điều hành thu NSNN cần tạo sự phối hợp đồng
bộ giữa các cơ quan trong thực hiện quản lý thu NSNN; tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra thuế, quản lý chặt chẽ hoàn thuế; đẩy mạnh thực hiện các biện pháp
chống thất thu, chống chuyển giá, buôn lậu, gian lận thương mại; tập trung xử lý thu
hồi nợ đọng thuế và đôn đốc thu hồi các khoản phải thu theo kết luận của cơ quan
có thẩm quyền.
Chính sách chi tiết kiệm, hiệu quả được thực hiện nghiêm túc, tăng cường kiểm
soát chặt chẽ các khoản chi, hạn chế ứng trước dự toán và chi chuyển nguồn; chủ động
rà soát, sắp xếp các khoản chi theo thứ tự ưu tiên; đẩy mạnh việc mở rộng khoán xe ô
tô công đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả… Rà soát, có ưu tiên phân bổ nguồn lực đầu tư từ
NSNN, đảm bảo khả năng hoàn thành của các dự án hiệu quả. Về phía các bộ, ngành,
địa phương cần tiếp tục rà soát các vướng mắc trong cơ chế chính sách để tạo thuận
lợi trong giải ngân các nguồn vốn đầu tư và hoàn thiện các thủ tục để thanh toán vốn.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát việc chấp hành kỷ luật,
kỷ cương trong quản lý đầu tư công.
Cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập cần được đẩy mạnh hoàn thiện,
thực hiện cơ chế quản lý như doanh nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp công lập có đủ
điều kiện; cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công có đủ điều kiện, trừ các bệnh viện,
236
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2019
Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng
trường học; giải thể đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả. Tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế,
giáo dục, văn hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác làm
tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ thông qua việc khuyến khích
các thành phần kinh tế tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công.
Vốn vay cần được quản lý, sử dụng hiệu quả, chỉ vay trong khả năng trả nợ; kiểm
soát chặt khoản vay của chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước; thực hiện
đồng bộ các giải pháp quản lý nợ công, nhất là quản lý sử dụng có hiệu quả vốn vay,
quản lý tốt nợ trung hạn và quỹ tích lũy trả nợ, quản lý và xử lý kịp thời rủi ro, tiếp tục
cơ cấu lại các khoản vay; tăng cường quản lý các khoản vay mới, khoản vay có bảo
lãnh của Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng diện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Keynes, J.M, (1936), The general theory of employment, interest, and money. New York:
Harcout, Brace & World, Inc;
2. Nguyễn Viết Lợi (2018), “Chính sách tài khóa năm 2017 và định hướng 2018”, Tạp chí
Tài chính 2/2018.
3. Trương Bá Tuấn (2014), Minh bạch và trách nhiệm giải trình tài khóa ở Việt Nam, Sách
Tài chính Việt Nam 2013 - 2014, Nxb Tài chính, Hà Nội.
4. Trương Bá Tuấn (2017), “Đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam: Hướng đến một chiến
lược tổng thể và toàn diện”, Tạp chí Tài chính
5. World Bank (2017), Đánh giá chi tiêu công ở Việt Nam. Chính sách tài khóa hướng tới
Bền vững, Hiệu quả và Công bằng. Báo cáo Đánh giá phối hợp giữa Chính phủ Việt Nam
và Ngân hàng Thế giới.
237
nguon tai.lieu . vn