Xem mẫu

  1. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH VỚI VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THƯ VIỆN SỐ TẠI VIỆT NAM Hoàng Minh Bắc* - Phạm Ngọc Hiển** - Phạm Tiến Đạt*** 1 2 3 Tóm tắt: Kinh tế số đang có sự phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới và tạo ra sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận hoạt động sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Nền kinh tế số Việt Nam được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng đạt 38%/năm. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của kinh tế số kéo theo yêu cầu về trình độ nguồn nhân lực kỹ thuật cao, đặc biệt là yêu cầu về sự đa dạng trong cách cung cấp và tiếp cận thông tin, tri thức thông qua hệ thống thư viện hiện đại, thư viện số. Yêu cầu này đòi hỏi công tác đào tạo nguồn nhân lực thư viện số phải thật sự hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Hiện nay nhiều rào cản đối với hiệu quả của hoạt động đào tạo, trong đó có rào cản về cơ chế, chính sách tài chính như sự mất cân đối trong cơ cấu chi, tính thiếu hiệu quả trong các chính sách hỗ trợ thuế, tín dụng… Bài viết tập trung phân tích các chính sách tài chính cho đào tạo nói chung và đào tạo nhân lực thư viện số nói riêng. Qua đó, rút ra một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này. Từ khóa: Thư viện; Nhân lực; Kỹ thuật số; Chính sách tài chính. 1. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC THƯ VIỆN SỐ PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU CỦA NỀN KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM 1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số tại Việt Nam Kinh tế số là một phần của nền kinh tế, hiện có nhiều quan điểm về kinh tế số. Ở nghĩa hẹp, phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ * Thạc sĩ, Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội. ** Thạc sĩ, Trường Tiểu học Thanh Hải, Thanh Hà, Hải Dương. *** Thạc sĩ, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính.
  2. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 431 liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới, tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp (Nguyễn Minh Phong, 2019). Nền kinh tế số được định nghĩa là “phần sản lượng kinh tế chỉ bắt nguồn hoặc chủ yếu bắt nguồn từ các công nghệ số với mô hình kinh doanh dựa vào hàng hóa hoặc dịch vụ số” (Cục Thông tin khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, 2018). Theo nghĩa này, kinh tế số bao gồm các ngành nghề có mô hình kinh doanh gắn liền với công nghệ số: các nền tảng trực tuyến (quảng cáo, truyền hình, ứng dụng…), các dịch vụ hỗ trợ nền tảng như nền kinh tế chia sẻ, tài chính tổng hợp, gọi vốn cộng đồng, hoạt động sản xuất thiết bị công nghệ thông tin (CNTT), dịch vụ viễn thông, truy cập Internet, phát triển phần mềm… Theo nghĩa rộng, kinh tế số là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số”, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet, kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng,…) mà công nghệ số được áp dụng. Tại Việt Nam, theo ông Vũ Đại Thắng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kinh tế số được hiểu là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số1. Hiểu theo nghĩa này, bất kỳ lĩnh vực nào áp dụng công nghệ số vào việc quản lý, vận hành đều được xếp vào kinh tế số. Trong nghiên cứu này, kinh tế số được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa tổng quát này. Về đặc điểm, dù được hiểu theo nghĩa nào thì kinh tế số cũng có những đặc điểm khác biệt so với kinh tế truyền thống như: Dữ liệu chính là nguồn tài nguyên giá trị trong nền kinh tế số; nền kinh tế số hình thành từ sự phát triển các công nghệ số mới; sự tương tác giữa diễn ra nhanh chóng, mạnh mẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực cho cả mạng lưới và nâng cao hiệu quả làm việc (Báo cáo tương lai kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045, 2019). Các nghiên cứu của UNCTAD (2019), Ousmane Dione (2019) chỉ ra rằng, kinh tế số đã và đang thay đổi các nền kinh tế trên toàn cầu, với tốc độ chóng mặt ở cả các nước 1 https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/15961/kinh-te-so-va-nhung-van-de-trong- tam-tai-viet-nam.aspx
  3. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 432 phát triển và các nước đang phát triển. Việc ứng dụng rộng rãi các công nghệ số mang lại lợi ích cho tất cả các đối tượng tham gia, chính phủ, doanh nghiệp và người thụ hưởng sản phẩm, dịch vụ. Kinh tế số mang lại hiệu quả tích cực khi mà hiệu suất kinh tế đạt được ở mức cao, các sản phẩm được sản xuất, phân phối với tốc độ nhanh hơn, cung cấp đa dạng, thuận tiện hơn và với chi phí thấp hơn. Đặc biệt với các dịch vụ như thông tin, kinh tế số giúp việc cung cấp không bị giới hạn về không gian, thời gian và mở rộng lớn về “khối lượng” và chất lượng. Nền kinh tế số đang bùng nổ tại Việt Nam. Năm 2016, Tạp chí PC mô tả Việt Nam là "Thung lũng Silicon của Đông Nam Á". Các ngành mới nổi và ngành công nghiệp phát triển nhanh ở Việt Nam bao gồm công nghệ tài chính, viễn thông, điện tử và sản xuất máy tính, dịch vụ Công nghệ thôn tin và truyền thông. Việt Nam có nhiều tiền đề quan trọng để phát triển nền kinh tế số như hạ tầng kỹ thuật, hệ thống chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hệ thống giáo dục và đào tạo… Theo Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019” do Google, Temasek và Bain công bố tháng 10.2019, kinh tế số Việt Nam năm 2019 đạt trị giá 12 tỷ USD (đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm 2019), cao gấp 4 lần so với giá trị năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025. Trong đó, riêng lĩnh vực thương mại điện tử Việt Nam ước đạt 5 tỷ USD trong năm 2019, cao gấp 12,5 so với mức 0,4 tỷ USD năm 2015 và sẽ tăng tới 23 tỷ USD vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 49%/năm. Bên cạnh đó, ngành dịch vụ du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe trực tuyến cũng có sự vươn lên mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế số Việt Nam. Kinh tế số Việt Nam cùng với Indonesia đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng trong khu vực Đông Nam Á, với tốc độ tăng trung bình 38%/năm (cao hơn so với mức 33% của trung bình trong khu vực). 1.2. Vai trò của thư viện số với sự phát triển của kinh tế số tại Việt Nam Để nền kinh tế số thực sự trở thành động lực mới cho tăng trưởng kinh tế, Việt Nam vẫn phải tiếp tục tập trung vào 3 đột phá là thể chế với việc xây dựng môi trường pháp lý để phát triển nền kinh tế số, tiếp tục xây
  4. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 433 dựng hạ tầng công nghệ 4G, 5G, đồng thời cần đào tạo, nâng cao trình độ lực lượng lao động để họ bắt kịp với xu hướng công nghệ số. Các đột phá trên cần được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực thư viện. Với vai trò là “trái tim của xã hội thông tin”, thư viện có vị trí quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề mang tính chiến lược của xã hội hiện đại, đó là đảm bảo quyền tự do truy cập thông tin và tri thức cho mọi người dân. Có thể nói, thư viện là tấm gương phản chiếu rõ nét nhất về mức độ tiến bộ xã hội của một quốc gia, bởi vì một xã hội được coi là tiến bộ, không thể trong đó con người thiếu văn hóa, thiếu cơ sở thông tin và tri thức giáo dục. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của thư viện lại càng quan trọng, một xã hội dựa vào tri thức, một xã hội mà thông tin và tri thức chính là sức mạnh để cái biến xã hội, nguồn lực thông tin là nguồn lực chiến lược quan trọng; một xã hội mà số phận của các cá nhân, của một đất nước phụ thuộc vào khả năng chiếm lĩnh, thu thập kịp thời, lĩnh hội thích hợp và sử dụng sáng tạo những thông tin mới sẽ không thể thiếu một hệ thống thư viện hiện đại - Thư viện số. Thư viện số cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo từ điển Dictionary for Library and Information Science của Joan M. Reitz: “Thư viện số là một thư viện trong đó ngoài tài liệu in ấn và tài liệu dạng thu nhỏ (vi phẩm), có phục vụ độc giả một tỷ lệ quan trọng tài nguyên dạng máy đọc được truy cập qua máy tính được gọi là Tài nguyên số (Digital Resources). Tài nguyên số có thể là tài liệu nội sinh mà cũng có thể được truy cập từ xa qua mạng máy tính. Tiến trình số hoá trong thư viện bắt đầu từ hệ thống mục lục, chỉ mục tạp chí và dịch vụ tóm tắt tài liệu đến ấn phẩm định kỳ và tài liệu tham khảo và cuối cùng là sách in”. Thư viện số còn được hiểu là sự kết hợp những đối tượng vật chất được tiếp cận trong không gian vật chất, với đối tượng điện tử hiện hữu trong không gian điện tử và có thể được truy cập hầu như khắp mọi nơi. Cụ thể hơn, thư viện số ngày nay là sự kết hợp tài nguyên bao gồm không những tài liệu in ấn truyền thống, mà còn có cả sách điện tử và tạp chí điện tử, cơ sở dữ liệu trực tuyến và những bộ sưu tập điện tử do thư viện xây dựng hay do nhà thầu cung cấp từ bên ngoài (Nguyễn Minh Hiệp, 2014). Theo Luật Thư viện 2019, “Thư viện
  5. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 434 số là thư viện hoặc bộ phận của thư viện có tài nguyên thông tin được xử lý, lưu giữ dưới dạng số mà người sử dụng thư viện truy cập, khai thác thông qua thiết bị điện tử và không gian mạng”. Điểm chung của các khái niệm về thư viện số trên là tất cả những thư viện truyền thống nào có tổ chức phục vụ một số lượng đáng kể tài nguyên số. Và theo thời gian số lượng các tài liệu số sẽ dần thay thế số lượng tài liệu in ấn truyền thống bởi tính tiện lợi trong sử dụng, đồng thời khắc phục được ảnh hưởng của các yếu tố không gian và thời gian. Với sự phát triển của thư viện thông minh, người đọc có thể tiếp cận tài liệu với số lượng lớn hơn, tốc độ tìm kiếm và truy xuất nhanh hơn đồng thời có thể sử dụng ở nhiều nơi và không bị phụ thuộc vào yếu tố thời gian. Thư viện số là sự kết hợp hài hòa giữa thông tin kiểu truyền thống (sách, báo in ấn) với thông tin kỹ thuật số (các thông tin được số hóa) do đó có cơ sở để phát triển. Để “trái tim của xã hội thông tin” thực sự có sức lan tỏa, làm bệ phóng quan trọng cho sự phát triển của kinh tế - xã hội, đòi hỏi hệ thống thư viện cần được phát triển cả về chiều rộng chiều sâu. Với việc gia tăng số lượng thư viện tại các địa phương, các trường đại học, các viện nghiên cứu, các cấp học phổ thông cũng như các số lượng các loại sách, báo; gia tăng số lượng các phương thức tìm kiếm, truy cập và sử dụng thông tin như thư viện truyền thống, thư viện điện tử… sẽ tăng khả năng tiếp cận cho độc giả. Bên cạnh đó, hệ thống thư viện cần được nâng cao chất lượng cả về trang thiết bị kỹ thuật, đa dạng hóa các loại sách, báo, tạp chí nhất là phải gia tăng chất lượng của đội ngũ nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực này. 1.3. Đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam Với việc gia tăng hệ thống thư viện cả về số lượng, chất lượng, sự cạnh tranh gay gắt đang thực sự diễn ra. Đơn vị nào có khả năng cung cấp được dịch vụ tốt hơn, với giá thành, chi phí rẻ hơn, cách tiếp cận thuận lợi hơn sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận và thu hút người đọc. Việc này đặt ra yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực thư viện số cần phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Theo ThS. Hoàng Minh Bắc, Trung tâm Thông tin và Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội, nhiệm vụ cơ bản của giáo dục và đào tạo cán bộ thông tin thư viện là làm sao để sinh
  6. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 435 viên có định hướng một cách chuyên nghiệp trong khối công nghệ bao la, nắm bắt được các kỹ năng cần thiết để nghiên cứu, phát triển các hướng ứng dụng công nghệ hiện đại vào trong thực tiễn hoạt động của thư viện. Do đó, việc thay đổi quan điểm trong đào tạo cán bộ thông tin thư viện không thể tách rời các thay đổi liên quan đến xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức, quản trị tri thức và giáo dục, đào tạo hiện đại. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 50 trường đại học, cao đẳng có tổ chức đào tạo chuyên ngành Thông tin thư viện với các cấp đào tạo từ trung cấp, đại học, và sau đại học. Ngoài các trường đào tạo có uy tín lâu năm như Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh thì một số trường đại học khác cũng đã mở chuyên ngành đào tạo này. Điều này chứng minh cho nhu cầu cao của xã hội với ngành thông tin thư viện, tuy nhiên cũng đặt ra nhiều vấn đề về công tác đào tạo. Theo đánh giá của PGS.TSKH. Bùi Loan Thùy thì chất lượng nguồn nhân lực tuy bước đầu đã được nâng cấp nhưng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh và hội nhập quốc tế, các điểm yếu chính của nhân lực trong ngành thông tin thư viện là: chưa làm chủ được công nghệ, kỹ năng chuyên nghiệp yếu, thiếu tư duy sáng tạo (Bùi Loan Thùy, 2014). Các hạn chế trong công tác đào tạo trên bắt nguồn từ chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo chưa phù hợp và đội ngũ giảng viên thiếu kỹ năng. Thực chất của các hạn chế là hiện chúng ta vẫn chưa có cơ chế, chính sách hiệu quả nhằm khuyến khích hoạt động đào tạo nhân lực nói chung và đào tạo nhân lực thư viện số nói riêng. Trong khi tài chính luôn là một động lực quan trọng tác động đến hành vi của con người, thì vai trò của chính sách tài chính trong đào tạo nhân lực thư viện số thời gian qua chưa được thể hiện nổi bật, chưa tạo ra động lực lớn cho cả người học lẫn người dạy. Bên cạnh đó, vấn đề thu nhập, việc làm đối với nhân lực thư viện số sau khi tốt nghiệp chưa được quan tâm đúng mức cũng là nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
  7. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 436 2. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH VỚI ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THƯ VIỆN SỐ TẠI VIỆT NAM 2.1. Hệ thống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực thư viện số Đảng và Nhà nước ta nhất quán quan điểm xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Trung ương 3, (khoá VII) năm 1993 khẳng định: “Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”1. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”2. Nghị quyết Trung ương 8, (khoá XI) năm 2013 một lần nữa khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) xác định: “Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2006, tr.94-95. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011, tr.77.
  8. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 437 Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, được ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 06 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã xác định: Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách Nhà nước dành cho phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù. Đặc biệt, Luật số 46/2019/QH14 ngày 21/11/2019 (Luật Thư viện) ra đời tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của hệ thống thư viện. Luật Thư viện được ban hành tương đối đầy đủ các nội dung liên quan sự phát triển của thư viện, thư viện số, hiện đại hóa thư viện… Trong đó, có ban hành nội dung liên quan đến nguồn tài chính cho phát triển thư viện, theo đó nguồn tài chính của thư viện bao gồm: (i) Nguồn ngân sách nhà nước; (ii) Nguồn thu từ dịch vụ thư viện; (iii) Nguồn tài trợ, viện trợ, tặng cho, đóng góp từ tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; (iv) Nguồn thu hợp pháp khác (Điều 35, Luật Thư viện 2019). Như vậy, một hệ thống các văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục. Luật Giáo dục, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ, ngành, Quyết định của các đơn vị có liên quan đã tạo được ban hành tương đối đầy đủ, hoàn thiện. Các văn bản này tập trung vào việc tạo cơ chế theo hướng thuận lợi, nâng cao chất lượng chất giáo dục, bắt kịp với xu thế phát triển của kinh tế - xã hội, hội nhập với quốc tế. 2.2. Chính sách tài chính cho đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam Trên thực tế, các chủ trương, chính sách tài chính cho đào tạo nhân lực thư viện số tại Việt Nam đang được thể hiện trong một hệ thống các chính sách chung về đào tạo, phát triển giáo dục. Hệ thống các chính sách này bao gồm các chính sách liên quan đến chi Ngân sách
  9. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 438 Nhà nước, chính sách ưu đãi về thuế, chính sách ưu đãi tín dụng và các chính sách ưu đãi khác, cụ thể sau: Thứ nhất, chính sách chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục. Nhà nước luôn chú trọng đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục – đào tạo, điều này được thể hiện trong tỷ trọng của nguồn chi cho giáo dục – đào tạo luôn ở mức cao và ổn định theo thời gian. Hình 1. Chi cho giáo dục, đào tạo tổng chi tiêu công của Việt Nam với một số nước, khu vực (%) (Nguồn: Ngân hàng Thế giới) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo, đồng thời huy động thêm nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục. Theo quy định tại điều 96, Luật Giáo dục năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2020): Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu là 20% tổng chi ngân sách nhà nước; Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục được phân bổ theo nguyên tắc công khai, dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng; bảo đảm ngân sách để thực hiện phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nhà nước có trách nhiệm bố trí kinh phí đầy đủ, kịp thời để thực hiện phổ cập giáo dục và phù hợp với tiến độ của năm học; Cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả phần ngân sách giáo dục được giao và nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.
  10. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 439 Bên cạnh đó, chính sách đầu tư cho giáo dục hướng tới đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục – đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, huy động xã hội tham gia vào quá trình giáo dục – đào tạo, tạo điều kiện và cơ hội để mọi người dân được hưởng thụ thành quả của giáo dục – đào tạo. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất – kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. Thứ hai, chính sách thuế. Chính sách thuế hiện có nhiều ưu đãi đối với hoạt động giáo dục, điều này được thể hiện trong quy định tại các Luật thuế có liên quan (Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Thu nhập cá nhân, Thuế Xuất nhập khẩu..). Tại Khoản 2, Điều 13, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (năm 2013), quy định về áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường, đây là mức thuế suất bằng 50% so với mức thuế suất chung của các doanh nghiệp trong (từ ngày 01/01/2016 mức thuế suất Thuế Thu nhập doanh nghiệp là 20%). Tại Điều 5, Luật Thuế Giá trị gia tăng năm 2008 quy định, việc: Dạy học, dạy nghề theo quy định của pháp luật; Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách khoa học – kỹ thuật, sách in bằng chữ dân tộc thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, kể cả dưới dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử; in tiền; không thuộc đối tượng phải chịu thuế Giá trị gia tăng. Đồng thời tại Điều 8, áp dụng mức thuế suất 5% (bằng 50% so với các sản phẩm hàng hóa thông thường) đối với giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các loại mô hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, com-pa và các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học… Thứ ba, chính sách tín dụng và các chính sách hỗ trợ khác. Hiện chính sách ưu đãi tín dụng bao gồm ưu đãi về lãi suất, ưu đãi về thời hạn. Các hoạt động này được thực hiện thông qua hệ thống các ngân hàng chính sách xã hội, quỹ đầu tư phát triển địa phương, đặc biệt là các khoản vay từ nguồn viện trợ ODA từ các tổ chức quốc tế.
  11. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 440 Bên cạnh đó là các ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai xây dựng trường học, theo đó các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân các cấp có trách nhiệm đưa việc xây dựng trường học, công trình thể dục, thể thao, văn hóa, nghệ thuật phục vụ giáo dục vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương; ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai cho việc xây dựng trường học và ký túc xá cho học sinh, sinh viên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 2.3. Một số tồn tại, hạn chế của chính sách tài chính cho đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam Hiện các chính sách chính sách tài chính cho đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam chưa có chính sách riêng mà được thực hiện trong tổng thể chung của các chính sách cho giáo dục - đào tạo, do đó việc đánh giá cũng được thực hiện theo cách này. Thực tế cho thấy, bên cạnh những thành công đã đạt được, chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo của Việt Nam còn có những hạn chế, bất cập như: Một là, cơ cấu đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa hợp lý. Sự thiếu hợp lý được thể hiện ở cơ cấu chi cho các nhiệm vụ, nội dung chi. Theo đó, tỷ lệ chi thường xuyên chiếm trên dưới 82% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Trong chi thường xuyên, chi cho con người chiếm 80% tổng chi, còn lại chi cho hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng giáo trình. Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp so với nhu cầu nâng cao cơ sở trường học, mua sắm thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm... dẫn đến cơ sở vật chất, thiết bị của nhiều cơ sở dạy nghề thiếu về số lượng và lạc hậu về chất lượng. Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa được quan tâm đúng mức. Cơ cấu chi chưa hợp lý dẫn
  12. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 441 đến chất lượng giáo dục thấp. Sinh viên sau khi tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng những kiến thức được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết cho hội nhập, khả năng thích ứng với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế. Hai là, trong cơ cấu chi tiêu cho giáo dục, đào tạo có sự không tương xứng trong đầu tư cho các bậc học. Trên thực tế ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đại học còn hạn chế với 12% tổng ngân sách dành cho giáo dục, chỉ bằng gần một nửa so với kinh phí dành cho bậc tiểu học. Phân loại theo cấp học, chi tiêu cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông chiếm xấp xỉ 70% tổng chi cho giáo dục. Tình trạng mất cân đối về cơ cấu giáo dục đại học và chi tiêu cho giáo dục đại học dẫn đến thiếu lực lượng lao động chất lượng cao trong hầu hết các ngành công nghiệp, công nghệ thông tin, các ngành khoa học công nghệ - điều kiện quan trọng quyết định phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam. Thứ ba, các chính sách miễn giảm thuế, ưu đãi tín dụng và các chính sách ưu đãi khác vẫn chưa tạo được sức hút mạnh mẽ đối với đơn vị đầu tư vào lĩnh vực này. Đối với chủ trương xã hội hóa giáo dục, hiện chỉ một số đơn vị, tập đoàn lớn đầu tư như FPT, Vingroup, TH… Tuy nhiên, việc đầu tư vào giáo dục trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực mà xã hội có nhu cầu cao như: công nghệ thông tin, y tế, tài chính, ngân hàng… mà chưa có nhiều đầu tư cho khối ngành về thông tin thư viện. Đối nguồn vốn vay ODA, hiện các văn bản quy định trong việc sử dụng nguồn vốn này đã không còn phù hợp với yêu cầu của tình hình mới (Thông tư số 06/2011/TT-BGDDT ngày 11/01/2011 quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ nước ngoài của Bộ Giáo dục và Đào tạo) dẫn đến một số hạn chế như công tác xây dựng và phân bổ kế hoạch vốn ODA, việc giao dự toán còn chậm, chưa phù hợp quy định của Luật Ngân sách Nhà nước; kế hoạch (tài chính, hoạt động) của Bộ Giáo dục và Đào tạo còn tình trạng phê duyệt chậm, điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, trong đó một số lần rơi vào thời điểm tháng 11, 12 của niên độ ngân sách…
  13. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 442 Đặc biệt hiện nay việc đào tạo chuyên ngành này đã sụt giảm mạnh tại các trường đại học khối tư thục. Một số trường từng có đào tạo ngành này như Trường Đại học Thành Đô, Trường Đại học Phương Đông, Trường Đại học Đông Đô… hiện đã không còn đầu tư do nhu cầu người học giảm sút. Trong mục tiêu chung hướng tới nâng cao số lượng, chất lượng cũng như chủ trương xã hội hóa các hoạt động đào tạo thì đây đang là vấn đề cần tìm ra hướng đi phù hợp, nhất là trong vấn đề về cơ chế tài chính. 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ Để phát triển chất lượng đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam, cần phối hợp tổng thể nhiều chính sách, trong đó chính sách tài chính đóng vai trò quan trọng. Việc ban hành, thực thi hiệu quả chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng hiệu quả các yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo như: hệ thống cơ sở vật chất, học liệu, giáo trình; chất lượng, phương pháp giảng dạy của giảng viên; bên cạnh đó giải quyết tốt vấn đề thu nhập của các sinh viên sau khi tốt nghiệp được đảm bảo với mức lương phù hợp sẽ tạo điều kiện khuyến khích các sinh viên đăng ký, theo học nhiều hơn. Thời gian tới, chính sách tài chính cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam nên tập trung vào các giải pháp cụ thể như sau: Thứ nhất, đối với chính sách chi của ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo. Duy trì mức chi đầu tư cho giáo dục – đào tạo đồng thời cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo theo hướng tăng chi đầu tư phát triển, giảm chi thường xuyên. Trước hết, đầu tư mua giáo trình các môn học khoa học tự nhiên, công nghệ của các cấp học từ các nước có nền giáo dục hiện đại. Trong bối cảnh yêu cầu cao của nguồn nhân lực trong nền kinh tế số, đòi hỏi các phương tiện giảng dạy, giáo trình, các thiết bị thực hành cần được trang bị phù hợp với yêu cầu thực tế. Do vậy, cần đặc biệt quan tâm, chú trọng đến các khoản chi đầu tư cho đầu tư phát triển.
  14. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 443 Điều chỉnh cơ cấu chi giữa các bậc học, ngành học: Cần ưu tiên phát triển hài hòa tỷ lệ giữa các ngành đào tạo, thực hiện tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa giáo dục. Nhà nước cần dự báo, từ đó xây dựng, thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực theo ngành nghề, đảm bảo hỗ trợ cho lĩnh vực, ngành nghề mà khả năng xã hội hóa chưa cao như đào tạo cán bộ thông tin thư viện. Với đặc thù của ngành Thông tin thư viện là ngành mà nhu cầu sử dụng chỉ tập trung ở khối các cơ sở đào tạo, chủ yếu trong đơn vị công lập do vậy việc thu hút nguồn vốn xã hội hóa cho hoạt động đào tạo hạn chế. Thời gian tới cần xác định nguồn chi cho giáo dục đào tạo nhân lực thư viện kỹ thuật số tập trung từ ngân sách Nhà nước và chủ yếu được đào tạo tại các cơ sở đào tạo công lập. Phương thức phân bổ ngân sách Nhà nước cho các trường đại học chuyển sang cơ chế đặt hàng. Trường nào tốt thì Nhà nước sẽ đặt hàng, trường nào làm không tốt ngân sách Nhà nước sẽ không cấp kinh phí. Tuy nhiên, cần có lộ trình trong việc thực hiện các giải pháp về cơ cấu lại chi Ngân sách Nhà nước đối với khối giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng: Không bao cấp dàn trải đối với tất cả các cơ sở đào tạo; Thực hiện nguyên tắc từng bước tăng thu từ người học để bù đắp chi phí đào tạo theo lộ trình điều chỉnh giá, phí quy định tại Nghị định 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Thứ hai, đối với chính sách ưu đãi thuế, tín dụng: Cần tiếp tục duy trì các mức ưu đãi thuế bao gồm các chính sách miễn, giảm thuế (Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Xuất nhập khẩu…) đối với lĩnh vực đào tạo. Cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, minh bạch đối tượng nhận hỗ trợ. Với việc coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, việc mở rộng đối tượng nhận các ưu đãi cũng như gia tăng mức độ ưu đãi cần được tính đến trong việc ban hành các quy định thực hiện. Đối với vấn đề sử dụng vốn vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế: Cần sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Thông tư số 06/2011/TT-BGDDT ngày 11/01/2011 quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ nước
  15. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 444 ngoài của Bộ Giáo dục và Đào tạo do không còn phù hợp với các quy định hiện hành. Đồng thời, cần tổ chức, quản lý, theo dõi, đánh giá sau đầu tư đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, đánh giá hiệu ứng đem lại của các chương trình, dự án. Từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm để việc triển khai đạt hiệu quả tốt hơn cho các chu trình sau. Đối với hoạt động hỗ trợ người học. Nhà nước hỗ trợ trực tiếp học phí đối với một số đối tượng thuộc diện chính sách; cho vay tín dụng ưu đãi đối với sinh viên thuộc gia đình nghèo, cận nghèo. Các chính sách hỗ trợ cần gắn với tình hình thực tế của từng đối tượng, phù hợp với thực tế về các mức sinh hoạt, chi phí… Đối với cơ chế tài chính cho các cơ sở giáo dục, đào tạo: cần được đổi mới theo hướng tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo. Ngân sách Nhà nước đầu tư theo thực tế đối tượng thụ hưởng chính sách, không nên tính bình quân một mức cho tất cả các trường, ngành học và các nghề./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (2019), “Chính sách: Chìa khóa thúc đẩy phát triển Kinh tế số”. 2. UNCTAD (2019),  Digital economy report 2019: Value creation and capture: Implications for developing countries Investment and technology. 3. Kim An (2019), “Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn ODA của ngành giáo dục - đào tạo”; truy cập: http://baokiemtoannhanuoc.vn/qua-ket- qua-kiem-toan/nang-cao-hieu-qua-quan-ly-su-dung-von-oda-cua-nganh-giao- duc---dao-tao-142135 4. Đinh Thị Nga (2017), “Đầu tư của Nhà nước cho giáo dục, đào tạo: Thực trạng và một số đề xuất”; truy cập: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu- trao-doi/dau-tu-cua-nha-nuoc-cho-giao-duc-dao-tao-thuc-trang-va-mot-so-de- xuat-130918.html 5. Cục Thông tin khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, (2018), Giải pháp, chính sách phát triển kinh tế số.
  16. Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam 445 6. Nguyễn Minh Phong (2019), “Nhận diện Kinh tế số”, truy cập: https:// nhandan.com.vn/kinhte/item/42307702-nhan-dien-kinh-te-so.html 7. Nguyễn Minh Hiệp (2014), “Thư viện số và vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt Nam”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 3. tr. 20-25,37 8. Bùi Loan Thùy (2014), “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bậc đại học và cao học thư viện thông tin trong không gian phát triển mới”, Tạp chí Thư viện Việt Nam. 9. Mai Tiến Dũng (2018), “Xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số ở Việt Nam”; truy cập: http://egov.chinhphu.vn/ xay-dung-chinh-phu-dien-tu-huong-toi-chinh-phu-so-va-nen-kinh-te-so-o-viet- nam-a-NewsDetails-37599-14-186.html
nguon tai.lieu . vn